Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc dự định triển khai hệ thống quan sát dưới đáy biển. Trung Quốc lên kế hoạch chi 2 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 290 triệu USD) cho kế hoạch xây dựng hệ thống quan sát khổng lồ dưới đáy biển Biển Đông và Biển Hoa Đông. Theo đó, “Hệ thống này sẽ cung cấp thông tin theo thời gian thực và hỗ trợ nghiên cứu về điều kiện môi trường biển của hai vùng biển trên.” Theo Đài truyền hình CCTV, dự kiến sẽ mất khoảng 5 năm để lắp đặt và vận hành các hệ thống quan sát này. Ngoài ra, một trung tâm dữ liệu cũng sẽ được xây dựng tại Thượng Hải để theo dõi và lưu trữ các thông tin hóa học, sinh học và địa chất học do các hệ thống này thu thập được.

Trung Quốc đề nghị Nhật Bản thận trọng về vấn đề Biển Đông. Trong cuộc hội đàm hôm 29/5 tại Tokyo với người đứng đầu văn phòng Hội đồng An ninh quốc gia Nhật Shotaro Yachi, Ủy viên Quốc Vụ Viện Trung Quốc Dương Khiết trì cho hay, "Trung Quốc hy vọng Nhật Bản cẩn trọng hơn trong những tuyên bố và hành động liên quan tới vấn đề Biển Đông. Thêm nữa, Tokyo cần đóng vai trò xây dựng khi các bên liên quan đang cố gắng giải quyết đúng đắn vấn đề.” Ông Dương cho hay việc tin tưởng lẫn nhau là rất cần thiết cho sự phát triển quan hệ bền vững giữa Trung - Nhật. Cuộc gặp diễn ra trong khuôn khổ đối thoại chính trị cấp cao lần thứ tư giữa hai nước.

+ Malaysia:

Malaysia khẳng định cần giải quyết hòa bình tranh chấp biển. Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 16 ở Singapore hôm 3/6, Bộ trưởng quốc phòng Malaysia Hishammuddin Hussein nêu rõ, “Trong khi những tiến bộ đạt được về khung COC giữa Trung Quốc và ASEAN là đáng khích lệ nhưng các bên cần thận trọng. Nguy cơ xảy ra các vụ việc tình cờ, không chủ đích trên không và trên biển vẫn hiện hữu rất lớn. Trong bối cảnh đó, các bên cần dẹp cái tôi và sự giận dữ để tiến tới phía trước. Tranh cãi gay gắt không giúp ích gì. Quan điểm của Malaysia là rõ ràng và nhất quán: Vấn đề Biển Đông phải được giải quyết hòa bình và thông qua cơ chế đa phương, đặc biệt là cơ chế có sự tham gia gia của các bên liên quan như ASEAN.” Bên lề Đối thoại Shangri-La, ông Hishammuddin khẳng định Malaysia phản đối việc quân sự hóa đảo nhân tạo và vấn đề Biển Đông "có thể kiểm soát được”.

+Singapore:

Thủ tướng Lý Hiển Long: Singapore ủng hộ sáng kiến “Một vành đai, một con đường”. Trả lời phỏng vấn của Đài truyền hình Úc ABC hôm 3/6, đề cập đến sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như sáng kiến “Một vành đai, một con đường -OBOR”, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long khẳng định nhiều nước, trong đó cả Singapore đều nhìn nhận một cách tích cực đối với sáng kiến OBOR. Những dự án và kết hoạch đầu tư, bao gồm tiền vốn, thương mại đến từ Trung Quốc đem lại nhiều cơ hội cho các nước liên quan. Singapore ủng hộ sáng kiến “Một vành đai, một con đường” và Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng AIIB. Liên quan đến sự dịch chuyển trong cán cân chiến lược tại khu vực, Thủ tướng Lý Hiển Long cho rằng kết quả bầu cử của Mỹ không phải nguyên nhân dẫn đến sự chuyển dịch này. Việc Trung Quốc không ngừng phát triển, nhất là sức mạnh kinh tế, sẽ tiếp tục duy trì. Singapore hy vọng Trung Quốc có thể phát huy vai trò mang tính xây dựng trong một khuôn khổ quốc tế mà các nước không phân biệt lớn nhỏ đều có cơ hội phát triển và trong một trật tự quốc tế lấy các nguyên tắc làm nền tảng.

+ Mỹ:

Thượng nghị sỹ Mỹ chỉ trích lối hành xử trên biển của Trung Quốc. Trong bài phát biểu tại Sydney hôm 30/5, Thượng Nghị sỹ John McCain, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Quân lực của Thượng viện Mỹ, cho rằng, "Thách thức hiện nay là với sự giàu có và sức mạnh, Trung Quốc đang ngày càng hành xử giống với “kẻ bắt nạt”. Trung Quốc từ chối mở rộng nền kinh tế cho các công ty nước ngoài có thể cạnh tranh công bằng, đồng thời  đánh cắp các sở hữu trí tuệ của nước khác. Trung Quốc khẳng định yêu sách trên biển không dựa trên luật pháp, và sử dụng thương mại và đầu tư như các công cụ để cưỡng ép các nước láng giềng.”

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ chỉ trích Trung Quốc quân sự hóa khu vực. Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 16 ở Singapore hôm 3/6, Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis khẳng định, “Mỹ cam kết bảo vệ các quyền, việc tự do lưu thông và sử dụng hợp pháp biển cả. Phán quyết của Tòa trong vụ kiện của Philippines năm 2016 mang tính ràng buộc. Các bên cần coi đây là điểm khởi đầu để quản lý hóa bình tranh chấp. Hoạt động cải tạo đảo của Trung Quốc tại Biển Đông 4 điểm khác biệt với các bên khác: (i) bản chất hoạt động quân sự hoá; (ii) coi thường luật pháp quốc tế; (iii) xem nhẹ lợi ích của các quốc gia khác; (iv) đi ngược lại với biện pháp giải quyết tranh chấp hoà bình. Ông Mattis tuyên bố Mỹ phản đối các bên quân sự hóa các đảo nhân tạo và thúc đẩy yêu sách không dựa trên luật pháp quốc tế.

+ Úc:

Thủ tướng Úc cảnh báo về hành vi cưỡng ép của Trung Quốc. Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2017 ở Singapore tối 2/6, Thủ tướng Úc Malcolm Turnbull tuyên bố, “Nếu chúng ta muốn duy trì tính năng động của khu vực thì chúng ta phải bảo vệ hệ thống vốn có dựa trên các nguyên tắc. Điều này có nghĩa là hợp tác chứ không phải hành động đơn phương để tạo ra lãnh thổ, quân sự hóa các khu vực tranh chấp. Duy trì nền tảng pháp quyền trong khu vực, tôn trọng chủ quyền của nhau, dù là nước lớn hay nước nhỏ chính là chìa khóa để tiếp tục đảm bảo hòa bình và ổn định.” Ông Turnbull khẳng định Trung Quốc là nước hưởng lợi nhiều nhất từ hoà bình và hoà hợp tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, vì vậy, cũng sẽ mất nhiều nhất nếu điều đó bị đe doạ, “Một Trung Quốc hành động cưỡng ép sẽ vấp phải sự phản kháng của các nước láng giềng. Họ sẽ tìm cách đối trọng với Bắc Kinh bằng cách thúc đẩy các liên minh, đặc biệt là với Mỹ".

+ Nhật Bản:

Nhật Bản bày tỏ quan ngại về tình hình Biển Đông. Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2017 ở Singapore hôm 3/6, B trưởng Quốc phòng Nhật Bản Tomomi Inada cho hay, “ Biển Hoa Đông và Biển Đông, chúng ta tiếp tục chứng kiến lối hành xử đơn phương, khiêu khích làm thay đổi nguyên trạng dựa trên yêu sách không phù hợp với luật pháp hiện hành. Biển Đông, bất chấp Phán quyết năm 2016 mang tính ràng buộc, hoạt động xây dựng tiền đồn và sử dụng cho mục đích quân sự vẫn tiếp diễn. Tóm lại, trật tự khu vực dựa trên luật pháp đang bị thách thức. Nếu chúng ta hướng tới hòa bình và sự thịnh vượng, chúng ta cần quyết tâm. Chúng ta không thể đ các lợi ích ngắn hạn làm tổn hại những lợi ích chung trong dài hạn của mình. Đây là thời điểm cần đấu tranh bảo vệ trật tự dựa trên luật pháp.”

Quan hệ các nước

Mỹ - Việt kêu gọi tuân thủ luật pháp ở Biển Đông. Nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc từ ngày 29-31/5, hai nước ra Tuyên bố chung về tăng cường Đối tác toàn diện. Tuyên bố chung có đoạn, “Tổng thống Donald Trump và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo tự do hàng hải, hàng không và sử dụng biển hợp pháp. Hai bên khẳng định hoàn toàn ủng hộ việc giải quyết hòa bình các tranh chấp, không đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có việc tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao và pháp lý; kêu gọi tất cả các bên liên quan thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ pháp lý quốc tế trong quá trình giải quyết tranh chấp. Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh các bên cần kiềm chế, không có các hành động có thể gây gia tăng căng thẳng, như quân sự hóa các thực thể tranh chấp.”

Việt Nam trao trả viên chức ngư nghiệp Indonesia. Tổng thư ký Bộ Hàng hải và Ngư nghiệp Indonesia Rifky Hardjianto cho hay sau khi hai nước “phối hợp chặt chẽ qua các kênh ngoại giao”, viên chức Gunawan Wibisono đã về tới thủ đô Jakarta hôm 29/5. Ông Wibisono được cảnh sát biển Việt Nam cứu hộ trong vụ va chạm giữa lực lượng chấp pháp hai bên hôm 21/5.

Ấn Độ - Tây Ban Nha kêu gọi giải quyết tranh chấp biển theo luật pháp. Tuyên bố chung sau cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Tổng thống Tây Ban Nha Mariano Rajoy hôm 31/5 nhấn mạnh, “Hai nhà lãnh đạo thúc giục các bên giải quyết tranh chấp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, có hành động kiềm chế, và tránh các hành động đơn phương làm gia tăng căng thẳng. Về Biển Đông, hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp theo các nguyên tắc phổ quát của luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS.”

Phân tích và đánh giá

Canh bạc Đông Nam Á của Trung Quốccủa Gatra Priyandita and Trissia Wijaya

Với sự lớn mạnh về kinh tế và năng lực quân sự của Trung Quốc, các nước Đông Nam Á đối mặt với cả những thách thức và cơ hội từ sự trỗi dậy này. Do đó, bất kỳ nỗ lực nào của Trung Quốc nhằm thắt chặt quan hệ với Đông Nam Á đều gặp phải sự nghi ngờ từ các nước trong khu vực.

Đông Nam Á và Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI)

BRI được coi là một điểm sáng về hợp tác kinh tế. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng mục tiêu của BRI không chỉ dừng lại ở khía cạnh kinh tế. Mặc dù Trung Quốc đã phủ nhận mọi cáo buộc liên quan đến mục đích địa chính trị của Sáng kiến này, nhưng việc BRI được triển khai cùng lúc với hàng loạt các tranh chấp trên biển, ví dụ như ở Biển Đông, đã khiến các nhà quan sát khó lòng không suy xét đến động cơ địa chính trị của Sáng kiến này.

Trong khi đó, các nước Đông Nam Á đã nhanh chóng nhận các khoản cho vay và đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng của khu vực từ Sáng kiến BRI. Sáng kiến này cũng được coi là một chiêu bài của Trung Quốc để can thiệp vào khu vực Đông Nam Á tiềm năng.

Mối quan ngại và nghi ngờ bắt nguồn từ lịch sử

Những quan điểm có phần tiêu cực về cách nhìn nhận Trung Quốc bắt nguồn từ những sự kiện trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Ngoài ra, sự thiếu tin tưởng của các nước Đông Nam Á đối với các quốc gia bên ngoài dẫn đến những nghi ngờ về ý định của Trung Quốc. Thách thức của Trung Quốc từ trước đến nay vẫn luôn là việc giữ được lòng tin của ASEAN. Trong khi hiệu quả của BRI còn đang phải xem xét, thì các dự án đang bộc lộ ngày càng rõ những khuyết điểm của nó. Do đó, Trung Quốc sẽ rất khó tiếp tục đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng trong khu vực.

Các tập đoàn Trung Quốc và BRI

Sáng kiến BRI phần lớn được thực hiện bởi các tập đoàn và ngân hàng nhà nước, cũng như các công ty tư nhân. Nếu thiếu sự nhất quán về chính sách hay thiếu những nghiên cứu về tính khả thi của dự án, các dự án này khó có thể đi vào hoạt động.

Ngoài sự thiếu hiểu biết về địa phương, các dự án sử dụng vốn từ Trung Quốc thường bị đánh giá là không chất lượng và thiếu nghiên cứu về tính khả thi. Về vấn đề này, Trung Quốc có thể học hỏi nhiều kinh nghiệm từ Nhật Bản. Học thuyết Fukuda của Nhật Bản dành ưu tiên cho các chủ thể phi chính phủ trong khu vực, ví dụ như các viện nghiên cứu. Điều này giúp những người hoạch định chính sách Nhật Bản hiểu hơn về khu vực, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn về văn hóa và nhân học.

Quan tâm đến xã hội ở nước sở tại giúp Trung Quốc hiểu hơn về lợi ích các nước này, đồng thời giành được sự tin tưởng ở khu vực. Mặc dù những động thái này có lẽ chưa thể hoàn toàn chuyển nhận thức của các nước ASEAN đối với Trung Quốc sang một hướng tích cực hơn, đặc biệt là khi Trung Quốc vẫn tiếp tục quân sự hóa các thực thể trên Biển Đông, nhưng nó có thể cải thiện quan hệ các bên và giúp Trung Quốc xây dựng hình ảnh một nước lớn luôn sẵn sàng giúp đỡ.

Đánh giá lại ASEAN về Biển Đông: Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 30 có thể cho biết gì về khả năng của ASEAN?” của Kei Koga

Kết quả Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần 30 là một điều đáng thất vọng, dù không bất ngờ.

Bằng những thông cáo báo chí, tuyên bố của chủ tịch và tuyên bố chung, ASEAN thu hút chú ý của cộng đồng quốc tế về Biển Đông và định hình nhận thức quốc tế. Tuy nhiên, những nỗ lực này còn có tác động phụ là khiến ASEAN có vẻ như là kênh đa phương khu vực duy nhất có khả năng xử lý vấn đề Biển Đông, một điều không đúng sự thật. Do đó, cần đánh giá khả năng của ASEAN trên Biển Đông một cách công bằng hơn và thừa nhận bốn hạn chế về thể chế của ASEAN về Biển Đông.

Thứ nhất, ASEAN là một tổ chức khu vực không được lập ra nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể. ASEAN là một thể chế tổng hợp các lợi ích quốc gia của các thành viên với mục tiêu ngăn chặn Đông Nam Á bị gạt ra ngoài trong các vấn đề Đông Á, cũng như sự can thiệp quá mức của bên ngoài. Ngoài ra, mỗi quốc gia thành viên có lợi ích riêng và vị thế chính trị riêng.

Thứ hai, ASEAN dường như không thể hiện được tính thống nhất trong bất kỳ tuyên bố chính thức cụ thể nào về Biển Đông. Rất khó, nếu không phải là không thể, để ASEAN thảo luận một cách rõ ràng về quyết định của tòa trọng tài năm 2016. Điều này được thể hiện trong những thất bại liên tục của ASEAN khi đưa ra một tuyên bố chung hoặc tuyên bố trước và sau kết luận của tòa trọng tài ngày 12/7/ 2016.

Thứ ba, tuyên bố của Chủ tịch không phải là một tài liệu đồng thuận và không nhằm đại diện cho toàn thể ASEAN. Có thể nói ASEAN không có khả năng đạt được đồng thuận, nhưng không thể nói tổ chức này thỏa hiệp với Trung Quốc.

Thứ tư, không thể bỏ qua tầm quan trọng của chính sách đối nội của các nước thành viên ASEAN. Tuyên bố chính thức của ASEAN có thể bị ảnh hưởng lớn bởi những thay đổi chính trị trong bất kỳ nước thành viên  nào vì thủ tục ra quyết định đồng thuận.

Với những hạn chế về thể chế, vị thế chính trị của ASEAN tương đối lỏng lẻo.

Cần phải cân nhắc hai chỉ số phi ASEAN nữa. Chỉ số đầu tiên và quan trọng nhất là liệu một trong những nước yêu sách có theo đuổi việc quân sự hóa hay cải tạo đảo trong các khu vực tranh chấp hay không. Chỉ số thứ hai là liệu Philippines có thể hy sinh phán quyết năm 2016 vì các lợi ích chính trị và kinh tế khác mà không giải quyết dứt khoát các vấn đề lãnh thổ hay không.

Ba chỉ số - sự phát triển của khuôn khổ hợp tác ASEAN, tình trạng quân sự hóa, cải tạo và quyết định của Manila đối với phán quyết - là thước đo hữu ích cho tình hình. Theo đó, mốc quan trọng tiếp theo của ASEAN là cuối tháng 7, khi dự thảo COC  hoàn thành. Đồng thời, ASEAN không phải là chủ thể duy nhất ở Biển Đông. Các quốc gia bên ngoài có vai trò đáng kể trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, khi ba điều kiện này tương đối ổn định, vai trò của các quốc gia bên ngoài nên tập trung vào xây dựng năng lực quân sự và bảo vệ bờ biển nhằm nâng cao khả năng ngăn chặn và quản lý hậu quả ở Biển Đông.

Biển Đông: Quân bài mặc cả hay lợi ích chiến lược của Mỹ?” của Donald K. Emmerson

Mỹ có thể rút khỏi Biển Đông để hợp tác với Trung Quốc về cân bằng thương mại và vấn đề Triều Tiên. Khẳng định mới nhất của Mỹ về tự do hàng hải ở Biển Đông có thể đã trấn an một số người rằng, tình bạn mới giữa Donald Trump và Tập Cận Bình sẽ không dẫn tới việc Đông Nam Á bị bỏ rơi.

Ngày 24/5, tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS Dewey đã di chuyển trong phạm vi 12 hải lý của Đá Vành Khăn. Từ giữa tháng 10/2016, Mỹ chưa tiến hành các hoạt động như vậy ở Biển Đông. Kể từ lễ nhậm chức của Trump vào tháng một, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương đã nhiều lần bị từ chối thực hiện hoạt động quá cảnh như vậy.

Khu vực này vẫn nghi ngờ liệu chính quyền Trump sẽ thực hiện một cam kết lâu dài hay sẽ chỉ là một giao dịch ngắn hạn: Mỹ bỏ việc sẵn sàng kiểm soát Trung Quốc ở Biển Đông, đổi lại Trung Quốc sẵn sàng kiểm soát Triều Tiên.

Trong nhiều năm, Washington đã theo dõi Bắc Kinh biến Biển Đông thành một hồ Trung Quốc. Vị thế trên biển của Trung Quốc càng mạnh hơn thì giá trị thương mại của Mỹ sẽ kém đi. Sự thờ ơ của Mỹ đã tạo điều kiện thuận lợi hoặc ít nhất là không cản trở nỗ lực của Trung Quốc thiết lập ảnh hưởng toàn diện trên một trong những tuyến đường biển quan trọng nhất về kinh tế và chiến lược trên thế giới.

Phong cách “kiên nhẫn chiến lược” của Obama không chỉ thất bại trong việc ngăn chặn các vụ thử tên lửa của Bình Nhưỡng mà nó còn gặp thất bại trong việc kiềm chế dã tâm kiểm soát Biển Đông của Bắc Kinh. Các hoạt động tự do hàng hải thì ít, không liên tục và thời gian giữa các lần hoạt động ngày càng bị kéo dài, mặc dù đã cam kết sẽ tiến hành theo chu kỳ ba tháng hai lần.

Trong khi đó, các nhà lãnh đạo ASEAN lại bị cuốn hút bởi ngoại giao nhân dân tệ của Trung Quốc. Còn Chính quyền Obama đã đưa ra các nguyên tắc: quản trị tốt và tự do hàng hải. TPP được thúc đẩy lên hàng đầu sau đó là các hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông.

Trump có thể đã từ bỏ các điều khoản của TPP vì lý do quản lý kinh tế tốt. Nhưng tại sao nguyên tắc về tự do hàng hải lại bị bỏ quên? Câu trả lời có thể là sự ràng buộc. Nhà Trắng của Obama, kể cả Hội đồng An ninh Quốc gia, coi quan hệ Mỹ- Trung có nhiều ràng buộc. Kích động Bắc Kinh có nguy cơ ảnh hưởng đến hợp tác trong các vấn đề quan trọng khác đối với Washington.

Hoạt động của Dewey khi qua Đá Vành Khăn đã phá vỡ một chuỗi bảy tháng mà không có các hoạt động tự do hàng hải, tạo ra thêm nhiều câu hỏi hơn về vấn đề chính sách. Nếu các hoạt động này tiếp tục, liệu đó đó có phải là Washington cũng đã phá vỡ mối liên kết với các vấn đề khác mà Trung Quốc có thể hợp tác hiệu quả với Mỹ? Liệu quyền tự do hàng hải đó có đáng tự bảo vệ theo cách riêng của nó? Và điều gì xảy ra nếu không có hoạt động tiếp theo hoặc  theo một lộ trình thực hiện lộn xộn?

Sai lầm lớn của Donald Trump ở Biển Đôngcủa Harry J. Kazianis

Cho tới tận năm ngoái, Biển Đông vẫn là vấn đề chiến lược quan trọng nhất tại châu Á-Thái Bình Dương và là 1 trong 5 điểm nóng hàng đầu thế giới. Giờ đây, mọi chuyện dường như lại đang đi theo một chiều hướng khác. Điều này có được là nhờ rất nhiều yếu tố, từ sự kiềm chế của Trung Quốc sau phán quyết hồi tháng 7 của Tòa Trọng tài, nỗ lực của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte nhằm xích lại gần với Bắc Kinh vì lý do kinh tế, hay sự chuyển giao quyền lực tại Nhà Trắng khiến Biển Đông đã không còn là một trong những ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu của Washington. 

Tuy nhiên, đây lại là một sai lầm rất lớn của Chính quyền Donald Trump. Mặc dù rõ ràng ưu tiên hàng đầu trong vấn đề an ninh của Mỹ phải là Triều Tiên, song Mỹ không nên để Trung Quốc có cơ hội từng bước thao túng tuyến đường biển quan trọng này. Việc quốc gia này đưa hàng loạt tàu chiến, máy bay ném bom và máy bay chiến đấu tới khu vực có lẽ chỉ còn là vấn đề thời gian. 

Điều đáng tiếc hơn là Chính quyền Trump lại dùng cách cũ mà người tiền nhiệm từng sử dụng để đối phó với điểm nóng này, đó là đưa tàu tới gần các hòn đảo nhân tạo của Trung Quốc để thách thức các tuyên bố chủ quyền của họ, với mục đích là thực hiện các chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải trong khu vực. Mọi chuyện có thể dẫn đến những tính toán sai lầm và trở thành kẽ hở để Trung Quốc tận dụng nhằm phục vụ các mục đích của mình. 

Để thể hiện rằng Mỹ không hề công nhận các quyền phi lý mà Trung Quốc hay bất kỳ nước nào khác tuyên bố, Mỹ thực hiện các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải và hàng không (FONOP) trong khu vực. Mặc dù một cuộc tuần tra FONOP có thể thể hiện rằng Mỹ đang nỗ lực phản đối các tuyên bố bành trướng của Trung Quốc và gây thiện cảm với dư luận trong bối cảnh Chính quyền Trump phải đối mặt với không ít chỉ trích, song hoạt động này không hề có tác dụng trong việc hạn chế tham vọng của Bắc Kinh ở Biển Đông. 

Tuy nhiên nếu Mỹ cứ chỉ đơn thuần đưa tàu tới tuần tra ở Biển Đông thì Bắc Kinh sẽ càng tìm cách triển khai các khí tài quân sự hiện đại. Các hòn đảo nhân tạo và hạ tầng cơ sở cùng các trang thiết bị mà Trung Quốc lắp đặt trên đó là một sự hiện diện thường trực, trong khi các chiến dịch hải quân của Mỹ chỉ là nhất thời. 

Điều may mắn là Chính quyền Trump có những lựa chọn khả thi để đối phó với thực tế này, có thể kể đến việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với các bên tham gia tranh chấp khác, ví dụ như Việt Nam.

Chính quyền Trump sẽ phải làm rất nhiều việc, từ phát triển một chiến lược toàn diện nhằm đảm bảo rằng Trung Quốc không thể biến Biển Đông thành “ao nhà” - điều mà người tiền nhiệm đã thất bại; cho tới răn đe Bắc Kinh rằng nếu muốn thay đổi hiện trạng khu vực, họ sẽ phải đối mặt với những hệ quả không mong muốn, chẳng hạn như việc Mỹ có thể trao cho Đài Loan gói viện trợ vũ khí lớn mà Đài Bắc từng yêu cầu. 

Ý nghĩa thực sự của thỏa thuận khung COC giữa ASEAN và Trung Quốcphân tích trên tờ The Economist

Để giảm bớt khả năng có thể xảy ra xung đột vũ trang và cũng để tất cả các bên tuyên bố chủ quyền của mình ở Biển Đông khỏi cảm thấy bị mất mặt, các nước liên quan đã tiến hành đàm phán về các quy định liên quan tới hành vi và kiểm soát những căng thẳng khu vực trong nhiều thập kỷ qua. Ngày 18/5/2017, các quan chức ngoại giao cấp cao của Trung Quốc và ASEAN đã nhất trí thông qua bộ khung của COC. Dự thảo này sẽ được đệ trình lên cấp ngoại trưởng vào tháng 8 tới đây và sẽ hình thành nền tảng cho các cuộc đàm phán trong tương lai.

Tháng 7/2016, Trung Quốc đã đồng ý thúc đẩy các cuộc đàm phán về COC- một quyết định mà một số nước ngờ rằng sự đồng ý đó xuất phát từ việc ông Rodrigo Duterte được bầu lên làm Tổng thống Philippines thay người tiền nhiệm là ông Benigno Aquino, vốn được coi là khá cứng rắn với Trung Quốc.

Theo bản dự thảo đưa ra hồi tháng 3/2017 thì đa phần đề cập đến “thúc đẩy sự tin cậy lẫn nhau”, hay”có nhiệm vụ hợp tác”, và “kiềm chế”. Tuyên bố hồi năm 2002 cũng có những từ tương tự như vậy, nhưng tuyên bố đó đã chẳng có tác dụng giúp các nước “kiềm chế”, nhất là Trung Quốc. Bắc Kinh vẫn xây dựng các đảo nhân tạo và hiện các đảo đã sẵn sàng trở thành căn cứ quân sự trong vùng biển đang có tranh chấp. Giống như DOC năm 2002, bộ khung của COC dường như thiếu các cơ chế tăng cường hiệu lực hay chỉ ra những hậu quả của việc vi phạm các điều khoản của bộ quy tắc này. Điều này dường như phù hợp với tất cả các bên, những nước tuyên bố muốn hòa bình và ổn định, nhưng không hạn chế tự do của họ. Bộ khung này cho phép Trung Quốc tìm kiếm sự hợp tác mà không phải kiềm chế các hành vi của mình và giúp giới chức ASEAN cảm giác như tiến trình mà họ đang thực hiện cũng đang đem lại kết quả. 

Cho dù các ngoại trưởng của hai bên dự định thông qua bộ khung này vào tháng 8 tới thì chu trình vòng đàm phán mới đầy chông gai của hai bên sẽ lại bắt đầu. Nhưng lần này, Trung Quốc đã có một người bạn là nhà lãnh đạo của Philippines, một trong những nước ASEAN có nhiều tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông với Trung Quốc. Bắc Kinh còn có cả Donald Trump, người có tính cách khó đoán định có thể sẽ làm Trung Quốc lo lắng, nhưng với bản tính của một thương gia, cách tiếp cận luôn là sự đổi chác đối với các vấn đề đối ngoại sẽ rất phù hợp với Trung Quốc hơn là so với nguyên tắc quốc phòng dựa trên nguyên tắc trật tự quốc tế của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama. Trung Quốc cũng biết cách làm vừa lòng các nước đối thủ có tranh chấp tại Biển Đông bằng Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng, cộng với một nước Mỹ có chính sách thay đổi thất thường như hiện nay. Nói cách khác, thỏa thuận này giúp Trung Quốc củng cố được những gì mình đã có tại Biển Đông, giảm thiểu sự can thiệp từ bên ngoài các nước ASEAN vào vấn đề giữa Trung Quốc- ASEAN và tỏ ra mình là một “công dân tốt trong khu vực”./.