Bản PDF tại đây


Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc diễn tập kịch bản 'bảo vệ giàn khoan'. Trang PLA Daily của Trung Quốc cho biết, một đội tàu chiến Trung Quốc vừa qua đã diễn tập kịch bản giả định các tàu cá nước ngoài tấn công một giàn khoan tại vùng biển gần vịnh Bắc Bộ. Cuộc diễn tập có sự tham gia của nhiều chiến hạm từ 10 đơn vị quân sự và dân sự, cũng như một số chiến đấu cơ của lực lượng không quân thuộc Hạm đội Nam Hải. Đội tàu được thành lập chỉ vài giờ sau khi nhận được lệnh từ một trung tâm chỉ huy hải quân, để phản ứng lại việc “tàu cá nghi ngờ có trang bị vũ khí” thâm nhập vào vùng biển của Trung Quốc. Các tàu của Trung Quốc sau đó bắt giữ tàu cá đối phương giả định, cùng 20 ngư dân và một nhà báo. Thông tin không nói rõ thời điểm cụ thể của cuộc tập trận.

Trung Quốc bác bỏ chỉ trích của Mỹ về vụ chạm trán máy bay. Ngày 23/8, Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân cho biết, “Vào khoảng 9 giờ sáng ngày 19/8, 2 chiếc máy bay trinh sát P-3 và P-8 của Hải quân Mỹ đã bay đến không phận cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 220 km về phía Đông. Một chiếc J-11 của Hải quân Trung Quốc đã cất cánh để tiến hành kiểm tra nhận dạng như thường lệ và thao tác của phi công Trung Quốc rất chuyên nghiệp, đồng thời duy trì cự ly an toàn với máy bay Mỹ.” Theo ông Dương, việc Mỹ chỉ trích máy bay Trung Quốc áp sát nguy hiểm đối với máy bay tuần tra của Mỹ là hoàn toàn không có cơ sở, “Chính việc trinh sát ở cự ly gần với quy mô lớn, tần suất cao của phía Mỹ nhằm vào Trung Quốc mới là nguyên nhân gây ảnh hưởng tới an ninh quân sự trên không, trên biển giữa Trung Quốc và Mỹ.”

+ Việt Nam:

Việt Nam đăng cai tổ chức Diễn đàn Biển ASEAN. Diễn đàn Biển ASEAN lần thứ 5 (AMF-5) và Diễn đàn Biển ASEAN mở rộng lần thứ 3 (EAMF-3) sẽ được tổ chức từ ngày 26-28/8/2014 tại thành phố Đà Nẵng. AMF-5 và EAMF-3 gồm 10 nước ASEAN và 8 nước đối tác trong cấp cao Đông Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Nga và Hoa Kỳ. Diễn đàn nhằm phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN trong thúc đẩy hợp tác biển và xây dựng lòng tin ở khu vực, nhất là trong việc bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải. Các nước tham gia sẽ tập trung trao đổi về tình hình trên biển, hợp tác biển trong khu vực thời gian qua; kiểm điểm, đánh giá các sáng kiến đã và đang được thực hiện trong AMF và EAMF. Hiện nay có 11 cơ chế về hợp tác biển trong ASEAN với nhiều hoạt động hợp tác chuyên ngành cụ thể thông qua các kênh quốc phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, giao thông vận tải, ngư nghiệp và nghề cá, du lịch, môi trường.

+ Philippines:

Philippines phản đối tàu Trung Quốc hiện diện ở Bãi Cỏ Rong. Bộ Ngoại giao Philippines cho biết sẽ gửi công hàm phản đối việc Trung Quốc thường xuyên đưa các tàu đến Bãi Cỏ Rong. Phát biểu tại cuộc họp báo hôm 18/8, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose khẳng định: “Việc tàu Trung Quốc thường xuyên qua lại ở Bãi Cỏ Rong không phải hành động qua lại vô hại mà thực sự là một phần của mô hình tuần tra bất hợp pháp của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines nhằm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông.” Theo ông Jose, hoạt động của các tàu của Trung Quốc là vi phạm UNCLOS 1982 và Tuyên bố DOC năm 2002. Tổng thống Philippines hôm 17/8 cũng đã báo động về sự hiện diện của tàu khảo sát Trung Quốc tại khu vực Bãi Cỏ Rong. Trong khi đó, Trung Quốc khẳng định có quyền đưa tàu khảo sát đến khu vực này. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 20/8 khẳng định Bãi Cỏ Rong thuộc lãnh thổ Trung Quốc và “các hoạt động của tàu khảo sát Trung Quốc là phù hợp, hợp pháp và không thể bị chỉ trích.”

+ Ấn Độ:

Ấn Độ tiếp tục hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông. Việt Nam đã gia hạn thêm một năm hợp đồng cho tập đoàn OVL của Ấn Độ thuê 2 lô dầu khí ở Biển Đông, ngay trước chuyến thăm Việt Nam của Ngoại trưởng Ấn Độ Sushma Swaraj. Hai lô dầu khí này, trong đó có lô 128, mà tập đoàn OVL từng kết luận có ít tiềm năng và định ngừng hoạt động vào năm 2012 nhưng Việt Nam sau đó đã thuyết phục Ấn Độ tiếp tục thăm dò một cách kỹ lưỡng hơn. Bên cạnh lý do thương mại, việc Ấn Độ tiếp tục dự án thăm dò lô 128 còn là để bảo vệ lợi ích chiến lược của nước này ở Biển Đông.

+ Mỹ:

Mỹ phản đối chiến đấu cơ Trung Quốc khiêu khích máy bay Mỹ trên Biển Đông. Trong cuộc họp báo hôm 22/8, Thư ký báo chí Lầu Năm Góc, chuẩn đô đốc John Kirby cho biết: “Ngày 19/8, một máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã có hành động áp sát nguy hiểm đối với một máy bay tuần tra Poseidon P-8 của Hải quân Mỹ khi chiếc máy bay này đang thực hiện nhiệm vụ tuần tra thường lệ”. Vụ việc xảy ra cách đảo Hải Nam, Trung Quốc khoảng 217 km. Ông Kirby tuyên bố: “Chúng tôi bày tỏ quan ngại sâu sắc về hành động không chuyên nghiệp, không an toàn và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Máy bay Trung Quốc đã bay qua mũi P-8 ở một góc 90 độ với phần bụng hướng về phía P-8 Poseidon. Chúng tôi tin rằng hành động này nhằm cho thấy máy bay được trang bị vũ khí.” Máy bay Trung Quốc còn bay bên dưới và song song với chiếc P-8 ở khoảng cách 6m, sau đó thực hiện một cú lộn vòng trên đầu máy bay Mỹ. Trong khi đó, Phó cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Ben Rhodes tuyên bố, “Mỹ thực sự quan ngại về hành động khiêu khích này và chúng tôi đã trao đổi trực tiếp với Chính phủ Trung Quốc để phản đối. Mỹ đang thúc đẩy quan hệ quân sự mang tính xây dựng với Trung Quốc, và kiểu hành động này đã vi phạm tinh thần của cam kết đó.”

Mỹ tăng cường sức mạnh ở Châu Á – Thái Bình Dương. Hải quân Mỹ đã quyết định điều động cụm tàu sân bay thứ 2 đến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Theo đó, cụm tàu sân bay USS Carl Vinson đã rời San Diego hôm 22/8. Cụm tàu sân bay này sẽ tuần tra cả 2 khu vực do hạm đội 5 va hạm đội 7 phụ trách. Hạm đội 7 hoạt động trên địa bàn Thái Bình Dương trong khi hạm đội 5 chủ yếu hoạt động ở Trung Đông. Hộ tống tàu sân bay USS Carl Vinson có tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill và 3 tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường: USS Gridley, USS Sterett và USS Dewey. Cụm tàu sân bay này sẽ tham gia hoạt động chung với cụm tàu sân bay USS George Washington đang ở Nhật Bản.

Quan hệ các nước

Tàu khu trục Ấn Độ thăm Philippines. Đại sứ quán Ấn Độ tại Philippines thông báo ngày 20/8, tàu khu trục INS Sahyadri của Ấn Độ đã cập cảng Manila, bắt đầu chuyến thăm Philippines nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ giữa hải quân hai nước. Tàu INS Sahyadri tới Manila sau khi tham gia cuộc tập trận hải quân Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC 2014) ở Honolulu, Hawaii, Mỹ. Tàu chiến tàng hình đa năng này chở theo hai trực thăng và nhiều khí tài như tên lửa chống tàu tầm xa, tên lửa tầm ngắn và tầm trung cùng nhiều loại súng. Trong thời gian lưu lại Manila, các thủy thủ tàu này sẽ tham gia nhiều sự kiện khác nhau như trao đổi nghiệp vụ, hoạt động thể thao và xã hội.

Việt Nam-Ấn Độ thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ Đối tác chiến lược. Sáng 25/8, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp bà Sushma Swaraj, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ đang có chuyến thăm chính thức Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam là làm hết sức mình, cùng với Ấn Độ đưa quan hệ hữu nghị, truyền thống tốt đẹp, lâu đời phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Việt Nam ủng hộ chính sách Hướng Đông của Ấn Độ cũng như ủng hộ quan hệ ngày càng tốt đẹp giữa Ấn Độ và các nước ASEAN. Tại buổi tiếp, Bộ trưởng Sushma Swaraj cho biết Chính phủ mới của Ấn Độ khẳng định coi trọng hợp tác với Việt Nam. Về vấn đề Biển Đông, bà Sushma Swaraj cho biết tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tại Myanmar vừa qua, Ấn Độ đã bày tỏ rõ ràng quan điểm phản đối việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng bạo lực trong các tranh chấp quốc tế; đồng thời lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982.

Khai mạc cuộc tập trận hải quân đa quốc gia lớn nhất Australia. Ngày 25/8, Hải quân Australia đã tổ chức lễ khai mạc cuộc tập trận hải quân đa quốc gia với tên gọi “Kakadu 2014” tại vùng biển phía Bắc nước này. Đây là cuộc tập trận được tổ chức định kỳ 2 năm/lần và dự kiến kéo dài tới ngày 12/9. Tham dự “Kakadu 2014” có 1.200 binh sỹ, 8 tàu chiến, 26 máy bay đến từ 15 nước. Hải quân Australia, Nhật Bản, Philippines, Pakistan và New Zealand điều động tàu chiến, máy bay chiến đấu trực tiếp tham gia tập trận. Trong khi đó, hải quân một số nước sẽ đóng vai trò quan sát viên. Trong tuần đầu tiên, hải quân các nước sẽ trao đổi kế hoạch tác chiến chiến thuật và giao lưu văn hóa tại Darwin. Tiếp đó, lực lượng hải quân đa quốc gia phối hợp thực hiện hàng loạt diễn tập tác chiến trên thực địa biển, gồm thông tin liên lạc, tấn công, thử nghiệm hỏa lực hải quân, phòng không.

Phân tích và đánh giá

“Trung Quốc bành trướng Biển Đông vì tư duy bá chủ thiên hạ?” của Philip Bowring. Nguyên do chính lý giải cho sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông không phải là nguồn tài nguyên dầu khí hay nguồn cá, mà là 2 yếu tố sau: Ví trí chiến lược của Biển Đông và tư duy “vận mệnh hiển nhiên” của người Trung Quốc (vận mệnh định sẵn - manifest destiny - là khái niệm trước đây Mỹ đã sử dụng để hô hào và biện minh cho việc thu phục các lãnh thổ khác). Lối suy nghĩ Trung Quốc sở hữu Biển Đông xuất phát từ tiềm thức của người Trung Quốc cho rằng các nước láng giềng, đặc biệt là các nước không được nền văn hóa Trung Quốc khai sáng, là “chư hầu”, hay một giai tầng thấp hơn. Lời hứa về sự trỗi dậy hòa bình của họ đã được thay thế bởi hàng loạt hành động gây hấn ở Biển Đông được các nhà chính trị Trung Quốc thiết kế để tập trung sự ủng hộ trong nước. Trên thực tế, yêu sách của Trung Quốc đối với các đảo, bãi ngầm, rặng san hô ở quần đảo Trường Sa chắc chắn sẽ bị bác bỏ bởi một tòa án độc lập. Những yêu sách này chỉ dựa vào “lịch sử” các chuyến đi biển của Trung Quốc mà bỏ qua thực tế rằng các cư dân không-phải-người-Trung-Quốc mới là số đông những người sinh sống trên các hòn đảo tại Biển Đông. Những cư dân của các quốc gia ven biển Đông Nam Á mới là những người buôn bán chủ yếu trên khu vực Biển Đông, ít nhất cho đến cuối thời kỳ thuộc địa. Thương mại với Trung Quốc từ trước đến nay luôn có vai trò quan trọng, tuy nhiên những người Trung Quốc lại là những người xuất hiện muộn nhất, và các thương nhân Trung Quốc xuất hiện ở Biển Đông lại không hề đại diện cho nhà nước Trung Quốc. Chỉ mới gần đây, trong giai đoạn đầu nhà Minh, Trung Quốc mới tìm kiếm vai trò chính trị trong khu vực qua những chuyến đi của Trịnh Hòa vào thế kỷ 15. Trung Quốc cũng luôn cho rằng các quốc gia Đông Nam Á phần nào là đối tượng “chư hầu” của Bắc Kinh vì trong suốt chiều dài lịch sử họ đã phải “cống nạp” cho Trung Quốc. Tuy nhiên, cống nạp là vấn đề thuộc về quyền thương mại chứ không phải thể hiện sự phục tùng. Do đó, có thể thấy các giả định về quyền bá chủ chính trị của người Trung Quốc không phải là những giả định dựa trên thực tế, mà là dựa trên giả định về sự thượng đẳng của người Hán, đó là vấn đề của “dòng máu” chứ không phải khoa học hay văn hóa. Niềm tin vào sự “độc nhát” của “gen Trung Quốc” – và họ từ chối học thuyết nguồn gốc nhân loại về nơi phát tích đầu tiên của con người là Châu Phi - vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ của nhiều người Trung Quốc. Sự trỗi dậy của Trung Quốc đi cùng với sức mạnh quân sự ngày càng lớn đương nhiên khiến các quốc gia láng giềng lo lắng. Tuy nhiên, quốc gia già nua này bây giờ không còn “gen xâm lược” trong dân số nữa - đây chính là nhân tố khiến người Hán bành trướng ra khu vực Mãn Châu, Mông Cổ và cả vùng đất gốc Thổ Nhĩ Kỳ trong triều đại nhà Thanh thế kỷ 17 – 20, cũng như thúc đẩy một lượng lớn người Hán di cư xuống Đông Nam Á tạo thành các nhóm dân tộc thiểu số tại đây. Do đó, nếu yếu tố nhân khẩu học không còn nữa, việc Trung Quốc tiến vào Biển Đông và đối đầu với 500 triệu người không-phải-người-Trung-Quốc tại đây nhiều khả năng sẽ thất bại. Nhưng điều quan trọng bây giờ là cần phải hiểu tham vọng kiểm soát Biển Đông của Trung Quốc tới từ các nhân tố nội tại chứ không phải bởi nguồn tài nguyên biển và năng lượng.

“Một cách tiếp cận mới cho vấn đề Biển Đông” của Vikram Nehru. Trong bối cảnh đề xuất đóng băng các động thái “khiêu khích” của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry bị phía Trung Quốc từ chối, rõ ràng Mỹ cần một chiến lược hiệu quả hơn tại Biển Đông. Mục tiêu cuối cùng Mỹ đó là kiến tạo hòa bình lâu dài tại đây. Thách thức của Mỹ và các đối tác tại Châu Á đó là làm thế nào để thay đổi quan điểm của người Trung Quốc, buộc họ phải hướng đến một giải pháp hòa bình, thông qua đàm phán tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Thứ nhất, Mỹ nên tạo điều kiện để Trung Quốc tham gia sâu rộng hơn vào các hệ thống kinh tế và thể chế toàn cầu. Nếu Trung Quốc hội nhập sâu hơn vào hệ thống toàn cầu, họ sẽ buộc phải có trách nhiệm hơn với sự ổn định của khu vực. Suy cho cùng, Trung Quốc đã là quốc gia có kim ngạch thương mại lớn nhất thế giới và sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới nếu tính theo ngang giá sức mua (PPP). Việc các quốc gia phát triển không chấp nhận để Trung Quốc có vị trí phù hợp trong kiến trúc thể chế toàn cầu chỉ khiến Trung Quốc mất niềm tin vào trật tự thế giới hiện hành. Do đó, cộng đồng quốc tế nên tạo điều kiện để Trung Quốc có vai trò quan trọng hơn, và trong một vài trường hợp nào đó là vai trò lãnh đạo trong các thể chế và sáng kiến toàn cầu. Thứ hai, Mỹ và các đối tác tại Châu Á nên cùng đưa ra các biện pháp xây dựng lòng tin và bảo đảm duy trì các kênh thông tin liên lạc với Trung Quốc để các vụ việc trong thời gian tới sẽ không vô tình làm gia tăng căng thẳng – từ đó có thể dẫn đến các cuộc đụng độ. Để làm được điều này, ASEAN nên sớm hoàn thành Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông và kêu gọi Nhật cũng như Mỹ tham gia ký kết. Một bộ quy tắc ứng xử chính thức dù ít dù nhiều cũng sẽ giúp cho động thái của các bên tham gia ký kết trở nên minh bạch hơn và sẽ đưa ra các chuẩn mực về hành xử trong khu vực, những tiêu chuẩn mà khu vực cũng mong muốn Trung Quốc tuân thủ. Và răn đe sẽ là mũi tên thứ ba. Răn đe đã là một phần trong tư duy chiến lược của hầu hết các quốc gia tại Đông Á. Cách hành xử của Trung Quốc tại Biển Đông và Biển Hoa Đông đang tự cô lập họ với các nước láng giềng, khiến các nước tại đây phải tăng cường hợp tác quân sự với nhau. Điều này thể hiện qua việc các quốc gia Đông Nam Á tăng cường hợp tác quân sự và qua khía cạnh quân sự của chiến lược tái cân bằng của Mỹ hướng tới Châu Á. Tuy nhiên, những bước đi kể trên còn thiếu một khuôn khổ nhất quán và các tác động rõ ràng kém xa một sức mạnh tổng hợp. Mỹ và các đối tác Châu Á cần thận trọng xây dựng các cơ chế quốc phòng đa phương để không làm bất ổn nền hòa bình vốn đã mong manh tại đây. Khởi đầu, các cơ chế này nên bao gồm chương trình huấn luyện chung, chia sẻ thông tin tình báo, xây dựng năng lực phòng không và hệ thống radar chung, diễn tập quân sự chung, hợp tác y học quân sự, và phối hợp vận hành các hệ thống và trang thiết bị vật tư – trong khi đó vẫn dành sự ưu tiên cho các đối thoại quốc phòng khu vực thông qua các cơ chế do ASEAN làm trung tâm như ADMM+, ARF và Thượng đỉnh Đông Á. Giống như các xung đột trước đây từng xuất phát từ những sự kiện đơn lẻ, chúng ta không thể bỏ qua khả năng các vụ đụng độ nhỏ tại một khu vực đảo nào đó tại Biển Đông và Biển Hoa Đông có thể khiến Châu Á, và có lẽ là cả thế giới, cuốn vào một cuộc đối đầu. Châu Á không thể làm ngơ trước khả năng này và trông chờ vấn đề sẽ được giải quyết. Họ cần phải tăng cường hơn sự phụ thuộc giữa các nước này và Trung Quốc thông qua một chiến lược rõ ràng, được xây dựng và phối hợp nhuần nhuyễn với những đối tác chiến lược của mình. Châu Á có thể hy vọng vào những điều tốt nhất, nhưng cũng phải chuẩn bị cho những điều tồi tệ nhất.

“Bắc Kinh đang rảnh tay ở Biển Đông?” Căng thẳng đang lên cao do lối hành xử quyết đoán trên biển của Trung Quốc cùng việc khu vực không đạt được đồng thuận chung. Lời kêu gọi “đóng băng” các “hành động khiêu khích” ở Biển Đông của Mỹ đã không được ủng hộ mạnh mẽ tại cuộc họp của ASEAN với nhiều đối tác đối thoại tại thủ đô Nay Pyi Taw, Myanmar. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã trông đợi nhiều hơn từ cuộc họp với khối 10 quốc gia, có sự tham dự của Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị và các nhà ngoại giao từ một loạt các nước khác trong khu vực, bao gồm cả Nhật Bản và Hàn Quốc. Ông Kerry không nên ngạc nhiên khi ASEAN vận hành theo hai nguyên tắc cốt yếu: đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ các nước thành viên. Trong thực tế, ASEAN khó có thể có quan điểm thống nhất trong các cuộc xung đột khu vực hoặc các vấn đề song phương giữa các thành viên. Điều này này dường như khiến cho Trung Quốc rảnh tay đối phó với các nước láng giềng Đông Nam Á ở Biển Đông. Hai nước Philippines và Việt Nam dường như đồng tình với đề nghị của ông Kerry. Tuy nhiên, Malaysia và Brunei, những bên yêu sách khác, có vẻ miễn cưỡng trong việc đối đầu với siêu cường đang lên của Châu Á. Thái Lan, Campuchia và Lào gần gũi hơn với Trung Quốc trong khi Indonesia, quốc gia đông dân nhất của ASEAN, có lập trường trung lập hơn. Singapore đi theo cách riêng của mình, và sau đó là Myanmar, có một mối quan hệ lâu dài và khó khăn với Trung Quốc. Về bản chất, ông Kerry đã quá lạc quan khi mong ASEAN đạt được sự đồng thuận chống lại chính sách ngày càng quyết đoán của Trung Quốc đối với các nước láng giềng phía nam. Cuộc họp tại Nay Pyi Taw đã qua, và dường như Mỹ đã thất bại trong việc tập hợp sự ủng hộ của ASEAN cho những nỗ lực đối phó với mưu đồ của Bắc Kinh. Việc thuyết phục ASEAN đồng ý về một chính sách ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc, chắc chắn sẽ được xem là “sự can thiệp” vào “nội bộ” của một quốc gia thành viên, sẽ khó hơn việc thuyết phục ASEAN xây dựng một chính sách chung cho Biển Đông. Khi tất cả các bên đều bị kiềm chế bởi lý do này lý do khác, Bắc Kinh có thể đạt được thế thượng phong ở Biển Đông cũng như tại Myanmar.

“Mỹ nên làm gì ở Biển Đông?” của Carl Thayer. Mỹ cần theo đuổi một chiến lược gián tiếp thông qua đòn bẩy liên minh với Philippines và quan hệ an ninh với Việt Nam, đồng thời can dự trong việc giải quyết hòa bình tranh chấp biển. Mỹ không nên trực tiếp đối đầu với các lực lượng hải quân của Trung Quốc. Cụ thể, trong hoàn cảnh hiện tại, một cuộc gặp 3 bên kênh 1 nên được đàm phán và sử dụng như một kênh tìm ra chiến lược đa phương ngăn chặn Trung Quốc. Một chiến lược như vậy nên bao gồm Việt Nam, Philippines, Nhật Bản và Mỹ. Thứ hai, Mỹ và Việt Nam cần đẩy nhanh thỏa thuận hợp tác giữa các lực lượng bảo vệ bờ biển của hai nước. Đến nay, việc đào tạo đã được tiến hành trên đất liền dưới hình thức các khóa học ngắn hạn. Lực lượng Bảo vệ bờ biển Mỹ nên được triển khai đến vùng biển Việt Nam phục vụ hoạt động đào tạo hỗn hợp và tham gia trao đổi quan sát viên trên tàu. Ngoài ra, các máy bay giám sát biển của Hải quân Mỹ, đang ở Philippines theo Hiệp định quốc phòng tăng cường gần đây giữa hai nước, có thể được triển khai tới Việt Nam theo những thỏa thuận tạm thời. Họ có thể thực hiện các nhiệm vụ giám sát hỗn hợp với phía Việt Nam. Thứ ba, các nhà phân tích an ninh khu vực dự báo hàng năm Trung Quốc sẽ đẩy mạnh sự hiện diện hải quân ở Biển Đông từ tháng 5 tới tháng 8. Đây là cơ hội cho Mỹ và Nhật Bản tiếp tục tổ chức một loạt cuộc tập trận trên biển và thực hiện các các chuyến bay giám sát với Việt Nam và Philippines ngay trước khi lực lượng của Trung Quốc xuất hiện trong suốt thời gian từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm. Chi tiết của các hoạt động phải được thông tin công khai cho tất cả các nước trong khu vực, kể cả Trung Quốc. Một chiến lược gián tiếp là cách để Mỹ thể hiện bằng hành động chính sách đã được tuyên bố của mình, đó là phản đối sự đe dọa và cưỡng ép trong giải quyết tranh chấp. Một chiến lược gián tiếp cũng không đòi hỏi Mỹ phải trực tiếp đối đầu với Trung Quốc. Chiến lược này đặt trách nhiệm lên phía Trung Quốc trong việc tự quyết định nguy cơ phải đối mặt với lực lượng tàu hải quân và máy bay của các nước Mỹ, Nhật Bản, Philippines và Việt Nam. Các lực lượng hải quân và không quân này sẽ hoạt động trong vùng biển và không phận quốc tế cắt ngang đường chín đoạn của Trung Quốc. Mục tiêu của hoạt động này là nhằm duy trì một sự hiện diện hải quân và không quân liên tục để ngăn chặn Trung Quốc sử dụng các biện pháp đe dọa và cưỡng ép đối với Việt Nam và Philippines. Sự ngăn chặn có thể được nâng cao hiệu quả thông qua việc trao đổi phi công và thủy thủ trong tất cả các cuộc diễn tập. Phạm vi và cường độ của các cuộc diễn tập này có thể được thay đổi để phù hợp với mức độ căng thẳng.

“Trung Quốc sử dụng tàu cá để bành trướng ở Biển Đông” của Wendell Minnick. Giới chuyên gia nhận định việc Trung Quốc sử dụng dùng tàu cá để bành trướng và bảo vệ các yêu sách chủ quyền phi pháp ở Biển Đông dường như là không thể ngăn chặn được. Ví dụ mới nhất là vào tháng 5 khi Trung Quốc hạ đặt trái phép một giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, hơn 70 tàu cá và tàu cảnh sát biển đã tham gia bảo vệ giàn khoan này. “Các tàu cá là công cụ tuyệt vời cho chính phủ Trung Quốc, với mọi thứ đều nằm dưới sự kiểm soát của họ”, ông Sam Tangredi, tác giả cuốn “Cuộc chiến chống tiếp cận” nhận định. Việc điều các tàu cá với số lượng lớn nhằm bao vây một khu vực tranh chấp hoặc tạo ra một chướng ngại vật để ngăn chặn sự tiếp cận của các tàu tuần duyên hoặc hải quân các nước sẽ không tạo ra hình ảnh tiêu cực trên các phương tiện truyền thông như các hành động quấy nhiễu của các tàu chiến. “Cứ như thể đó là một cuộc biểu tình hòa bình tự phát do những người theo chủ nghĩa dân tộc tổ chức... Gần giống một hành động phản đối không bạo lực”, ông Tangredi cho biết. Còn một chuyên gia về quân sự Trung Quốc tại Quỹ Heritage, ông Dean Cheng cho hay chiến lược đó đặt Nhật Bản, Philippines, Việt nam và hải quân Mỹ vào thế khó. Làm thế nào để đối phó với lực lượng trên danh nghĩa là dân sự? Sử dụng vũ lực sẽ không nhận được sự ủng hộ chính trị trên thế giới vì việc làm đó bị xem là làm gia tăng căng thẳng khi tấn công các dân thường. Nếu không làm gì thì sẽ mất chủ quyền và sự kiểm soát hành chính. “Một khía cạnh quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc là tạo ra các tình huống khó xử để khiến đối phương phải rút lui, để tránh phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn như vậy. Và như vậy là Trung Quốc đã thắng,” Chuyên gia Cheng cho hay đội tàu cá số lượng lớn của Trung Quốc cũng là một cách thức tuyệt vời để thu thập thông tin tình báo mà không tốn kém. Với hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu và sử dụng các đài phát thanh, Trung Quốc có thể theo dõi liên tục một khu vực rộng lớn. Cũng có khả năng hàng nghìn tàu cá Trung Quốc được trang bị thiết bị phát hiện tàu ngầm. Tác giả Sam Tangredi cho hay, Bắc Kinh rất khôn khéo trong việc sử dụng các tàu cá để thực hiện “các cuộc phong tỏa quy mô nhỏ. Nếu một tàu cá bị chìm trong cuộc đối đầu với một tàu quân sự, truyền thông nhiều khả năng sẽ coi tàu cá không có vũ trang là nạn nhân.”

“Thái Lan giữ đòn bẩy trong tranh chấp biển” của Chananthorn Kamjan. Với vai trò là quốc gia điều phối quan hệ ASEAN-Trung Quốc, Thái Lan sẽ chịu trách nhiệm các vấn đề trong quan hệ của khu vực với Trung Quốc. Trách nhiệm này sẽ kết thúc vào tháng 7 tới khi Thái Lan hoàn tất nhiệm kỳ ba năm. Thái Lan có thể đóng góp cho ASEAN như thế nào trước khi kết thúc nhiệm kỳ? Mặc dù nước này đang nằm dưới sự điều hành của một chính quyền quân sự, tuy nhiên sự thay đổi này sẽ không ảnh hưởng đến vai trò điều phối viên do Thái Lan có quan hệ tốt với Trung Quốc và sự hiểu biết của nước này với các thành viên ASEAN khác. Tuy nhiên, thời gian không còn nhiều, và Thái Lan cần phải có hành động để khẳng định vai trò của mình. Thái Lan sẽ tổ chức cuộc họp giữa các quan chức cấp cao ASEAN và Trung Quốc về việc soạn thảo COC ở Biển Đông trong tháng 10/2014. Bí Thư thường trực Bộ Ngoại giao Thái lan Sihasak Phuangketkoew hy vọng các bên sẽ đạt được những tiến triển cụ thể trong cuộc họp này. Cụ thể, việc soạn thảo COC phải bắt đầu ngay, mặc dù có những lo ngại cho rằng nó có thể mất hơn một thập kỷ để hoàn tất. Thái Lan cũng phải đối mặt thách thức đáng kể trong việc đưa các bên liên quan đến bàn soạn thảo. Bốn quốc gia yêu sách trong ASEAN - Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam - vẫn khẳng định quyền sở hữu của mình. Đặc biệt Manila và Việt Nam không ngần ngại bảo vệ chủ quyền trong khi Trung Quốc cũng không ngại đối đầu. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, khi đề cập về mối quan hệ toàn diện với ASEAN, đã sử dụng ngôn từ rất mềm mỏng nhưng cũng rất cụ thể, “Trung Quốc sẵn sàng lắng nghe đề xuất của tất cả các bên, nhưng những đề xuất phải rõ ràng, khách quan và mang tính xây dựng”. Nói ngắn gọn, Thái Lan đang phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn đó là phải tìm ra lối thoát cho tranh chấp Biển Đông. Nhưng Thái Lan cũng có một số điều kiện thuận lợi. Mối quan hệ giữa Thái Lan và Trung Quốc hiện đang ở giai đoạn tốt. Ngoài ra, nhìn chung Thái Lan cũng có quan hệ tốt với các nước ASEAN, đó là điều quan trọng để xây dựng lòng tin. Do đó, Thái Lan có thể sử dụng sức mạnh ngoại giao của mình để giảm bớt căng thẳng trong khu vực bằng cách đưa Trung Quốc và các quốc gia yêu sách đến bàn soạn thảo COC. Đó là một thách thức lớn. Nhưng nếu thành công, nó sẽ giúp khôi phục vị thế ngoại giao của Thái Lan trong cộng đồng quốc tế./.