Bản PDF tại đây

Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc ngang nhiên phát hành sách về đường lưỡi bò. Trung Quốc gần đây đã xuất bản một cuốn sách tập hợp những lý thuyết về đường lưỡi bò trên Biển Đông. Cuốn sách mô tả “lịch sử, chức năng và cơ sở pháp lý” của đường 9 đoạn, do các chuyên gia biển của Viện Các vấn đề hàng hải Trung Quốc, Học viện Luật - Đại học Thanh Hoa và Hiệp hội Luật Quốc tế soạn thảo. Cuốn sách ngang nhiên nói rằng “đường 9 đoạn là đường lịch sử về quyền lợi biển của Trung Quốc” và “bất kỳ nỗ lực hay hành vi nào từ chối hoặc tước quyền của đường 9 đoạn là sai về mặt pháp lý và không thực tế về mặt chính trị.”

Trung Quốc đóng xong ‘nhà máy lọc dầu’ trên biển. Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã đóng xong kho nổi (FPSO) thứ 17 mang tên Haiyang Shiyou 118 tại nhà máy đóng tàu Đại Liên với tổng chi phí 2,7 tỷ Nhân dân tệ (440 triệu USD). Kho nổi Haiyang Shiyou 118 dài thân 266,64 m, diện tích boong tàu tương đương hai sân bóng đá tiêu chuẩn. Chiều cao lên tới 50,5 m, ngang tòa nhà 17 tầng. FPSO viết tắt cụm từ “kho nổi, chứa, xử lý và xuất dầu thô.” Đối với ngành công nghiệp dầu khí ngoài khơi, việc sử dụng FPSO được xem là một giải pháp hiệu quả đối với các mỏ dầu ở vùng nước sâu, xa bờ.

+ Việt Nam:

Việc Trung Quốc xuất bản sách về đường 9 đoạn là vô giá trị. Tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 14/8, trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam trước việc Trung Quốc xuất bản cuốn sách “lý giải” về đường 9 đoạn phi lý, Người phát ngôn Lê Hải Bình khẳng định: “Việt Nam khẳng định chủ quyền không tranh cãi đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính vì vậy hành động của Trung Quốc mà phóng viên vừa nêu là bất hợp pháp và vô giá trị, không thể thay đổi thực tế về chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”

+ Philippines:

Philippines có kế hoạch phát triển du lịch ở Biển Đông. Trong chuyến thăm Bộ Tư lệnh miền Tây Philippines ở tỉnh Palawan, Tổng tham mưu trưởng quân đội Philippines Gregorio Pio Catapang cho hay quân đội nước này đang xem xét kế hoạch du lịch bằng du thuyền quanh 6 đảo ở Biển Đông mà hiện quân đội Philippines đang kiểm soát, “Tôi muốn đưa Palawan trở thành tỉnh phát triển thịnh vượng nhất. Palawan có nhiều tiềm năng, đặc biệt là nếu chúng ta có thể phát triển các hòn đảo mà chúng ta đang sở hữu thành các điểm du lịch.”

Philippines quan ngại hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong cuộc phỏng vấn được phát trên kênh TV5 hôm 17/8, Tổng thống Philippines Benigno Aquino cho hay quân đội Philippines đã phát hiện hai tàu nghiên cứu thủy văn của Trung Quốc tại Bãi Cỏ Rong, “Họ đang làm gì ở đó? Họ đang thực hiện những nghiên cứu gì? Tôi hy vọng sự hiện diện của tàu Trung Quốc sẽ không dẫn đến việc gia tăng căng thẳng giữa 2 bên.” Ông Aquino không nói rõ quân đội Philippines phát hiện các tàu trên khi nào. Tuy nhiên, ông cho rằng sự xâm phạm này là biểu hiện mới nhất trong thái độ “thay đổi theo mùa” của Trung Quốc trên Biển Đông, “Có thời điểm Trung Quốc quyết đoán. Có khi họ lại tỏ thân thiện. Có lúc họ tấn công quyến rũ cũng có khi họ chẳng làm gì.” Manila cho rằng Bãi Cỏ Rong thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình vì cách Palawan 144 km.

+ Indonesia:

Indonesia sẵn sàng làm trung gian hòa giải tranh chấp tại Biển Đông. Trong bài trả lời phỏng vấn tờ Ashahi ngày 11/8, Tổng thống mới đắc cử của Indonesia ông Joko Widodo tuyên bố: “Chúng tôi hy vọng sẽ có những giải pháp ngoại giao và nếu cần thiết, Indonesia sẵn sàng đóng vai trò trung gian. Chúng tôi không ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng việc sử dụng sức mạnh quân sự.” Tổng thống Indonesia cũng cho biết ông sẽ thúc đẩy nhanh việc soạn thảo bộ quy tắc ứng xử giữa Trung Quốc và ASEAN. Về lĩnh vực hợp tác an ninh với Nhật Bản, ông Widodo nói: “Điều quan trọng là tăng cường hợp tác song phương để xây dựng hòa bình và thịnh vượng chung. Từ bây giờ, chúng tôi sẽ xem xét các biện pháp hợp tác cụ thể.”

+ Mỹ:

Mỹ phản bác những chỉ trích của báo giới Trung Quốc. Về bình luận trên tờ Tân Hoa Xã cáo buộc Mỹ khuyến khích các quốc gia như Philippines và Việt Nam có lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc và cho rằng Washington không nên can thiệp trong vấn đề Biển Đông, phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ bà Marie Harf hôm 11/8 tuyên bố, “Chúng tôi không phải là bên đang gây bất ổn ở Biển Đông. Những hành động khiêu khích của Trung Quốc mới gây ra sự bất ổn đó. Tất cả những gì chúng tôi đang làm là nhằm hạ nhiệt căng thẳng, giúp các bên giải quyết khác biệt bằng con đường ngoại giao chứ không phải thông qua các biện pháp ép buộc và gây mất ổn định như chúng ta thấy Trung Quốc đang làm trong vài tháng qua”.

Ngoại trưởng Mỹ: ‘Châu Á-Thái Bình Dương có vai trò quan trọng với an ninh, thịnh vượng của Mỹ’. Trong bài phát biểu quan trọng tại Trung tâm nghiên cứu Đông-Tây ở Honolulu hôm 13/8, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khẳng định với tư cách là một quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ rất coi trọng những lợi ích quốc gia tại khu vực này. Ngoại trưởng Kerry cho biết Tổng thống Obama đã yêu cầu tăng gấp đôi các nỗ lực xây dựng quan hệ với những nước ở Châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, sử dụng năng lượng hiệu quả, hợp tác khu vực. Về quan hệ Mỹ-Trung, người đứng đầu ngành ngoại giao Mỹ khẳng định cải thiện quan hệ Mỹ-Trung đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì an ninh và ổn định ở khu vực. Mỹ hoan nghênh “sự trỗi dậy của một Trung Quốc hòa bình, thịnh vượng và ổn định” và “một Trung Quốc có trách nhiệm đối với châu Á, thế giới, ủng hộ các quy định và tiêu chuẩn trong các vấn đề an ninh và kinh tế.” Ngoại trưởng Kerry nêu rõ Washington sẽ thúc đẩy hợp tác song phương vì những lợi ích chung và xử lý các bất đồng trên tinh thần xây dựng, tránh đối đầu với Trung Quốc. Trong bài phát biểu, ông Kerry cũng đề cập đến những căng thẳng ở Biển Đông và Hoa Đông, “Chúng ta cần chuyển những xung đột trên biển thành hợp tác trong khu vực. Mỹ kiên quyết phản đối mọi sự hăm họa, ép buộc hoặc sử dụng vũ lực trong yêu sách chủ quyền, lãnh thổ của bất kỳ bên nào. Mỹ phản đối ý kiến cho rằng tự do hàng hải và hàng không, việc sử dụng các vùng biển, vùng trời (trong khu vực) là đặc quyền mà các nước lớn dành cho các nước nhỏ. Tất cả các bên yêu sách cần phải giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, dù lớn hay nhỏ. Những nguyên tắc này có giá trị bình đẳng với mọi quốc gia và các quốc gia có trách nhiệm duy trì nó.” Ngoại trưởng Mỹ cũng nêu ra những ví dụ rõ ràng cho thấy có thể giải quyết các tranh chấp hòa bình ở Châu Á - Thái Bình Dương, như giữa Nhật Bản và Đài Loan hay Philippines và Indonesia. Mỹ ủng hộ Philippines có các bước đi giải quyết hòa bình tranh chấp với Trung Quốc, bao gồm cả việc đưa vấn đề lên tòa án trọng tài theo UNCLOS 1982.

Quan hệ các nước

Mỹ - Úc tăng cường hợp tác an ninh. Ngày 12/8, Đối thoại Ngoại giao - Quốc phòng thường niên cấp Bộ trưởng Úc - Mỹ (AUSMIN) đã diễn ra tại Sydney với sự tham dự của Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Quốc phòng hai nước. Sau cuộc họp, hai bên đã ra thông cáo chung. Về hợp tác quốc phòng, hai bên đã ký Thỏa thuận mới có tên Hiệp định Triển khai Lực lượng có tính ràng buộc về pháp lý với hiệu lực trong 25 năm. Theo đó, Mỹ sẽ tăng cường sự hiện diện của lực lượng thủy quân lục chiến ở Úc. Mỹ cũng đang xem xét tăng cường luân phiên các máy bay chiến đấu và ném bom đến Úc. Hiện nay có khoảng 1.150 lính Mỹ tại Vùng Lãnh thổ Bắc Úc và dự kiến mở đường cho lính thuỷ đánh bộ của Mỹ đồn trú tại Darwin sẽ tăng lên thành 2.500 quân. Về tình hình khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Thông cáo khẳng định hai nước cam kết  can dự toàn diện vào khu vực. Về Biển Đông, hai bên nhấn mạnh lợi ích chung của việc duy trì hòa bình và ổn định, tôn trọng luật pháp quốc tế, thương mại không bị cản trở và duy trì tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông và Hoa Đông. Hai bên cũng kêu gọi các nước không có hành động làm gia tăng căng thẳng và làm rõ yêu sách theo luật pháp quốc tế; ủng hộ quyền của các bên tìm kiếm giải pháp hòa bình, bao gồm cơ chế pháp lý như trọng tài; phản đối các hành động đơn phương làm thay đổi thực tế thông qua đe dọa hoặc sử dụng vũ lực hoặc hăm dọa. Hai nước khuyến khích các bên đồng thuận về các hành động nào là được phép và cần tránh trong khu vực tranh chấp; ủng hộ việc “đóng băng” tự nguyện các hoạt động trong khu vực tranh chấp. Phát biểu trước cuộc đối thoại trên, Ngoại trưởng Úc Julia Bishop cho rằng: “Hiệp ước an ninh Mỹ-Úc không nhằm vào bất kỳ bên nào. Nước Mỹ đang tái cân bằng chiến lược sang Châu Á – Thái Bình Dương, điều đó cho phép chúng tôi cùng hợp tác thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như hòa bình và an ninh khu vực”. Cũng trong ngày 12/8, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tuyên bố: “Chúng tôi hoan nghênh sự trỗi dậy của Trung Quốc như một đối tác toàn cầu, một nền kinh tế mạnh mẽ đầy hy vọng, một thành viên tích cực trong cộng đồng quốc tế. Mỹ không tìm kiếm xung đột và đối đầu, chúng tôi hy vọng Trung Quốc sẽ nắm lấy cơ hội và trở thành một đối tác tích cực.”

APRC tán thành cách giải quyết vấn đề Biển Đông của Việt Nam. Chiều 13/8, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã tiếp ông Surakiart Sathiratha, Chủ tịch Hội đồng Hòa giải và Hòa bình châu Á (APRC). Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh hoan nghênh chuyến thăm của ông Surakiart; đánh giá cao vai trò của APRC trong việc hỗ trợ các Chính phủ ở Châu Á giải quyết hòa bình các tranh chấp, góp phần thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực. Ông Surakiart bày tỏ sự tán thành cách tiếp cận hòa bình của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, đồng thời khẳng định là một tổ chức phi Chính phủ quốc tế độc lập, APRC sẽ nỗ lực trong việc thúc đẩy hòa giải và giải quyết hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế các tranh chấp ở Châu Á.

Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ thăm Việt Nam. Chiều 14/8, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ đang có chuyến thăm Việt Nam. Nhấn mạnh tiềm năng và lĩnh vực hợp tác giữa hai bên còn rất lớn, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam mong muốn cùng Mỹ, hai bên nỗ lực đưa quan hệ hai nước tiếp tục phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Đại tướng Martin Dempsey khẳng định chuyến thăm của ông là một cam kết đối với hòa bình và ổn định trong khu vực và mong muốn của Mỹ trở thành đối tác tốt của Việt Nam. Đại tướng Martin Dempsey chia sẻ với đánh giá rằng hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nhất là ở Biển Đông và Hoa Đông đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi những đòi hỏi phi lý và hành động xác lập chủ quyền dựa trên sức mạnh đơn phương. Ông Dempsey nhấn mạnh rằng các nước, trong đó có Mỹ đều có trách nhiệm duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không trong khu vực; ủng hộ việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982, không đơn phương sử dụng sức mạnh, sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực.

Phân tích và đánh giá

“Cách thức để đối phó với đội tàu bán quân sự của Trung Quốc?” của David Brown. Tại Biển Đông, theo đánh giá của Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ, khu vực được cho là có nguồn tài nguyên hydrocarbon dồi dào nhất là Bãi Cỏ Rong, nằm ngoài khơi Đảo Palawan của Philippines. Đây là mục tiêu mà chắc chắn Trung Quốc sẽ không bỏ qua. Do không phải là khu vực nước sâu, Bãi Cỏ Rong có thể sẽ là địa điểm lý tưởng cho Trung Quốc triển khai trái phép các giàn khoan dầu, dùng cho mục đích phô diễn sức mạnh. Do đó, chúng ta có lý do để dự đoán rằng sẽ có một cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Philippines tại khu vực Bãi Cỏ Rong. Nếu các quốc gia không chuẩn bị sẵn sàng, Bắc Kinh sẽ có thời cơ tiến hành một chuỗi các hành động nhằm mục đích thiết lập chủ quyền trên thực tế tại Biển Đông. Chuỗi hành động này chỉ có thể bị phá vỡ nếu Mỹ xây dựng được một kế hoạch phòng ngừa, mang tính hợp tác để ngăn chặn Trung Quốc. Trung Quốc đang sử dụng đội tàu bán quân sự ngày càng lớn mạnh của mình để từng bước khẳng định yêu sách chủ quyền trên Biển Đông. Trung Quốc và Mỹ có vẻ như ngầm thỏa thuận với nhau rằng sẽ không để các tàu chiến đối đầu với nhau, điều này rõ ràng là có lợi cho Bắc Kinh. Vậy Mỹ có thể làm gì để ngăn chặn Trung Quốc? Điều Mỹ có thể làm đó là tận dụng các chương trình hợp tác huấn luyện giữa Lực lượng Tuần duyên Mỹ và lực lượng cảnh sát biển của các quốc gia tại khu vực Đông Nam Á. Trong những tháng tới, Mỹ và Nhật sẽ chuyển giao một loạt xuồng ca nô và tàu tuần tra cho Việt Nam và Philippines. Các quốc gia tại đây nên tổ chức những cuộc tập trận đa quốc gia mở rộng tại khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Các cuộc tập trận có thể tập trung vào việc thực hành đào tạo trong lĩnh vực tìm kiếm và cứu nạn, ngăn chặn buôn lậu hoặc cướp biển, phòng thủ trước các cuộc xâm nhập của bên ngoài vào vùng lãnh hải…Mỹ và Nhật cũng nên kêu gọi cả Úc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, và Singapore cùng tham gia vào những cuộc tập trận này. Các đơn vị tàu tham gia các cuộc tập trận nên được duy trì trên biển trong khoảng từ tháng 3 cho đến tháng 7, để có thể sẵn sàng đối phó với bất kỳ động thái nào của Trung Quốc. Lực lượng bán quân sự này sẽ là minh chứng cho Trung Quốc thấy rằng các quốc gia duyên hải tại đây và các đối tác của họ sẽ không để Bắc Kinh tiếp tục chiến thuật lát cắt salami nữa. Cho dù vẫn tồn tại nguy cơ về các cuộc đối đầu sử dụng vòi rồng - như những gì đã diễn ra giữa Trung Quốc và Việt Nam mùa hè này, tuy nhiên kịch bản nhiều khả năng xảy ra nhất đó là các tàu Trung Quốc sẽ tránh đối đầu khi họ nhận thấy đối phương có sức mạnh tương đương, điều này có thể sẽ giúp thay đổi các toan tính chiến thuật của Trung Quốc, và mở ra cơ hội để giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau.

“Giàn khoan đã rút đi nhưng tương lai bất ổn vẫn còn đó” của Nguyễn Tùng. Vào ngày 15/7, giàn khoan Hải Dương 981 đã được di dời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Biển Đông. Tuy nhiên đây có lẽ không phải là cái kết tốt đẹp như vẻ bề ngoài của nó. Cái cách mà cuộc khủng hoảng bắt đầu và kết thúc cho thấy các sự kiện tương tự sẽ xảy ra trong tương lai. Quyết định hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc là một quyết định đơn phương. Và quyết định di dời giàn khoan cũng là một hành động đơn phương khác. Trung Quốc hành động khi chưa đạt được giải pháp thống nhất với Việt Nam và cùng với đó, họ tuyên bố rằng hoạt động khoan dầu đã “thành công”, được thực hiện tại khu vực “nằm hoàn toàn trong chủ quyền của Trung Quốc”, như theo lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi. Trong bối cảnh này, có những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẽ hành động quyết đoán hơn trong tương lai. Thứ nhất, Trung Quốc đã tìm cách xử lý cuộc khủng hoảng với Việt Nam theo một cách công khai. Vào ngày 9/6, Trung Quốc đã đệ trình tuyên bố lập trường về tranh chấp lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và yêu cầu Liên Hợp Quốc lưu hành văn bản này tới tất cả các nước thành viên. Không chỉ vậy, một vài đại sứ của Trung Quốc đã đăng tải một số bài xã luận trên các báo địa phương để cố gắng biện giải cho hành động của Trung Quốc. Lần đầu tiên, Trung Quốc đã từ bỏ cách tiếp cận “ẩn mình” trong tranh chấp lãnh thổ với Việt Nam tại Biển Đông. Trung Quốc hiện cố lái công luận quốc tế theo hướng ủng hộ mình bằng việc đưa ra các chứng cứ và diễn giải của riêng Bắc Kinh về lịch sử của tranh chấp. Nhiều khả năng chiến thuật này sẽ tiếp tục được sử dụng trong thời gian tới. Và cuối cùng, Trung Quốc đang công khai làm rõ yêu sách của họ đối với quần đảo Hoàng Sa. Bản tuyên bố lập trường ngày 9/6 nói rằng yêu sách của họ là có cơ sở theo Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc. Cuộc khủng hoảng kết thúc với một lời cảnh báo ngầm rằng giàn khoan sẽ quay trở lại khi nào Trung Quốc muốn và khi nào Trung Quốc cảm thấy phù hợp. Đây rõ ràng là một điềm báo xấu. Tuy nhiên, việc di dời giàn khoan cũng mở ra cơ hội cho Trung Quốc và Việt Nam, cùng khu vực và cộng đồng quốc tế, để có thể lên kế hoạch cho việc giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp chủ quyền. Các cuộc gặp song phương sắp tới, đặc biệt là Diễn đàn Khu vực ASEAN vào tháng 8 và Hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 11 - những cơ chế đối thoại có sự tham gia của Trung Quốc, là những dịp quan trọng để thực hiện một nhiệm vụ như vậy.

“Biển Đông sẽ tiếp tục dậy sóng?” của Michael Auslin. Trong một động thái “đổ thêm dầu vào lửa”, Bắc Kinh gần đây tuyên bố sẽ xây dựng 5 ngọn hải đăng trên 5 hòn đảo đang trong có tranh chấp ở Biển Đông. Các hòn đảo này thuộc khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mới đây, Trung Quốc cũng triển khai một đội tàu hải giám trở lại vùng biển ngoài khơi quần đảo Điếu Ngư/Senkaku - hiện do Nhật Bản quản lý nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền. Động thái này diễn ra chỉ vài ngày sau khi Tokyo công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2014, chỉ trích cụ thể Trung Quốc đã có những “hành động nguy hiểm” gần quần đảo này. Những tháng ngày Nhật Bản lưỡng lự công khai chỉ trích Trung Quốc là “nhân tố gây rối” đã qua. Giờ đây, Thủ tướng Shinzo Abe đang đưa ra đề xuất Nhật Bản trở thành “đối tác an ninh” của các quốc gia châu Á, những nước vẫn lo ngại về sự phát triển quân sự của Trung Quốc. Tuy nhiên, các mối quan hệ chiến lược mới này của Nhật Bản cũng không khiến cho Bắc Kinh phải suy nghĩ lại về cách hành xử của mình ở các vùng biển có tranh chấp. Do đó, Đông Á vì thế đang ở trong thời kỳ hết sức bất ổn bởi lập trường ngày càng cứng rắn của mỗi bên. Hiện tại, cả Washington và Tokyo đang hy vọng tái thiết lập cán cân chính trị Châu Á. Mỹ và Nhật Bản dường như đánh cược rằng Bắc Kinh sẽ mềm mỏng hơn trong cách hành xử nếu cảm thấy ngày càng bị cô lập. Tuy nhiên, các nỗ lực đầu tiên của Mỹ và Nhật Bản trong việc cô lập Bắc Kinh vẫn chưa mang lại kết quả như mong đợi, và liệu áp lực lớn hơn có mang lại kết quả thì vẫn chưa có lời giải đáp. Cụ thể, nếu cảm thấy “bị dồn vào chân tường”, Trung Quốc sẽ có quan điểm ngày càng cứng rắn hơn. Nhiều khả năng đây sẽ là đặc trưng của nền chính trị cường quyền ở Châu Á trong tương lai. Một nhóm nhỏ các nước sẽ tăng cường hợp tác, nhưng sẽ có ít hành động để trực tiếp thách thức Trung Quốc. Chừng nào mà Bắc Kinh còn tiếp tục chiến thuật lát cắt salami của mình, cán cân an ninh tại châu Á sẽ từ từ được định hình theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Chỉ có sự đoàn kết và kiên quyết của các cường quốc có thực lực về quân sự trong khu vực - chẳng hạn như sử dụng lực lượng để ngăn chặn Bắc Kinh xây dựng các ngọn hải đăng - mới có thể đưa ra một tín hiệu cảnh báo rằng Bắc Kinh cần phải thay đổi cách hành xử. Tuy nhiên, khả năng đó là rất thấp, vì vậy Châu Á sẽ vẫn phải chứng kiến sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc tại các vùng biển tranh chấp.

“Trung Quốc đổi quả dưa hấu lấy hạt vừng trên Biển Đông” của Peter Ford. Biển Đông đang bước vào mùa mưa giông bão. Tuy nhiên, đáng ngại hơn thế, nơi đây còn hiện diện một cơn bão chính trị có nguy cơ ảnh hưởng tới an ninh và hòa bình toàn khu vực, Trong vài tháng qua, Trung Quốc liên tục xảy ra va chạm với các nước láng giềng Đông Nam Á, họ thực hiện một loạt những biện pháp cứng rắn nhằm khẳng định chủ quyền trên các đảo, đá và vùng biển mà các nước khác cũng có yêu sách. Ông David Arase, giảng viên bộ môn chính trị quốc tế tại campus của trường Đại học Johns Hopkins ở Nam Kinh, Trung Quốc, nhận xét “Trung Quốc là một nước rất cơ hội, họ không ngừng thực hiện những hành vi có lợi cho mình để xem sẽ kiếm được gì và…cố gắng kiếm càng nhiều càng tốt.” Bằng cách đi những bước nhỏ, không để Mỹ có cớ để hỗ trợ đồng minh trong khu vực, Trung Quốc đang cố làm nản chí các đối thủ trong tranh chấp và đẩy họ đến chỗ “từ bỏ quyền lợi của mình”, giáo sư Arase nói, “Bắc Kinh đang dần dần chia nhỏ Biển Đông”. Còn ông Christopher Johnson, nhà phân tích Trung Quốc tại CSIS, cho rằng có lẽ Bắc Kinh quá tin tưởng vào thành công của chính sách hiện tại bởi “cuối cùng, các nước ASEAN cũng phải đứng sang một bên vì họ phụ thuộc nhiều vào triển vọng kinh tế của Trung Quốc”. Tuy nhiên, cái giá của việc hiện diện như một kẻ bắt nạt kiêu ngạo không hề rẻ. Những tranh chấp gần đây xung quanh việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam làm “thay đổi hoàn toàn mối quan hệ” giữa hai nước, theo giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Đông Nam Á tại Đại học New South Wales, Úc. Giám đốc chương trình an ninh quốc tế tại viện Lowy, Úc ông Rory Medcalf thì cho rằng mục tiêu dài hạn của Bắc Kinh vẫn là tuyên bố chủ quyền, “để chắc chắn Trung Quốc có thể tham gia vào tất cả mọi động thái và diễn biến trên Biển Đông” đồng thời “tối đa hóa tự do trong hành động của hải quân nhằm trở thành lực lượng quân sự áp đảo trong khu vực.” Tuy nhiên, “câu hỏi đặt ra là liệu làm vậy có đáng hay không. Chúng ta có thể kiếm được hạt vừng nhưng vứt đi cả quả dưa hấu”, ông Xue, trưởng khoa chiến lược quốc tế tại Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc nhận xét khi đề cập đến những lợi ích nhiều mặt mà mối quan hệ chặt chẽ với Đông Nam Á có thể mang lại. Biển Đông “có thể biến thành một chiến trường thật sự và điều này chỉ có hại cho tương lai Trung Quốc mà thôi.”

“Ai là người châm ngòi căng thẳng tại Biển Đông?” của Zachary Keck. Sau những tranh cãi của Mỹ và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông tại Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Myanmar, Tân Hoa Xã đã đăng tải một bài xã luận cực lực chỉ trích chính sách đối ngoại Mỹ. Bài xã luận có đoạn: “Washington đang khuyến khích các nước như Philippines và Việt Nam theo đuổi lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc, điều này làm tăng thêm hoài nghi về ý định thực sự của Mỹ và khiến cho việc đạt một giải pháp hòa bình ngày càng xa vời hơn. Biển Đông đã mất đi sự yên bình vốn có, kể từ khi Mỹ bắt đầu chiến lược xoay trục sang Châu Á”. Những cáo buộc trên đây chẳng có gì lạ. Trung Quốc thường xuyên cáo buộc chiến lược “xoay trục” của Mỹ là nguyên nhân khiến căng thẳng gia tăng ở Biển Đông. Lập luận này rõ ràng là không chính xác. Thứ nhất, ngay cả khi chính sách “xoay trục” của Mỹ có khiến các đồng minh và đối tác của họ có lập trường cứng rắn hơn đi chăng nữa, thì chính Trung Quốc mới là bên đã có hành động gây hấn ở Biển Đông. Ví dụ, Trung Quốc đã chủ động gây hấn trong việc hạ đặt giàn khoan dầu khí ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và cố tình ngăn chặn việc tiếp tế cho lĩnh thủy đánh bộ Philippines đồn trú trên một tàu đổ bộ cũ mắc cạn tại Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) cách đây hàng thập kỷ. Thứ hai, các đồng minh và đối tác của Mỹ chỉ phản ứng trước các hành động tấn công  của Trung Quốc. Chính sách “xoay trục” của Mỹ có chăng cũng chỉ giúp các quốc gia như Việt Nam và Philippines đủ dũng cảm để đứng lên đối đầu với sự hung hăng của Trung Quốc. Tuy nhiên, ngay cả lập luận này cũng không hẳn là hoàn toàn đúng. Thật vậy, nên coi các hành động của Philippines và Việt Nam tại Biển Đông là các phản ứng đối với hành động của Trung Quốc, chứ đó không phải là các động thái mang tính quyết đoán. Philippines đã chấp nhận mất Bãi cạn Scarborough vào tay Trung Quốc mà không hề kích động một cuộc đối đầu vũ trang nào. Khi bị Trung Quốc phong tỏa tàu tiếp tế cho bãi Cỏ Mây, tàu Philippines chỉ đơn thuần né tránh để vượt qua vòng vây phong tỏa mà không hề đụng độ với các tàu Trung Quốc. Thậm chí, Philippines còn  không tìm cách chấm dứt sự phong tỏa của Trung Quốc đối với Bãi Cỏ Mây, mặc dù Manila đã đưa quân đến đồn trú cách đây ít nhất 15 năm. Việt Nam thì kháng cự mạnh hơn trước việc Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Nhưng điều này chỉ phản ánh thực tế rằng Việt Nam mạnh hơn so với Philippines và có truyền thống chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc. Ngay cả khi tìm cách làm gián đoạn hoạt động của giàn khoan 981, Việt Nam vẫn cố gắng theo đuổi một giải pháp ngoại giao với Trung Quốc. Bắc Kinh đã từ chối đàm phán nghiêm túc Việt Nam về vấn đề này vì thậm chí Trung Quốc còn không công nhận vùng biển trên là có tranh chấp. Thật khó tưởng tượng việc Việt Nam hay Philippines lại chịu khoanh thay đứng nhìn, không phản ứng lại trước các hành động gây  hấn của Trung Quốc, ngay cả khi không có chính sách xoay trục của Mỹ. Suy cho cùng, các quốc gia không bao giờ chấp nhận để lãnh thổ của mình rơi vào tay những người láng giềng hùng mạnh của họ.

“Châu Á nên đối phó với hành động quyết đoán trên biển của Trung Quốc như thế nào?” của Ely Ratner. Trong một cuộc khảo sát của Pew Research tại 8 quốc gia bao gồm Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc, Thái Lan và Việt Nam, đa số người dân tại mỗi quốc gia này nói rằng họ lo ngại tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng có thể dẫn đến một cuộc xung đột quân sự. Không còn là “học thuyết về mối đe dọa Trung Quốc”, một cụm từ thường được sử dụng ở Bắc Kinh để chế nhạo những lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc, hiện nay dường như chúng ta đang thấy “mối đe dọa từ Trung Quốc trở thành hiện thực”. Các chiến lược đối phó với sự quyết đoán của Trung Quốc chắc chắn khác nhau với mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tất cả các chiến lược này có thể được mô tả như là các chiến lược tổng hợp đồng thời theo đuổi nhiều cách thức nhằm đối phó với một quốc gia có lợi thế áp đảo về tầm vóc và sự giàu có. Những nhân tố chủ yếu của chiến lược tổng hợp này bao gồm: Một là, hiện đại hóa quân sự. Các nước trong khu vực đang đẩy mạnh nỗ lực phát triển quân đội bởi họ ngày càng lo ngại về sự quyết đoán của Trung Quốc. Trong bối cảnh việc hiện đại hóa quân đội được tiến hành nhanh chóng ở Trung Quốc, một số quốc gia đang đạt được các năng lực bất đối xứng nhằm đối phó với lợi thế quân sự tổng thể của Trung Quốc, ví dụ là việc Việt Nam mua 6 tàu ngầm lớp Kilo từ Nga. Hai là, tăng cường hợp tác với Mỹ. Các đồng minh và đối tác của Mỹ đang tiến tới việc làm sâu sắc quan hệ hợp tác an ninh với Mỹ để bổ sung cho các điểm yếu của mình và trong một số trường hợp là các năng lực mà những nước này không có. Các nước trên tuyến đầu tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc trong đó có Nhật Bản, Malaysia, Philippines và Việt Nam đều tìm tới Washington nhằm thiết lập mối quan hệ quân sự sâu sắc hơn. Ba là, quan hệ đối tác an ninh trong nội bộ Châu Á. Một xu hướng quan trọng trong cấu trúc an ninh Châu Á là sự gia tăng các mối quan hệ an ninh song phương tại khu vực. Trong bối cảnh quan ngại chung về sự trỗi dậy của Trung Quốc và độ bền vững các cam kết của Mỹ đối với khu vực, các quốc gia đang ngày càng tăng cường phối hợp nhằm xây dựng năng lực và phát triển các chiến lược chung để quản lý “thách thức Trung Quốc”. Các nỗ lực này bao gồm việc Nhật tăng cường quan hệ với Philippines, Úc và Việt Nam, cũng như việc các bên có tranh chấp tại Biển Đông – cụ thể là Malaysia, Philippines và Việt Nam – thường xuyên tổ chức các cuộc họp nhằm phối hợp và lên kế hoạch phản ứng chung. Bốn là, các thể chế khu vực và luật pháp quốc tế. Các quốc gia nhỏ hơn của ASEAN đã nhiều lần đứng ra kêu gọi sự đoàn kết trong khối với lập luận rằng chỉ khi là một tổ chức thống nhất, ASEAN mới có đủ sức nặng kinh tế và chính trị để đối phó với Bắc Kinh. Tương tự như vậy, Philippines đã tìm kiếm các cơ chế trọng tài đa phương trong nỗ lực đưa các tranh chấp biển với Trung Quốc từ mặt trận song phương có tương quan quá chênh lệch sang mặt trận luật pháp với sự can dự của cộng đồng quốc tế. Năm là, hợp tác với Trung Quốc. Mặc dù quan ngại sâu sắc về khả năng Trung Quốc sử dụng các biện pháp cưỡng ép để giải quyết các tranh chấp chính trị, song các nước trong khu vực, chủ yếu vì lý do kinh tế, đều đang cố gắng duy trì quan hệ ổn định nếu không muốn nói là tích cực với Bắc Kinh. Điều này phản ánh thực tế rằng, không giống như Mỹ có thể đến và đi bất cứ khi nào họ muốn, Trung Quốc sẽ vẫn là một thực thể địa lý ở Châu Á. Điều này khiến cho việc hợp tác với Trung Quốc luôn là một ưu tiên quan trọng trong phần lớn những nỗ lực của các nước Châu Á nhằm đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Không một cách tiếp cận nào kể trên, đứng riêng lẻ có đủ sức định hình hành vi của Trung Quốc, tuy nhiên một chiến lược tổng thể sẽ có những đóng góp nhất định vào một tương lai hòa bình và ổn định tại khu vực.