Thông cáo báo chí

Hội thảo Khoa học quốc tế lần thứ IV:

“BIỂN ĐÔNG: HỢP TÁC VÌ AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN

TRONG KHU VỰC”

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/11/2012

---

Chiều 21/11/2012, tại thành phố Hồ Chí Minh, sau ba ngày làm việc tích cực với 36 tham luận và 107 ý kiến thảo luận, Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ tư về Biển Đông với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực” đã thành công tốt đẹp.

Trong các phiên thảo luận, các đại biểu trong nước và quốc tế đã tập trung thảo luận bối cảnh và diễn biến tình hình Biển Đông thời gian gần đây, xác định các nguyên nhân dẫn tới việc gia tăng căng thẳng và suy giảm lòng tin trong khu vực, kiến nghị những giải pháp thúc đẩy xây dựng lòng tin, tăng cường hợp tác khu vực nhằm duy trì và bảo đảm hòa bình, ổn định chung.

Đánh giá về tình hình chung, các học giả đều cho rằng Biển Đông đang ngày càng trở thành tâm điểm sự chú ý của các các nước trong và ngoài khu vực do trọng tâm kinh tế, chính trị thế giới đang chuyển dịch về Châu Á - Thái Bình Dương, và do các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc và các nước khác trong khu vực  đều coi biển là không gian an ninh và không gian phát triển quan trọng nhất trong thể kỷ 21. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho Biển Đông trong những năm qua diễn biến ngày càng phức tạp, có lúc tưởng chừng như rơi vào “bế tắc”. Đáng chú ý, cạnh tranh chiến lược giữa nước lớn làm cho vấn đề Biển Đông trở nên có liên mật thiết với tình hình các vùng biển khác như Hoa Đông, thậm chí cả Bắc Cực. Có ý kiến học giả cho rằng khu vực cần cảnh giác không rơi vào một cuộc chiến tranh tránh "mát" (không còn lạnh nhưng chưa tới mức nóng) giữa các nước lớn.

Một số học giả cho rằng, quá trình hiện đại hóa quân đội trong khu vực đã dẫn tới gia tăng nhanh chóng năng lực quốc phòng của các nước trong khu vực, tuy có mặt tích cực là giúp các nước khu vực tăng cường khả năng hợp tác trong một số lĩnh vực như phòng chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia trên biển, cứu trợ cứu nạn, nhưng cũng làm tăng rủi ro va chạm, đụng độ rất khó kiểm soát giữa các lực lượng ở trên biển.

Sự gia tăng vai trò và ảnh hưởng của các nhóm lợi ích trong khuôn khổ của một quốc gia tới chính sách của quốc gia đó ở Biển Đông được các học giả rất quan tâm và phân tích, đánh giá. Các học giả cho rằng trong bối cảnh của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhiều chính quyền trung ương không còn hoàn toàn kiểm soát được mọi hành vi và chính sách đối ngoại của quốc gia đó, khiến tình hình Biển Đông càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát. Một số học giả cảnh báo, các khác biệt lợi ích giữa các nước thành viên ASEAN sẽ là thách thức lớn nhất đối với ASEAN trong những năm tới. Nếu ASEAN không duy trì được đoàn kết nội khối, vai trò của ASEAN trong các cơ chế hợp tác khu vực sẽ sụt giảm thì lợi ích của các nước thành viên ASEAN sẽ bị phớt lờ.

Để xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong khu vực, các học giả đã đưa ra nhiều khuyến nghị. Các quốc gia quanh vùng biển kín và nửa kín như Biển Đông cần hợp tác và phối hợp chính sách của mình trong quản lý nguồn sinh vật biển, thực hiện nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển, đồng thời tùy theo mức độ phù hợp, mời các bên hay các tổ chức liên quan để hợp tác. Nhiều đại biểu khẳng định, kinh nghiệm lịch sử cho thấy sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực sẽ không thể giải quyết được các tranh chấp như ở Biển Đông, do vậy các giải pháp hòa bình là con đường duy nhất. Cần thúc đẩy vai trò của ASEAN như nhân tố thúc đẩy đối thoại và hợp tác.

Một số học giả đề xuất các nước nghiên cứu và nhận thức lại về lợi ích quốc gia cơ bản của mình ở Biển Đông, cho rằng lợi ích phát triển kinh tế và ổn định xã hội, bảo đảm hòa bình và phát triển khu vực nên đặt lên trên lợi ích mở rộng chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển. Nhiều ý kiến cho rằng trong khi tìm kiếm giải pháp lâu dài, điều cấp bách nhất hiện nay là kiểm soát không để bất đồng làm nảy sinh xung đột, khủng hoảng. Do vậy, các bên cần nhanh chóng xây dựng các cơ chế khu vực nhằm định hướng ứng xử của các bên trong các tình huống cụ thể, như việc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Các bên cần làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, minh bạch hóa chính sách và chiến lược quốc gia ở Biển Đông, nhất là chính sách hiện đại hóa quân đội nhằm tăng cường lòng tin. Một số học giả khuyến nghị các cường quốc bậc trung cần liên kết lại với nhau và đóng vai trò chủ đạo trong việc duy trì môi trường luật pháp khu vực và quốc tế.

Trên khía cạnh pháp lý, các học giả nhấn mạnh tầm quan trọng của Công ước luật biển 1982, theo đó, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ lãnh thổ đất liền của các quốc gia ven biển phải được tôn trọng. Đặc biệt, khi một quốc gia tham gia vào Công ước luật biển thì phải tuân thủ các nghĩa vụ theo quy định của Công ước và từ bỏ các yêu sách lịch sử về các vùng biển của mình trước đây. Nhiều học giả nhất trí cho rằng, các thực thể tại biển Đông, đa phần là các bãi cạn hoặc các đảo nhỏ không có người sinh sống, do vậy ít khó khả năng tạo ra các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của riêng mình. Các học giả xem xét tác động và hiệu lực phán quyết mới nhất của của Tòa án quốc tế về phân định biển giữa Nicaragua và Colombia ngày 19/11/2012 đối với tranh chấp Biển Đông. Theo đó, các học giả đánh giá rằng, các đảo nhỏ của Trường Sa và Hoàng Sa sẽ chỉ có 12 hải lý lãnh hải. Các đại biểu nhấn trí rằng đường lưỡi bò và cái gọi là "quyền lịch sử" của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý và gây quan ngại cho các quốc gia có liên quan. Lập luận về quyền lịch sử của Trung Quốc cũng không có cơ sở, quyền lịch sử của các quốc gia khác nếu có được thiết lập cũng phải nhường hiệu lực cho quyền chủ quyền và quyền tài phán mà Công ước luật biển 1982 quy định là đặc quyền cho các quốc gia ven biển. Vì vậy, tại biển Đông, sự tồn tại của yêu sách quyền lịch sử chiếm đến hơn 80% diện tích của vùng biển nửa kín này mà không dựa trên các cơ sở pháp lý, không được thừa nhận bởi các quốc gia hữu quan, chồng lấn vào vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển là sự đi ngược lại các quy định của pháp luật quốc tế. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát xung đột và giải quyết tranh chấp tại biển Đông, các học giả khuyến nghị các bên tranh chấp hợp tác khảo sát các điều kiện tự nhiên và địa lý của các thực thể tại biển Đông nhằm xác định quy chế pháp lý của các thực thể này theo quy định của Công ước luật biển 1982. Trên cơ sở khảo sát đó, các bên trong tranh chấp làm rõ phạm vi các yêu sách về chủ quyền và vùng biển tại biển Đông.

Hội thảo diễn ra trong không khí cởi mở, thẳng thắn và thực chất; nội dung thảo luận có nhiều điểm mới, là một nỗ lực có ý nghĩa của giới học giả Việt Nam nhằm đóng góp cho việc thúc đẩy hợp tác quốc tế vì hòa bình, ổn định của Biển Đông./.

Nghiên cứu Biển Đông