Báo cáo của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) về chuyển giao vũ khí toàn cầu công bố cùng ngày cho thấy trong 10 quốc gia nhập khẩu các thiết bị quốc phòng nhiều nhất trong 5 năm qua thì có tới 6 quốc gia thuộc khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Ấn Độ là nước dẫn đầu về mua sắm quốc phòng và Trung Quốc đứng ở vị trí thứ ba. 

Mặc dù sức mạnh chi tiêu quốc phòng của một quốc gia thường gắn chặt với sức khỏe của nền kinh tế, nhưng các quốc gia tại châu Á- Thái Bình Dương dường như lại không cắt giảm ngân sách quốc phòng dù các nền kinh tế của họ đang chịu nhiều sức ép từ giá cả hàng hóa giảm sút cũng như tốc độ tăng trưởng chậm lại tại Trung Quốc. Một báo cáo khác mới công bố của Viện Nghiên cứu Quốc tế Chiến lược (IISS) có trụ sở tại London (Anh) nhận định rằng "mức độ khiêm tốn trong hoạt động kinh tế không có nhiều ảnh hưởng tới chi tiêu quân sự của khu vực trong năm 2015". 

Theo báo cáo của IISS, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Indonesia nằm trong số các quốc gia đã công bố kế hoạch gia tăng chi tiêu quân sự trong năm 2015. Chi tiêu quân sự tại châu Á tính theo tỷ lệ trên Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng lên mức 1,48%, mức cao nhất kể từ năm 2010. Trung Quốc là quốc gia đi đầu tại khu vực về chi tiêu quốc phòng, chiếm 41% tổng chi tiêu quốc phòng của khu vực. Ấn Độ đứng ở vị trí thứ hai, chiếm 13,5% và Nhật Bản đứng vị trí thứ ba, chiếm 11,5%. Tập đoàn thông tin tình báo quốc phòng IHS Jane's dự báo chi tiêu quân sự của châu Á- Thái Bình Dương sẽ đạt 533 tỷ USD vào năm 2020, từ mức 435 tỷ USD trong năm 2015. 

Một trong mối quan ngại tại khu vực là hành động của Trung Quốc trong việc xây dựng các đảo mới tại Biển Đông nhằm củng cố và thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc cũng đã triển khai tên lửa đất đối không tới một hòn đảo tranh chấp ở Biển Đông. Các tên lửa này được phát hiện tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà cả Việt Nam và Đài Loan đều tuyên bố chủ quyền. 

Những tham vọng của Trung Quốc không chỉ tác động sâu rộng đối với vấn đề chi tiêu quốc phòng của các nước láng giềng. Lầu Năm Góc cũng đang tăng chi tiêu cho các thiết bị công nghệ cao để ngăn chặn sự suy giảm lợi thế quân sự trước Nga và Trung Quốc. Đề xuất ngân sách quốc phòng tài khóa 2017 ở mức 582,7 tỷ USD đã được đệ trình lên Quốc hội Mỹ trong tháng này, trong đó có 6,7 tỷ USD chi cho phòng vệ trên mạng trước mối đe dọa từ các hoạt động gián điệp mạng từ Trung Quốc. 

Trong khi đó, không có dấu hiệu nào cho thấy sự gia tăng chi tiêu quốc phòng tại Trung Quốc sẽ dừng lại. Chuyên gia phân tích Craig Caffrey thuộc IHS Jane's cho biết ngân sách quốc phòng của Trung Quốc dự kiến sẽ tăng lên 225 tỷ USD vào năm 2020, so với mức 191 tỷ USD của năm 2015 (tăng 43% so với năm 2010). Chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc gia tăng thời gian dài vừa qua đã biến nước này từ một nhà nhập khẩu vũ khí chính thành một nhà xuất khẩu vũ khí lớn, với các nỗ lực tăng cường chất lượng các sản phẩm sản xuất trong nước. Hiện Trung Quốc đang bán các máy bay không người lái có vũ trang cho Nigeria và Iraq, đồng thời giới thiệu máy bay tiêm kích JF-17 sản xuất cùng Pakistan ra thị trường quốc tế. 

Trong giai đoạn 2011-2015, Trung Quốc là nhà xuất khẩu vũ khí lớn thứ ba thế giới, chiếm 5,9% tỷ trọng xuất khẩu toàn cầu. Tất nhiên, Trung Quốc vẫn còn kém xa các nhà xuất khẩu hàng đầu là Mỹ, chiếm 33% và Nga, chiếm 25%. Điều đáng nói là Trung Quốc đã vượt Pháp, Đức và Anh, các quốc gia từng có tỷ trọng xuất khẩu vũ khí lớn hơn. Trong tương lai, Trung Quốc có thể sẽ sớm loại bỏ họ khỏi danh sách ba quốc gia nhập khẩu vũ khí hàng đầu khi họ có đủ khả năng tự cung tự cấp. Hiện nay, Trung Quốc vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các thiết bị quốc phòng tinh vi và phức tạp, chẳng hạn như động cơ máy bay chiến đấu. Động cơ chiếm 30% tổng vũ khí nhập khẩu của Trung Quốc trong 5 năm qua.

Theo The Wall Street Journal

Trần Quang (gt)