30/03/2020
Tham vọng của Bắc Kinh xây dựng PLA thành một lực lượng quân đội hàng đầu thế giới sẽ đặt ra những thách thức đối với các lợi ích của Mỹ cũng như các đồng minh và đối tác của nước này trong và ngoài khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Giới thiệu
Trong bài phát biểu trước Đại hội toàn quốc lần thứ XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) tháng 10/2017, Tổng bí thư Tập Cận Bình đã cam kết xây dựng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) trở thành một lực lượng “tầm cỡ thế giới” vào giữa thế kỷ 21. Ông nói thêm rằng PLA sẽ trở thành một lực lượng cơ giới hóa hoàn toàn với việc gia tăng đáng kể các năng lực chiến lược vào năm 2020 và một quân đội hiện đại về cơ bản vào năm 2035. Cùng với nhau, những cột mốc này tạo thành một lịch trình và giúp xác định mục tiêu cho tham vọng sâu rộng của Tập Cận Bình trong việc tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc - điều mà ngay sau khi lên nắm quyền vào năm 2012, ông đã tuyên bố là “Giấc mộng Trung Hoa về một quân đội hùng mạnh”.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn chưa đưa ra những chi tiết cụ thể về chính xác những gì một quân đội tầm cỡ thế giới cần có, nhưng hiện đã có thể thấy rõ những đường nét cơ bản của lực lượng này. Cơ bản nhất, một quân đội tầm cỡ thế giới sẽ hiện thực hóa tham vọng của Bắc Kinh là tạo dựng cho mình vị thế nước lãnh đạo toàn cầu trong mọi lĩnh vực quan trọng về sức mạnh và sức ảnh hưởng quốc gia. Lực lượng này sẽ có thể tương xứng về sức mạnh và răn đe Mỹ cũng như các cường quốc quân sự hàng đầu khác, đồng thời buộc các nước láng giềng phải chấp nhận những tuyên bố chủ quyền bành trướng và vị thế lãnh đạo của Bắc Kinh trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Mặc dù chủ yếu tập trung vào việc đạt được các mục tiêu khu vực của Trung Quốc, nhưng chí ít trong ngắn hạn, lực lượng này cũng sẽ ngày càng được trang bị để bảo vệ các lợi ích của Trung Quốc bên ngoài khu vực và mở rộng vành đai phòng thủ của Trung Quốc ra xa bờ biển nước này. Tóm lại, những năng lực của một PLA tầm cỡ thế giới sẽ hỗ trợ các nhà lãnh đạo ĐCSTQ trong nỗ lực đưa Trung Quốc vào trung tâm của các vấn đề thế giới khi nước này hoàn thành nhiệm vụ kéo dài nhiều thập kỷ là đạt được “sự phục hưng quốc gia”.
Bài viết này đi sâu tìm hiểu những động lực và tham vọng đằng sau mục tiêu quân đội tầm cỡ thế giới của Trung Quốc, việc PLA phát triển những năng lực nhằm hỗ trợ chỉ thị này, và chiến lược của Bắc Kinh về việc triển khai lực lượng này nhằm đạt được các mục tiêu khu vực và bảo vệ các lợi ích toàn cầu của họ. Cuối cùng, bài viết xem xét những tác động của việc tiếp tục hiện đại hóa PLA đối với Mỹ cũng như các đồng minh và đối tác của nước này cả trong và ngoài khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Bài viết được dựa trên phiên điều trần của Ủy ban đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ-Trung (USCC) vào tháng 6/2019 về vấn đề này, chuyến công tác của USCC vào tháng 5/2019 tới Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, các cuộc tham vấn với các chuyên gia về PLA và những tham vọng địa chính trị của Trung Quốc, cùng với các nghiên cứu và phân tích nguồn mở.
Một quân đội xứng tầm tham vọng của Bắc Kinh
Quân đội tầm cỡ thế giới và việc đạt được vị thế cường quốc toàn cầu
Từ khi lên nắm quyền vào năm 2012, Tổng bí thư Tập Cận Bình đã liên kết chặt chẽ những nỗ lực của ông nhằm tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc với tham vọng rộng lớn hơn của ĐCSTQ là khôi phục điều mà họ coi là vai trò lịch sử và chính đáng của Trung Quốc với tư cách một cường quốc hàng đầu thế giới. Mục tiêu thứ hai này - điều mà Tập Cận Bình tuyên bố là “Giấc mộng phục hưng dân tộc Trung Hoa vĩ đại” - từ khi hình thành đã bao hàm một thành tố quân sự không thể tách rời: Giấc mộng Trung Hoa về một quân đội hùng mạnh. Từ đó, ĐCSTQ đã xác định và làm rõ thêm thành tố quân sự này trong mục tiêu quốc gia bao trùm của họ.
Tại Đại hội XIX, Tập Cận Bình tuyên bố chính sách chính thức của Trung Quốc là xây dựng “quân đội tầm cỡ thế giới” vào năm 2049 - cũng là dấu mốc ông đặt ra cho mục tiêu phục hưng dân tộc. Tuy nhiên, Tập Cận Bình không chỉ sử dụng thuật ngữ này cho PLA. Trong bài phát biểu tại Đại hội XIX, ông cũng đã tóm lược mong muốn thành lập các doanh nghiệp Trung Quốc, các năng lực sản xuất tiên tiến, các trường đại học, các nhà khoa học và công nghệ “tầm cỡ thế giới”. Ông đưa những mục tiêu này vào khuôn khổ mở rộng hợp lý của cách Trung Quốc tiến gần tới “vị trí trung tâm trên trường quốc tế” - điều được nhắc lại nhiều lần trong Sách Trắng quốc phòng mới nhất của Trung Quốc công bố vào tháng 7/2019. Như vậy, một PLA tầm cỡ thế giới đại diện cho thành tố quân sự của một mục tiêu nhiều mặt nhằm thiết lập vị thế hàng đầu của Trung Quốc trên thế giới trong mọi khía cạnh quan trọng của sức mạnh quốc gia.
Định nghĩa về quân đội tầm cỡ thế giới
Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn chưa cung cấp những chi tiết cụ thể liên quan tới những thành tố của một quân đội tầm cỡ thế giới, nhưng các nhà chiến lược và các tổ chức học thuật hàng đầu của PLA đã và đang nỗ lực xác định những ý nghĩa và yêu cầu của mục tiêu này. Theo những nguồn phân tích này, về cốt lõi, một quân đội tầm cỡ thế giới sẽ có thể đạt được sức mạnh, độ tinh vi và uy tín ngang hàng với các quân đội hàng đầu khác trên thế giới. Theo mô tả của một giáo sư thuộc Đại học Quốc phòng PLA, một lực lượng như vậy sẽ có “sức mạnh to lớn và sức răn đe sánh ngang với quân đội các cường quốc thế giới”. Theo một nhà quan sát khác thuộc Học viện khoa học quân sự PLA, một quân đội tầm cỡ thế giới sẽ có thể “cạnh tranh với các đối thủ tầm cỡ thế giới”.
Các nguồn phân tích khác mô tả những năng lực của các lực lượng quân đội tầm cỡ thế giới. Cao Yimin, Tham mưu trưởng các lực lượng mặt đất thuộc PLA ở vùng tác chiến miền Tây, đánh giá rằng một quân đội tầm cỡ thế giới phải có “các lý thuyết tác chiến, nhân sự, vũ khí, trang thiết bị, sức mạnh chiến đấu và năng lực đổi mới tầm cỡ thế giới”. Các nhà bình luận khác nhất trí với đánh giá này, cho rằng một lực lượng như vậy sẽ có “các lý thuyết quân sự, hệ thống quân sự, vũ khí và trang thiết bị, nhân sự và trình độ huấn luyện tầm cỡ thế giới”. Hơn nữa, một lực lượng như vậy sẽ làm sâu sắc thêm tiến trình “hợp nhất quân sự-dân sự” - phá bỏ tất cả những rào cản giữa khu vực dân sự và cơ sở công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc - và đạt được “sự phát triển tổng hợp của cơ khí hóa, thông tin hóa và trí tuệ hóa”, đề cập tới tầm quan trọng trung tâm của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong việc đạt được mục tiêu này.
Không có quốc gia nào được đề cập một cách nổi bật trong tầm nhìn của Trung Quốc về hiện đại hóa quân đội như Mỹ. Mặc dù các nguồn phân tích của PLA viện dẫn Nga, và ở mức độ thấp hơn là Pháp và Anh, như những ví dụ về các quốc gia sở hữu quân đội tầm cỡ thế giới, nhưng đa số đều công nhận Mỹ là ví dụ hàng đầu về một lực lượng quân đội tầm cỡ thế giới cũng như là mối đe dọa lớn nhất đối với những tham vọng quân sự của Trung Quốc. Trong một ví dụ điển hình, “Khoa học chiến lược quân sự” - một cuốn sách do Học viện khoa học quân sự PLA xuất bản năm 2013 - nêu chi tiết một số năng lực quân sự của Mỹ, trong đó có các năng lực thuộc các lĩnh vực chiến tranh hạt nhân, không gian và không gian mạng, mà PLA phải tự phát triển trong thời đại đấu tranh quân sự ngày càng quyết liệt trên trường quốc tế. Như M. Taylor Fravel, giáo sư khoa học chính trị thuộc Học viện công nghệ Massachusetts, đã lưu ý trong phiên điều trần trước USCC, đối với PLA, “tác động của việc đạt tới tầm cỡ thế giới là rất rõ ràng: Trung Quốc sẽ có được vị thế bắt kịp và răn đe Mỹ”. Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2019 củng cố cách nhìn về Mỹ vừa như nước đi đầu về quân sự trên toàn cầu, vừa như mối đe dọa quân sự đáng chú ý đối với Bắc Kinh. Sách Trắng bày tỏ báo động về điều được cho là “đổi mới về công nghệ và thể chế nhằm theo đuổi sự vượt trội tuyệt đối về quân sự” của Washington, cho rằng Mỹ đang dẫn dắt những nỗ lực mới trên toàn cầu nhằm “nắm bắt những khía cạnh chiến lược then chốt trong cạnh tranh quân sự”.
Đóng vai trò trung tâm trong mục tiêu hiện đại hóa quân đội mới của Bắc Kinh chính là quan điểm của các nhà lãnh đạo dân sự và quân sự hàng đầu rằng PLA tiếp tục tụt hậu so với Mỹ và các lực lượng quân đội hàng đầu khác trong nhiều phương diện của sức mạnh quân sự. Theo cách nói đơn giản của Tiến sĩ Fravel: “Điều tiềm ẩn và cũng thường rõ ràng trong các cuộc thảo luận về tiêu chuẩn này là đánh giá cho rằng PLA chưa đạt được những gì có thể tạo nên một lực lượng quân đội tầm cỡ thế giới”. Đánh giá này cũng được phản ánh trong Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2019, trong đó lưu ý rằng mặc dù Trung Quốc đã có tiến bộ lớn trong việc cải thiện năng lực quân sự, nhưng PLA vẫn chưa hoàn tất những nhiệm vụ hiện đại hóa được ĐCSTQ giao phó và vẫn tụt hậu rất xa so với các lực lượng quân đội hàng đầu thế giới. Một nhóm chuyên gia thuộc Học viện khoa học quân sự giải thích rõ hơn về một vài trong số những thiếu sót này, lập luận rằng “so với các quân đội hạng nhất thế giới, quân đội nước ta vẫn đang ở giai đoạn lịch sử của việc phát triển tổng hợp cơ giới hóa và thông tin hóa, và vẫn tồn tại nhiều thiếu sót trong quá trình phát triển”.
Do đó, trong khi quy mô của PLA và chất lượng của nhiều hệ thống chiến đấu thuộc lực lượng này đem lại cho họ lợi thế đáng kể khi tác chiến trong một cuộc xung đột khu vực - nhất là nếu họ thành công trong việc cô lập các nước láng giềng khỏi sự hỗ trợ của Mỹ - thì rõ ràng các nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc lại tiếp tục cho rằng PLA cần tiến bộ hơn nữa trước khi có thể theo kịp quân đội Mỹ và các cường quốc quân sự khác về mặt chất lượng.
Một lực lượng vượt trội ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương - lực lượng quân sự thách thức toàn cầu
Dù đã chỉ đạo PLA tiếp tục chú trọng chủ yếu tới Đông Á, nhưng Bắc Kinh ngày càng hướng lực lượng này sang mục tiêu bảo vệ các lợi ích của Trung Quốc trên khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và thậm chí ở các nước xa xôi hơn bên ngoài. Hiện tại, hướng đi chiến lược chính của PLA vẫn tập trung vào phía Đông Trung Quốc, đòi hỏi lực lượng này phải tập trung vào các công tác chuẩn bị cho chiến tranh dựa trên các tình huống quân sự khẩn cấp nhắm mục tiêu vào Đài Loan. ĐCSTQ cũng chỉ thị PLA tăng cường chuẩn bị cho các cuộc xung đột ở những nơi khác xung quanh khu vực ngoại vi của Trung Quốc, trong đó có các cuộc xung đột với Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và các nước khác trong khu vực trong trường hợp nổ ra chiến tranh liên quan đến Đài Loan hoặc một tuyên bố chủ quyền lãnh thổ khác của Trung Quốc, một kịch bản được gọi là “phản ứng dây chuyền” trong cuốn Khoa học chiến lược quân sự. Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã sử dụng PLA để khẳng định những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trong các tranh chấp chủ quyền khu vực, ngay cả khi phải đối mặt với sự phản đối từ phía Mỹ và các bên tham gia khu vực khác. Hơn nữa, Bắc Kinh ngày càng tự tin rằng hầu hết các nước trong khu vực đều ngầm chấp nhận lập trường của Trung Quốc rằng “các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương là thành viên của cộng đồng chung vận mệnh” - cụm từ được ĐCSTQ sử dụng để chỉ một trật tự cuối cùng lấy Trung Quốc làm trung tâm.
Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, việc xây dựng PLA trở thành một lực lượng tầm cỡ thế giới sẽ củng cố hơn nữa lập trường của Bắc Kinh trong những tranh chấp này. Khi phải đương đầu với khả năng phải đối mặt với một đối thủ tầm cỡ thế giới, các quốc gia ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ buộc phải quy phục trước sức ép quân sự áp đảo của Trung Quốc. Trong khi đó, Mỹ trên thực tế sẽ bị ngăn chặn can thiệp vào một cuộc xung đột khu vực mà nước này ít có khả năng chiến thắng, khiến các quốc gia khu vực không còn sẵn sàng đối đầu với Bắc Kinh.
Đồng thời, Bắc Kinh đã ra một chỉ đạo rõ ràng rằng PLA phải tăng cường các hoạt động ra bên ngoài khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Một mục tiêu của chiến lược này là làm gia tăng những khó khăn mà Mỹ phải đối mặt khi can thiệp vào một cuộc xung đột khu vực. Vì mục tiêu này, các nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc đã nói về một Hải quân PLA tầm cỡ thế giới có thể “thách thức và trả đòn” một “đối thủ hùng mạnh” - thuật ngữ dùng để chỉ Mỹ - ở các vùng biển xa. Một mục tiêu khác là bảo vệ các lợi ích của Trung Quốc ở nước ngoài, mà Bắc Kinh mô tả trong Sách Trắng quốc phòng 2019 là có ý nghĩa trọng yếu và trong những năm gần đây tầm quan trọng của mục tiêu này đã được nâng lên ngang hàng với việc bảo vệ lãnh thổ của họ. Trung Quốc cũng lập luận rằng chính sách quốc phòng của nước này có “tầm quan trọng toàn cầu” và chỉ đạo PLA “tích cực tham gia cải cách hệ thống quản trị an ninh toàn cầu”. Xét tổng thể, những tuyên bố này cho thấy rõ Trung Quốc cho rằng một lực lượng quân đội tầm cỡ thế giới không chỉ cho phép họ đạt được các mục tiêu khu vực mà còn hỗ trợ các lợi ích và tham vọng toàn cầu của nước này.
Xây dựng quân đội tầm cỡ thế giới
Chiến thắng cuộc cách mạng quân sự tiếp theo trên bình diện toàn cầu
Để đáp ứng những yêu cầu và sứ mệnh mà ĐCSTQ giao phó, PLA đã tiếp tục nỗ lực hiện đại hóa quân sự kéo dài nhiều thập kỷ của mình. Bắc Kinh tập trung vào việc phát triển năng lực nhằm thúc đẩy các mục tiêu khu vực của họ, trong đó có việc răn đe và ngăn Mỹ tiếp cận quân sự tới khu vực này trong một cuộc xung đột, đồng thời đẩy mạnh nỗ lực phát triển các năng lực viễn chinh nhằm hỗ trợ cho sứ mệnh mới hình thành của họ là triển khai sức mạnh bên ngoài khu vực. Đóng vai trò trung tâm trong những nỗ lực hiện đại hóa PLA là việc giành được vị thế dẫn đầu trong “cuộc cách mạng quân sự” tiếp theo - một sự biến đổi trong việc tiến hành chiến tranh nhờ đưa vào sử dụng các công nghệ, học thuyết, chiến lược và chiến thuật mới. Cuốn Khoa học chiến lược quân sự năm 2013 lưu ý rằng các cường quốc thành công trên thế giới đang điều chỉnh các chiến lược và năng lực của họ để phản ánh tầm quan trọng ngày càng gia tăng của công nghệ mới trong cuộc cách mạng quân sự tiếp theo trên bình diện toàn cầu. Trong bối cảnh này, mặc dù nhiều đặc điểm trong chương trình hiện đại hóa của PLA tìm cách bắt chước hoặc bắt kịp các năng lực mà quân đội Mỹ sở hữu, Bắc Kinh cũng đang tìm cách rút ngắn khoảng cách với những lợi thế của Mỹ bằng cách phát triển lợi thế về tên lửa tầm xa, năng lực tác chiến trên không gian mạng, không gian vũ trụ và tác chiến điện tử. Ngoài ra, Bắc Kinh tìm cách phát triển vượt bậc so với Mỹ trong một số công nghệ quốc phòng thế hệ mới, trong đó có các hệ thống vũ khí siêu thanh, vũ khí năng lượng định hướng, súng điện từ, vũ khí ngoài không gian, vũ khí không người lái và vũ khí được trang bị trí tuệ nhân tạo.
Quyết tâm của ĐCSTQ tăng cường năng lực công nghệ bắt nguồn từ quan điểm của họ rằng sự tụt hậu về công nghệ là nguồn gốc dẫn tới phần lớn sự yếu kém về quân sự của Trung Quốc trong thời kỳ hiện đại. Như Christopher A. Ford, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách an ninh quốc tế và vấn đề không phổ biến vũ khí, đã lưu ý trong phiên tường trình trước USCC, Trung Quốc thừa nhận rằng nước này có thể đã thất bại trong cuộc cách mạng quân sự gần đây nhất, “nhưng quyết tâm dẫn đầu trong cuộc cách mạng tiếp theo”. Dean Cheng, nhà nghiên cứu cấp cao thuộc Quỹ Di sản, lưu ý trong phiên tường trình trước USCC rằng để theo đuổi mục tiêu này, PLA đang tập trung vào công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và điện toán đám mây. Theo Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2019, việc áp dụng nhanh chóng những công nghệ nói trên và các công nghệ tương tự - chẳng hạn như công nghệ lượng tử và Internet kết nối vạn vật - trong các lực lượng quân đội đang góp phần vào “những thay đổi mang tính lịch sử đang diễn ra” trong cuộc cạnh tranh quân sự.
Cụ thể, PLA cho rằng trí tuệ nhân tạo đóng vai trò trọng yếu trong quá trình phát triển từ chiến tranh thông tin hóa sang chiến tranh trí tuệ hóa - trong đó tận dụng trí tuệ nhân tạo và những ứng dụng của nó trong chiến đấu - và đã chú trọng đáng kể vào lĩnh vực này. Trung Quốc đang tìm cách trở thành nước đi đầu trên thế giới về ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các lĩnh vực quốc phòng truyền thống như các hệ thống hàng không, không gian, hạt nhân, đóng tàu và mặt đất, đồng thời cũng nhắm tới mục tiêu đặt ra chuẩn mực quốc tế cho những công nghệ tiền đề - trong đó có mạng 5G và Internet kết nối vạn vật - mà sẽ có ý nghĩa trọng yếu đối với chiến tranh có sự tham gia của trí tuệ nhân tạo trong tương lai.
Đạt được ưu thế về thông tin
Các nỗ lực hiện đại hóa của PLA được tiến hành dưới sự chỉ đạo của ĐCSTQ, yêu cầu PLA phải luôn sẵn sàng tham chiến trong “các cuộc chiến tranh thông tin hóa cục bộ” - các cuộc xung đột mà trong đó khả năng chi phối lĩnh vực thông tin có ý nghĩa quyết định đối với chiến thắng. Daniel K. Taylor, sỹ quan tình báo phụ trách khu vực Đông Á thuộc Cơ quan tình báo quốc phòng, lưu ý trong phiên điều trần trước USCC rằng PLA từ lâu đã cho rằng “ưu thế trong lĩnh vực thông tin là ưu tiên hàng đầu trong các cuộc xung đột hiện đại”. Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2019 nhấn mạnh: “Hình thức chiến tranh đang chuyển biến theo hướng chiến tranh thông tin hóa”, và cuốn Khoa học chiến lược quân sự năm 2013 tuyên bố rằng thông tin hóa “là cốt lõi của sự biến đổi mới về mặt quân sự của thế giới”. Theo nhà nghiên cứu Dean Cheng, để phục vụ mục tiêu này, việc đạt được ưu thế về thông tin sẽ bao gồm “một số phương châm tác chiến then chốt, trong đó bao gồm tác chiến điện tử, tác chiến mạng và tác chiến không gian”.
Đối với PLA, việc đạt được ưu thế về thông tin trong một cuộc xung đột hiện đại đòi hỏi phải phát triển các năng lực tấn công trong lĩnh vực thông tin. Theo lời điều trần của Dean Cheng, không thể giành được ưu thế thông tin bằng các biện pháp phòng thủ thuần túy. Theo quan điểm của các nhà chiến lược quân sự Trung Quốc, năng lực tấn công trong lĩnh vực thông tin có ý nghĩa trọng yếu đối với việc bảo vệ các mạng lưới và hệ thống của một quốc gia. Quả thật, theo một bản hướng dẫn nghiên cứu của Học viện khoa học quân sự , “việc chú trọng vào khả năng tấn công liên quan tới lĩnh vực thông tin có ý nghĩa quan trọng hơn so với trong các lĩnh vực trên bộ, hàng hải và hàng không theo truyền thống”.
Lực lượng hỗ trợ chiến lược PLA - được thành lập sau khi PLA tái cơ cấu vào năm 2016 - nằm ở tuyến đầu trong nỗ lực của Bắc Kinh nhằm đạt được ưu thế về thông tin. Mục tiêu của Bắc Kinh là xây dựng Lực lượng hỗ trợ chiến lược thành một lực lượng có thể cạnh tranh được trong phạm vi không gian mạng và điện từ, đồng thời hỗ trợ hoạt động tác chiến của các lực lượng khác thông qua việc sử dụng những lĩnh vực này nhằm đạt được các mục tiêu tác chiến của PLA. Sách Trắng quốc phòng năm 2019 của Bắc Kinh nêu cụ thể tầm quan trọng đặc biệt của các năng lực trong không gian mạng, tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ xây dựng năng lực phòng thủ không gian mạng phù hợp với vị thế quốc tế của Trung Quốc với tư cách một quốc gia chủ chốt về không gian mạng”. Văn kiện này tiếp tục nêu bật rằng Lực lượng hỗ trợ chiến lược là “một kiểu lực lượng tác chiến mới nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của các năng lực tác chiến mới”. Tướng Cao Tân, cựu tư lệnh Lực lượng hỗ trợ chiến lược, cho rằng lực lượng này đem lại “sự hỗ trợ sống còn cho việc bảo vệ và xây dựng ‘chiếc ô thông tin’ cho hệ thống quân sự, mà sẽ được tích hợp với những hoạt động của các lực lượng lực quân, hải quân, không quân và tên lửa của Trung Quốc xuyên suốt toàn chiến dịch, và sẽ là lực lượng then chốt nhằm giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh”. Lực lượng hỗ trợ chiến lược vốn đã nắm trong tay các kỹ thuật tinh xảo, và theo các nhà phân tích Mỹ, lực lượng này được cho là “đưa vào phiên chế những phương tiện bao trùm toàn bộ 'chuỗi thông tin', trong đó có giám sát dựa trên không gian, tiếp sóng vệ tinh và thông tin liên lạc, cũng như đo xa, bám sát và điều hướng”.
Chú trọng sức mạnh hải quân và không quân
Tổng Bí thư Tập Cận Bình cũng đặc biệt chú trọng các lĩnh vực hàng hải và hàng không, điều mà các nhà lãnh đạo ĐCSTQ đã ưu tiên chí ít là từ đầu những năm 2000. Theo truyền thống, Lục quân PLA được coi là quân chủng quan trọng nhất của Trung Quốc, nhưng trong những năm gần đây lại nhận được ít sự chú ý hơn. Bắc Kinh đã hy sinh Lục quân để tăng chi tiêu cho Hải quân, Không quân và Lực lượng tên lửa chiến lược, đẩy mạnh hơn nữa sự chú trọng của Tập Cận Bình đối với việc giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh hiện đại trong các lĩnh vực trên biển và trên không.
Sự chuyển mình của Hải quân PLA thành một lực lượng biển khơi hiện đại là cơ sở cho mục tiêu lớn hơn là xây dựng một lực lượng quân đội tầm cỡ thế giới. Theo một bài viết vào tháng 4/2019 của Tư lệnh Hải quân PLA Thẩm Kim Long và Chính ủy Hải quân PLA Tần Sinh Tường, “một lực lượng hải quân hiện đại, hùng mạnh là biểu tượng quan trọng của một quân đội tầm cỡ thế giới”. Bài viết cũng nhắc lại một cụm từ được Tập Cận Bình sử dụng trong một bài phát biểu vào giữa năm 2013 trước Bộ Chính trị: “Những nước mạnh nhất giành chiến thắng trên biển, những nước sa sút thì yếu kém”. Nhấn mạnh sự chú trọng này, Sách Trắng quốc phòng năm 2015 của Trung Quốc tuyên bố rằng toàn thể PLA sẽ tập trung vào “cuộc đấu tranh quân sự trên biển”, phản ánh một yếu tố mới trong chiến lược quân sự của Trung Quốc.
Hướng tới mục tiêu này, Hải quân PLA đã ưu tiên việc phát triển các tàu sân bay và hiện đại hóa lực lượng tàu ngầm, các lực lượng mặt nước đa nhiệm và năng lực tấn công đổ bộ của họ. Họ đã nhiều lần triển khai nhóm tàu sân bay đặc nhiệm tới Tây Thái Bình Dương từ năm 2016 đến nay. Một lĩnh vực trọng tâm khác đối với Hải quân PLA là các hoạt động ngầm dưới nước. Hải quân PLA đã nghiên cứu và phát triển các phương tiện ngầm không người lái tiên tiến có khả năng tiến hành tấn công tập thể nhằm vào tàu ngầm cũng như các cuộc đánh lén. Theo một bài viết vào tháng 10/2018 trên tờ Nhật báo PLA, “các hoạt động tấn công và phòng thủ dưới mặt nước là một lĩnh vực tác chiến chủ chốt để giành được ưu thế trên biển, và là một phương tiện chủ chốt để giành được ưu thế trong các hoạt động trên biển”. Việc Trung Quốc tiếp tục nhanh chóng tăng cường sức chiến đấu cho Hải quân PLA sẽ hình thành năng lực triển khai sức mạnh biển khơi ngay từ năm 2025, sớm hơn rất nhiều so với thời hạn hoàn thành nhiệm vụ hiện đại hóa PLA vào năm 2035, theo đánh giá mà USCC đã đưa ra trước đó.
Việc ưu tiên hiện đại hóa Không quân PLA và Lực lượng tên lửa PLA cũng phản ánh việc Bắc Kinh chú trọng chuẩn bị cho một cuộc xung đột có thể liên quan tới Mỹ. Không quân PLA có thể tìm cách trở thành một “lực lượng không quân chiến lược” - có khả năng triển khai không lực ở tầm xa hơn - và tiếp tục phát triển, giành được và triển khai những máy bay ngày càng tiên tiến để phô trương sức mạnh tới Tây Thái Bình Dương. Lực lượng tên lửa PLA đang phát triển và thử nghiệm các biến thể tên lửa mới, chẳng hạn như các vũ khí siêu thanh với năng lực tấn công toàn cầu và vũ khí năng lượng có định hướng, đồng thời phát triển các phương thức mới để chống lại những hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo. Trong lễ kỷ niệm quốc khánh Trung Quốc ở Bắc Kinh vào ngày 1/10/2019, PLA đã trình diễn một số hệ thống vũ khí không gian tiên tiến, trong đó có tên lửa siêu thanh DF-17, tên lửa đạn đạo liên lục địa DF-41, tên lửa hành trình CJ-100 cũng như các phương tiện bay không người lái tàng hình và siêu thanh. Cuối cùng, Lục quân PLA cũng vẫn duy trì vai trò chủ chốt trong các sứ mệnh như bảo vệ biên giới Trung Quốc và là lực lượng mũi nhọn trong một cuộc xâm lược Đài Loan. Trong những năm gần đây, họ đã tập trung vào việc phát triển “quân đội kiểu mới”, nhỏ gọn hơn, cơ động hơn và phù hợp với các cuộc triển khai ở nước ngoài nhằm bảo vệ các lợi ích toàn cầu của Trung Quốc. Lục quân có thể được triển khai kết hợp với Lính thủy đánh bộ PLA, vốn cũng được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động viễn chinh.
Thúc đẩy những giới hạn của “năng lực răn đe hạt nhân tối thiểu”
Trung Quốc đang có những bước đi nhằm thúc đẩy những giới hạn của chính sách vốn đã có từ lâu là duy trì “năng lực răn đe hạt nhân tối thiểu” bằng cách phát triển, hiện đại hóa và đa dạng hóa kho vũ khí hạt nhân và các hệ thống phóng của họ. Bộ chỉ huy chiến lược Mỹ ước tính rằng Trung Quốc đã tăng gấp đôi số lượng đầu đạn của nước này trong thập kỷ qua, và các quan chức chẳng hạn như Trung tướng Robert Ashley, Jr., Giám đốc Cơ quan tình báo quốc phòng và Thiếu tướng hải quân Michael Brooks, người phụ trách các vấn đề tình báo thuộc Bộ chỉ huy chiến lược Mỹ, đánh giá rằng Trung Quốc đang trong quá trình một lần nữa tăng gấp đôi kho vũ khí của họ trong thập kỷ tiếp theo. Trung tướng Robert Ashley mô tả cụ thể hơn nữa các đợt tăng cường này là “sự mở rộng và đa dạng hóa kho vũ khí hạt nhân một nhanh chóng nhất trong lịch sử Trung Quốc”. David Santoro, giám đốc kiêm nhà nghiên cứu cấp cao trong lĩnh vực chính sách hạt nhân thuộc Diễn đàn Thái Bình Dương, đã lưu ý trong phiên điều trần của ông trước USCC rằng Trung Quốc giờ đây sở hữu một kho vũ khí có khả năng tấn công nội địa nước Mỹ hơn bao giờ hết và đã tăng cường đáng kể các năng lực của mình.
Các đợt tăng cường này bao gồm việc phát triển tên lửa cơ động trên đường bộ DF-41, trang bị cho các tên lửa hiện có các phương tiện chứa nhiều đầu đạn độc lập có thể nhắm bắn, và thử nghiệm công nghệ phương tiện lượn siêu thanh mà sẽ cho phép các tên lửa hạt nhân xâm nhập hệ thống phòng thủ tên lửa của đối thủ một cách hiệu quả hơn. PLA cũng có thể đang phát triển máy bay ném bom chiến lược có khả năng mang đầu đạn hạt nhân mà sẽ tạo ra một bộ ba hạt nhân khi Trung Quốc bổ sung năng lực phóng từ trên không cho các hệ thống phóng đầu đạn hạt nhân trên mặt đất và trên biển của họ. Trung Quốc không công bố số liệu chính thức về các lực lượng hạt nhân của nước này, nhưng Chính phủ Mỹ và các nguồn tin khác trong những năm gần đây đều đưa ra ước tính nhất quán rằng Trung Quốc sở hữu vài trăm đầu đạn hạt nhân, tăng so với con số 100 đầu đạn được Cơ quan tình báo quốc phòng Mỹ ước tính vào cuối những năm 1990.
Chính sách và sự bố trí hạt nhân của Trung Quốc cũng có thể có những thay đổi đáng kể do việc Trung Quốc mở rộng kho vũ khí hạt nhân, khả năng hình thành một bộ ba hạt nhân và việc nâng cấp Lực lượng pháo binh 2 của PLA trước đây từ một chi nhánh thành một binh chủng. Như Sách Trắng quốc phòng năm 2019 đã lưu ý, các lực lượng hạt nhân của Trung Quốc đang gia tăng tính sẵn sàng chiến đấu nhằm tăng cường năng lực răn đe của nước này để “bảo vệ an ninh chiến lược quốc gia và duy trì sự ổn định chiến lược quốc tế”. Tiến sĩ David Santoro nhận định rằng trong khi tiếp tục tập trung vào sự răn đe, chiến lược hạt nhân Trung Quốc sẽ đòi hỏi “một tư thế răn đe đồng bộ hơn”, có thể có liên quan tới việc hợp tác với Lực lượng hỗ trợ chiến lược, vốn được giao nhiệm vụ hỗ trợ các lực lượng hạt nhân trong các hoạt động răn đe trong lĩnh vực thông tin, không gian vũ trụ và không gian mạng. Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng Lực lượng tên lửa PLA cần chuẩn bị sẵn sàng để tiến hành “răn đe và chiến đấu toàn diện”, có thể với hàm ý rằng lực lượng này - bao gồm cả thành phần hạt nhân của nó - sẽ không bị giới hạn chỉ trong các chức năng răn đe, và thay vào đó có thể có một cách bố trí chủ động hơn. Bắc Kinh cũng có thể thay đổi cách bố trí của mình trong việc phản công hạt nhân bằng cách áp dụng cách bố trí “phóng tên lửa khi có cảnh báo”; những sự cải thiện đối với hệ thống thông tin và cảnh báo sớm trên không gian của PLA sẽ khiến cho cách bố trí đó trở nên khả thi. Tất cả những diễn biến này có thể làm gia tăng khả năng leo thang ngoài ý muốn với Mỹ.
Mặc dù thuật ngữ “tầm cỡ thế giới” không được sử dụng cụ thể cho các lực lượng hạt nhân của Trung Quốc, nhưng Tập Cận Bình đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sở hữu năng lực hạt nhân hùng mạnh đối với Trung Quốc. Ông nói rằng Lực lượng tên lửa PLA sẽ là “một trụ cột chiến lược đối với vị thế nước lớn của đất nước, và là một nền tảng quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc gia của chúng ta”. Bắc Kinh dường như không tìm kiếm sự bình đẳng về số lượng với lực lượng hạt nhân của Mỹ. Tuy nhiên, như Daniel K. Taylor đã điều trần trước USCC, nhờ sự cải thiện năng lực hạt nhân của Bắc Kinh - trong đó có việc bổ sung những hệ thống có khả năng tấn công chính xác, việc phát triển một bộ ba hạt nhân và gia tăng số lượng đầu đạn - Trung Quốc sẽ có nhiều lựa chọn hơn trong lĩnh vực hạt nhân trong tương lai.
Ngân sách quốc phòng tiếp tục lấn át các nước láng giềng
Trung Quốc đã chi tiêu cho quân đội nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào ngoài Mỹ kể từ năm 2002, và ngân sách quốc phòng của nước này lớn hơn nhiều so với các nước láng giềng trong khu vực. Như Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) đã lưu ý trong một nghiên cứu năm 2019, “chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đã tăng gần 8 lần trong 2 thập kỷ qua”. Ngân sách quốc phòng chính thức của Trung Quốc lên tới 177,61 tỷ USD, nhiều hơn ngân sách chính thức của Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc cộng lại. Sự chênh lệch trong chi tiêu quốc phòng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng cũng đang gia tăng, với việc ngân sách quốc phòng Trung Quốc năm 2019 ghi nhận mức tăng 7,5% so với năm 2018, trong khi ngân sách của Ấn Độ và Nhật Bản năm 2019 lần lượt tăng 6,87% và 1,3%. Các nhà phân tích cũng lưu ý tới sự khác thường trong cách Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự - mức chi tiêu quân sự lớn nhất thế giới theo cách tính tuyệt đối kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai - vào thời điểm biên giới nước này vẫn an toàn và nhu cầu tiêu dùng trong nước đang gia tăng.
Ngân sách chính thức của Trung Quốc không minh bạch. Các nhà quan sát đáng tin cậy lưu ý rằng không thể tin vào những số liệu chính thức của Trung Quốc do Bắc Kinh chỉ đưa ra số liệu tổng và bỏ sót các khoản chi lớn có liên quan tới quốc phòng, chẳng hạn như việc nghiên cứu và phát triển hay mua vũ khí nước ngoài. Vì những lý do này, trong phiên điều trần trước USCC, Phillip C. Saunders, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu các vấn đề quân sự Trung Quốc thuộc Đại học quốc phòng Mỹ, ước tính rằng ngân sách thực sự có khả năng lớn hơn 30-50 tỷ USD so với số liệu báo cáo chính thức. Bộ Quốc phòng Mỹ đã cộng thêm 25% vào các số liệu ngân sách chính thức của Trung Quốc trong giai đoạn 2012-2017 trong báo cáo trình Quốc hội Mỹ về quân đội Trung Quốc, và các tổ chức tư vấn có uy tín ước tính ngân sách quân sự thực tế của Trung Quốc lớn hơn tới 40-50% so với số liệu báo cáo chính thức của chính phủ trung ương. Theo Viện nghiên cứu hòa bình Stockholm, ước tính tổng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc trong năm 2018 đạt 250 tỷ USD, lớn hơn tổng chi tiêu của Saudi Arabia, Ấn Độ và Pháp (lần lượt là nước chi tiêu nhiều thứ 3, thứ 4 và thứ 5). Con số này chiếm 1,9% GDP của Trung Quốc và 5,5% chi tiêu công năm 2018.
Ngay cả khi chấp nhận những con số chính thức, thì mức tăng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc năm 2019 cũng sẽ vượt từ 6-6,5% so với mục tiêu tăng trưởng kinh tế được nước này công bố - con số mà một số nhà quan sát cho là bị phóng đại. Dù được tính theo tỷ lệ tăng trưởng chính thức hay theo ước tính, thì chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc vẫn tăng nhanh hơn tăng trưởng kinh tế nói chung trong hầu hết các năm kể từ khi Tổng Bí thư Tập Cận Bình lên nắm quyền - một sự thật đáng chú ý phản ánh ưu tiên ở mức cao của Bắc Kinh đối với quân đội Trung Quốc trước những vấn đề khác cũng đòi hỏi nguồn lực của chính phủ. Tiến sĩ Saunders lưu ý với USCC rằng đã có sự tranh giành nguồn lực giữa các quân chủng của Trung Quốc; nếu nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc hơn nữa; cạnh tranh giữa các quân chủng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn và có thể làm trì hoãn việc sản xuất hay đưa các tài sản tân tiến vào phiên chế.
Quân đội tầm cỡ thế giới trong khu vực và xa hơn nữa
Mở rộng chiến trường ra bên ngoài biên giới Trung Quốc
Trong những năm gần đây, chiến lược quân sự của Trung Quốc, vốn từng tập trung vào bảo vệ lãnh thổ, đã trở nên phù hợp với tham vọng ngày càng gia tăng về các mục tiêu địa chính trị của Bắc Kinh là tăng cường tập trung mở rộng phạm vi chiến đấu ra xa biên giới của Trung Quốc nhất có thể. Các văn bản chính thức của PLA giờ đây nhắc tới một khái niệm được mô tả là “hệ thống phòng thủ tuyến đầu”, tức là PLA tìm cách mở rộng tầm với vượt ra ngoài khu vực ngoại vi nhằm bảo vệ các lợi ích của Trung Quốc ở nước ngoài. Theo cuốn Khoa học chiến lược quân sự năm 2013, một mục tiêu then chốt của PLA là mở rộng từ phòng thủ trên lãnh thổ trong nước sang phòng thủ tuyến đầu, mở rộng phạm vi phòng thủ của Trung Quốc nhằm hình thành một vùng chiến lược hình vòng cung bao quanh Tây Thái Bình Dương và Bắc Ấn Độ Dương. Cuốn sách này cũng thảo luận về đòi hỏi cấp thiết phải tấn công kẻ thù ở tầm xa nhất có thể và phát triển năng lực nhằm tiến hành các hoạt động chung với quy mô tương đối lớn bên ngoài chuỗi đảo thứ nhất để đạt được mục tiêu có liên quan tới các tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc.
Để thực hiện mục tiêu này, ĐCSTQ đã giao nhiệm vụ cho Hải quân PLA chuyển trọng tâm từ “phòng thủ các vùng biển gần” sang kết hợp giữa “phòng thủ các vùng biển gần” và “bảo vệ các vùng biển xa”. Điều này bao gồm việc “đẩy nhanh quá trình chuyển đổi các nhiệm vụ của Hải quân PLA từ phòng thủ ở các vùng biển gần bờ sang bảo vệ ở vùng biển xa bờ”, một chỉ thị lần đầu tiên được đưa ra trong Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2015 và được mô tả chi tiết hơn trong Sách Trắng quốc phòng năm 2019. Đáng chú ý là cách các nhà lãnh đạo quân sự thảo luận về việc Hải quân PLA cần chuẩn bị để thách thức và trả đũa Mỹ ở các vùng biển xa cho thấy chỉ thị mới này bao gồm cả nhiệm vụ hộ tống trong thời bình lẫn nhiệm vụ tác chiến trong môi trường thời chiến.
Những lợi ích toàn cầu và các căn cứ nước ngoài
Việc mở rộng các lợi ích của Trung Quốc trên toàn thế giới là động lực then chốt thúc đẩy mục tiêu của ĐCSTQ là xây dựng PLA trở thành một lực lượng quân sự hàng đầu thế giới. Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2015 giải thích rằng “với việc không ngừng mở rộng các lợi ích quốc gia, an ninh quốc gia của Trung Quốc dễ bị tổn thương hơn trước những bất ổn quốc tế và khu vực”, và nói thêm rằng việc bảo vệ an toàn cho các lợi ích ở nước ngoài như năng lượng và tài nguyên, các tuyến liên lạc trên biển và các thể chế, cá nhân và tài sản ở nước ngoài đã trở thành một vấn đề cấp bách. Sách Trắng năm 2019 đã triển khai ý tưởng này, tuyên bố rằng các lợi ích ở nước ngoài của Trung Quốc đang gặp nguy hiểm bởi một loạt mối đe dọa như chủ nghĩa khủng bố cũng như tình trạng bất ổn quốc tế và khu vực, và rằng PLA phải bảo vệ những lợi ích đó. Trước đó, ý tưởng này đã được trình bày trong cuốn Khoa học chiến lược quân sự năm 2013, trong đó nhận định rằng các lợi ích của Trung Quốc không còn bị giới hạn trong lãnh thổ nước này mà đã “mở rộng hướng tới các lĩnh vực công cộng trên toàn cầu, trong đó có các đại dương, không gian vũ trụ và không gian điện từ”.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã có những bước đi ban đầu để thiết lập sự hiện diện quân sự lâu dài ở nhiều địa điểm trên toàn thế giới nhằm củng cố vành đai phòng thủ đang mở rộng và duy trì các hoạt động của Trung Quốc ở nước ngoài. Năm 2019, Bắc Kinh đã phát tín hiệu cho thấy họ có ý định mở rộng sự hiện diện này, tuyên bố rằng theo chính sách quốc gia, PLA “xây dựng lực lượng ở các vùng biển xa và phát triển các cơ sở hạ tầng hậu cần ở nước ngoài nhằm giải quyết những thiếu hụt trong các hoạt động và sự hỗ trợ ở nước ngoài”. Năm 2017, PLA đã mở căn cứ thường trú nước ngoài đầu tiên ở Djibouti, dù Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 1998 đã viết rằng “Trung Quốc không đóng quân hay thiết lập bất kỳ căn cứ quân sự nào ở bất kỳ nước nào bên ngoài”. Ngay sau đó, PLA đã mở một trạm kiểm soát nhiệm vụ vệ tinh và không gian ở vùng Patagonia thuộc Argentina, thiết lập sự hiện diện thường trực đầu tiên của họ ở Tây bán cầu. Bắc Kinh đã ký hợp đồng thuê đất kéo dài 50 năm, và các chuyên gia đánh giá rằng trạm kiểm soát này, vốn được Lực lượng hỗ trợ chiến lược điều hành, có thể được sử dụng để thu thập thông tin tình báo về các vệ tinh của Mỹ hay của các nước khác, các vụ phóng tên lửa và sự di chuyển của máy bay không người lái. Trạm này cũng có thể can thiệp hoặc phá hoại hệ thống thông tin liên lạc, các mạng lưới điện tử và hệ thống điện từ ở Tây bán cầu. Tháng 3/2018, Tướng Thomas D. Waldhauser, khi đó là Tư lệnh Bộ chỉ huy châu Phi của Mỹ, trong phiên điều trần trước Ủy ban quân lực Hạ viện đã nhận định rằng “cảng ở Djibouti không phải là cảng cuối cùng mà Trung Quốc sẽ xây dựng ở châu Phi”. Tháng 2/2019, ông đã nhắc lại khả năng Trung Quốc xây dựng thêm các căn cứ ở châu lục này trong một phiên trả lời chất vấn trước Ủy ban các lực lượng vũ trang của Thượng viện. Một số nhà phân tích đã chỉ ra vịnh Walvis ở Namibia là ví dụ về một căn cứ của PLA ở châu Phi trong tương lai.
Trung Quốc cũng đã bắt đầu mở rộng sự hiện diện quân sự ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Theo tin tức truyền thông, Cảnh sát vũ trang nhân dân Trung Quốc, một lực lượng bán quân sự dưới sự chỉ huy của PLA, đã hoạt động từ những tiền đồn ở Tajikistan trong ít nhất 3 năm. Lực lượng này đóng quân cách biên giới Afghanistan khoảng 10 dặm, bề ngoài là đang thực hiện nhiệm vụ chống khủng bố, dù Bắc Kinh bác bỏ những tin tức về sự hiện diện của họ bên ngoài biên giới Trung Quốc. Gần đây nhất, theo các quan chức Mỹ, Bắc Kinh đã đạt được một thỏa thuận để PLA hoạt động từ một căn cứ hải quân ở Campuchia. Một số nguồn tin cho biết Phnom Penh sẽ cho phép Trung Quốc sử dụng căn cứ này trong 30 năm - và được tự động gia hạn mỗi 10 năm sau đó - tại đây Trung Quốc sẽ được ủy quyền đóng quân, trữ vũ khí và neo đậu tàu chiến.
Trung Quốc cũng được cho là sẽ tìm cách thiết lập sự hiện diện quân sự ở Vanuatu - quốc gia đã tán thành sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI) - và nhiều nhà phân tích cho rằng Trung Quốc có kế hoạch xây dựng căn cứ hải quân thứ hai gần cảng Gwadar ở Pakistan, dù Chính phủ Trung Quốc bác bỏ thông tin này. Trung Quốc hiện cũng đang xây dựng căn cứ thứ 5 ở Nam Cực, nơi sẽ đặt sân bay cố định đầu tiên của Trung Quốc trên lục địa này. Cho đến nay, không có bằng chứng về sự hiện diện quân sự hay sự tham gia của quân đội Trung Quốc tại các cơ sở này, nhưng khả năng là chúng có thể hỗ trợ theo dõi tên lửa hoặc được sử dụng như vỏ bọc cho sự hiện diện quân sự bí mật hoặc thu thập thông tin tình báo.
Tiềm năng quân sự hóa BRI
BRI của Trung Quốc đã nổi lên như là khái niệm mang tính tổ chức rõ ràng nhất đằng sau sự hiện diện ngày càng được mở rộng của PLA ở nước ngoài, dù vẫn chưa biết chính xác PLA đóng vai trò gì trong việc bảo đảm an ninh cho BRI. Tháng 1/2019, Tổng bí thư Tập Cận Bình đã kêu gọi Trung Quốc xây dựng hệ thống bảo đảm an ninh cho BRI, nhắc lại những ngôn từ của Bộ trưởng Quốc phòng Ngụy Phượng Hòa hồi năm 2018 khi tuyên bố rằng PLA quan tâm tới việc hợp tác với Pakistan nhằm bảo đảm an ninh cho các dự án BRI.
Trong các ấn phẩm đăng trên các tạp chí quân sự, PLA đã mô tả BRI là một nỗ lực nhằm đưa chiến lược của Trung Quốc đi vào chiều sâu. Nỗ lực này đã tạo ra những yêu cầu và phương án mới để Bắc Kinh sử dụng và bố trí các lực lượng quân sự ở nước ngoài. Chẳng hạn, trong một bài viết của một vài sỹ quan Không quân PLA, các tác giả đã tiết lộ sự tồn tại của một chiến lược “bước ra toàn cầu” đòi hỏi PLA phải biến các hoạt động quân sự ngoài biên giới Trung Quốc thành một thông lệ đồng thời khuyến khích việc sử dụng các khoản đầu tư BRI - nhất là vào các cảng, sân bay và các tuyến đường sắt - nhằm hỗ trợ việc triển khai sức mạnh ở nước ngoài. Tương tự, trong một bài viết được xuất bản năm 2018, một sĩ quan cao cấp thuộc Hải quân PLA đã mô tả BRI là một lý do để Trung Quốc biện minh cho việc gia tăng sự hiện diện quân sự ở nước ngoài và tăng cường chiều sâu chiến lược, trong đó có việc thiết lập thêm các căn cứ quân sự ở nước ngoài. Cũng trong năm 2018, Chỉ huy hạm đội Nam Hải của Hải quân PLA đã tuyên bố rằng lực lượng này phải hợp tác chặt chẽ với BRI và bảo đảm rằng các năng lực chiến lược có thể mở rộng và lan tỏa ở bất kỳ nơi nào mà các lợi ích của Trung Quốc phát triển. Gần đây, vào năm 2019, tại một diễn đàn do Trung Quốc tổ chức dành cho nguyên thủ các quốc gia Caribe và Nam Thái Bình Dương, Ngụy Phượng Hòa đã nhắc lại ý tưởng rằng BRI đóng vai trò một nền tảng hữu ích cho sự hợp tác quân sự, kêu gọi trao đổi và hợp tác quân sự trong khuôn khổ BRI. Theo một bài viết đăng trên tạp chí PLA vào tháng 5/2019, tần suất và phạm vi của các hoạt động của PLA ở nước ngoài chắc chắn phải gia tăng để bảo vệ các lợi ích của Trung Quốc ở nước ngoài, nhất là các dự án BRI.
Việc bảo vệ các lợi ích của Trung Quốc có liên quan tới BRI có thể đòi hỏi phải đẩy mạnh triển khai các năng lực của PLA ở nước ngoài, dù trong thời gian đó, Bắc Kinh có thể dựa vào các lực lượng an ninh tư nhân và của nước sở tại để lấp vào chỗ trống. Các công ty Trung Quốc ở nước ngoài ngày càng sử dụng nhiều dịch vụ an ninh của các nhà thầu an ninh tư nhân Trung Quốc thay vì các nhà thầu của Mỹ hay châu Âu. Ước tính có khoảng 20 công ty an ninh tư nhân Trung Quốc - nhân viên của các công ty này thường là các cựu sĩ quan PLA có quan hệ chặt chẽ với Bắc Kinh - hiện đang hoạt động ở nước ngoài và sử dụng 3.200 nhân viên an ninh ở các quốc gia như Iraq, Pakistan và Sudan. Khi xét tới việc luật pháp Trung Quốc cho phép ĐCSTQ kiểm soát ở mức độ đáng kể đối với các doanh nghiệp Trung Quốc vì mục đích an ninh quốc gia, có khả năng Bắc Kinh sẽ sử dụng những lực lượng này như một công cụ chính sách quốc gia trong thời bình hay trong một cuộc khủng hoảng.
Trong thập kỷ qua, phần nào thông qua BRI, đầu tư của Trung Quốc vào các cảng thương mại ở nước ngoài đã gia tăng đáng kể. Điều này đã làm dấy lên những mối quan ngại rằng Bắc Kinh có thể biến các đóng góp kinh tế thành các căn cứ hay các tiền đồn chiến lược khác. Tính đến năm 2019, các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc hoặc sở hữu vốn cổ phần hoặc có hợp đồng thuê còn hiệu lực tại ít nhất là 70 cảng ngoài Trung Quốc. Thái độ dè dặt đối với những ý định của Trung Quốc càng gia tăng khi Bắc Kinh chuyển đổi nợ tồn đọng thành cổ phần kiểm soát và hợp đồng thuê 99 năm đối với cảng Hambantota ở Sri Lanka vào năm 2017. Các nhà phân tích thuộc Trung tâm nghiên cứu quốc phòng tiên tiến có trụ sở tại Mỹ đã nghiên cứu các khoản đầu tư của Trung Quốc vào các cảng cũng như những ấn phẩm có căn cứ đích xác của Trung Quốc thảo luận về cơ sở hợp lý của các khoản đầu tư này và phát hiện ra rằng chúng tạo ra ảnh hưởng đòn bẩy chính trị, làm gia tăng sự hiện diện quân sự của Bắc Kinh và định hình lại môi trường hoạt động chiến lược theo cách có lợi cho Trung Quốc mà cái giá phải trả thường do nước nhận đầu tư gánh chịu.
Các cảng được các công ty Trung Quốc đầu tư cũng có thể có những tính năng lưỡng dụng quân sự; chẳng hạn, những yêu cầu trong Luật vận tải quốc phòng 2017 của Trung Quốc về việc gắn liền mục đích quân sự với dân sự cho thấy các cảng thương mại có thể được các quân nhân sử dụng nếu Bắc Kinh quyết định rằng việc đó phục vụ cho lợi ích của họ. Bắc Kinh cũng đã đạt được các thỏa thuận để Hải quân PLA sử dụng các cảng thương mại mà ở đó các công ty Trung Quốc không có cổ phần thương mại, trong đó có cảng Salalah ở Oman, vào một loạt mục đích hỗ trợ các hoạt động quân sự bao gồm cả việc tiếp nhiên liệu và các chuyến thăm cảng. Do đó, Isaac B. Kardon, Phó Giáo sư Đại học Chiến tranh hải quân Mỹ, lưu ý trong phiên điều trần với USCC rằng mặc dù Trung Quốc có thể không tập trung riêng vào việc thiết lập thêm các thỏa thuận đóng quân chính thức - chẳng hạn như các thỏa thuận về quy chế của các lực lượng (SOFA) - nhưng “PLA sẽ tận dụng một mạng lưới các cơ sở hạ tầng thương mại mà không có bất kỳ thỏa thuận chính thức hay công khai nào về việc sử dụng những cơ sở này cho mục đích quân sự”. Những thỏa thuận như vậy có khả năng đạt được là nhờ các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc nằm trong số các nhà điều hành cảng hàng đầu thế giới.
Một khái niệm quan trọng khác định hướng cho PLA gia tăng sự hiện diện ở nước ngoài là điều mà Bắc Kinh gọi là mô hình “điểm mạnh chiến lược”. Theo mô hình này, các cảng được Trung Quốc đầu tư hoặc kiểm soát, từ các cảng thương mại mà các công ty nhà nước Trung Quốc nắm đa số cổ phần cho tới các căn cứ quân sự thực thụ chẳng hạn như căn cứ ở Djibouti, sẽ hỗ trợ lẫn nhau và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của PLA ở nước ngoài, bao gồm cả thông qua hoạt động tiếp tế và các dịch vụ hỗ trợ khác. Cuốn Khoa học chiến lược quân sự năm 2013 giải thích rằng những điểm mạnh chiến lược sẽ đưa PLA đi theo “hướng hai đại dương” (Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương), đóng vai trò như các căn cứ tác chiến tuyến đầu hoặc hỗ trợ các hoạt động quân sự theo cách khác, và tận dụng sức ảnh hưởng ở khu vực xung quanh. Theo tiến sĩ Kardon, các chiến lược gia Trung Quốc coi căn cứ hải quân của Trung Quốc ở Djibouti cũng như các cảng trên các đảo nhân tạo mà Bắc Kinh đã xây dựng ở Biển Đông là những điểm mạnh chiến lược và là một phần của nỗ lực phát triển một hệ thống phòng thủ trên biển trong khu vực rộng lớn.
Trong số hai đại dương được thảo luận trong cuốn Khoa học chiến lược quân sự, Conor Kennedy thuộc Đại học Chiến tranh hải quân Mỹ đánh giá rằng Bắc Kinh đang ưu tiên Ấn Độ Dương - vốn kết nối Djibouti và Biển Đông - trong việc phát triển hơn nữa các điểm mạnh chiến lược vì đó là hành lang quan trọng nhất đối với nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc và các hoạt động thương mại đường biển khác. Đồng thời, các chiến lược gia Trung Quốc cũng thảo luận về tiềm năng của việc thiết lập các điểm mạnh chiến lược ở Thái Bình Dương và sự hợp tác an ninh mở rộng giữa Bắc Kinh và các quốc đảo Thái Bình Dương. Những nỗ lực được báo cáo nhằm thiết lập sự hiện diện quân sự trong khu vực, chẳng hạn như ở Vanuatu, có thể hỗ trợ cho nỗ lực này. Theo tiến sĩ Kardon, “việc bổ sung một căn cứ duy nhất, có năng lực tốt hơn ở trung tâm Ấn Độ Dương (chẳng hạn như ở Hambantota, nơi đang có nhiều suy đoán về những ý định của Trung Quốc), ở bờ Tây châu Phi và Nam Thái Bình Dương, sẽ rút ngắn thời gian tiếp tế để Hải quân PLA có thể duy trì các hoạt động viễn chinh nhất định trên khắp khu vực Ấn Độ Dương, Nam Đại Tây Dương và Tây Thái Bình Dương”.
PLA cải thiện năng lực viễn chinh
PLA đã có tiến bộ đáng kể trong việc phát triển và đưa vào phiên chế các phương tiện hỗ trợ cho việc triển khai sức mạnh ở nước ngoài. Hải quân PLA đang phát triển tàu sân bay thứ ba, nhưng sự phát triển đáng kể nhất trong năng lực triển khai sức mạnh của lực lượng này là việc đều đặn đưa các tàu tấn công đổ bộ vào hoạt động. Christopher D. Yung, từng là chuyên gia về tư duy chiến lược ngoài phương Tây thuộc Đại học Thủy quân lục chiến Mỹ, trong phiên điều trần trước USCC đã nhận định rằng chính việc mua sắm các tàu đổ bộ mới đã thực sự báo hiệu sự xuất hiện của năng lực viễn chinh của Hải quân Trung Quốc. Những tàu này bao gồm các tàu vận tải đổ bộ, tàu đổ bộ kiểu đệm khí và một lớp tàu mới lớn hơn được cho là có thể chuyên chở hơn 25 máy bay trực thăng. Chiếc tàu đầu tiên thuộc lớp tàu mới này chính thức được ra mắt vào tháng 9/2019, dù tuần san Jane’s Defense đánh giá rằng phải một năm nữa nó mới được tiến hành các cuộc thử nghiệm trên biển.
Ngoài ra, Trung Quốc đã tăng gấp đôi quy mô lực lượng lính thủy đánh bộ, vốn nằm dưới sự chỉ huy của Hải quân PLA, từ một lực lượng 20.000 quân ước tính tăng lên mức 40.000. Nhiệm vụ của lính thủy đánh bộ thuộc Hải quân PLA cũng đang được mở rộng. Trong khi nhiệm vụ chính của lính thủy đánh bộ thuộc Hải quân PLA theo truyền thống là chiếm giữ các đảo ngoài khơi Đài Loan cũng như các đảo và đá ở biển Hoa Đông và Biển Đông, thì giờ đây lực lượng này được mô tả là một “lực lượng tác chiến kiểu mới” có khả năng hoạt động trên mặt đất, trên không và trên biển, cũng như tiến hành các hoạt động trong môi trường biển, đô thị, rừng nhiệt đới, sa mạc và nơi có nhiệt độ thấp. Trong Không quân PLA, máy bay hạng nặng chiến lược mới Y-20 của Trung Quốc đã được đưa vào sử dụng trong năm 2016 và máy bay hạng nặng chiến lược AN-225 đang được sản xuất. Cả hai loại máy bay này sẽ tăng cường năng lực viễn chinh của PLA. Lục quân PLA cũng đang tìm cách tăng cường khả năng thích ứng với các hoạt động viễn chinh bên ngoài biên giới lãnh thổ Trung Quốc, trong đó có thông qua việc củng cố các hoạt động đặc nhiệm, năng lực trực thăng và cơ giới hóa nhẹ.
Việc PLA phát triển năng lực viễn chinh có thể làm gia tăng sự tự tin của Trung Quốc trong việc sử dụng vũ lực bên ngoài biên giới nước này. Tiến sĩ Yung đánh giá rằng hoạt động tác chiến bên ngoài khu vực đầu tiên của PLA có khả năng sẽ là một phần của liên minh gồm các quốc gia thuộc Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), mà trong đó Trung Quốc là nước thành viên sáng lập, phản ứng trước một cuộc khủng hoảng an ninh, chẳng hạn như một cuộc tấn công khủng bố hoặc phong trào nổi dậy ở một nước thành viên. PLA đã chuẩn bị cho một hoạt động như vậy thông qua các cuộc diễn tập kết hợp thường xuyên tập trung vào chống khủng bố và các mối đe dọa an ninh trong nước mà PLA đã tiến hành với quân đội các nước khác thuộc SCO từ giữa những năm 2000, trong đó có Nga và các nước Trung Á. Cả tiến sĩ Yung lẫn tiến sĩ Kardon đều đánh giá rằng PLA có khả năng vận tải để triển khai binh lính cho một hoạt động như vậy và rằng Bắc Kinh, vốn nhạy cảm trước những mối quan ngại của các nước khác về sự hiện diện quân sự của Trung Quốc ở nước ngoài, có thể cảm thấy một hoạt động như vậy sẽ được coi là hợp pháp do nằm trong khuôn khổ một tổ chức quốc tế. Tiến sĩ Kardon lập luận rằng Bắc Kinh có thể cho rằng một hoạt động như vậy có căn cứ pháp lý hợp lý hơn do những quy định pháp lý trong thỏa thuận SCO quy định về các cuộc tập trận giữa các nước thành viên, điều mà một số học giả Trung Quốc cho là cung cấp một mô hình cho các căn cứ ở nước ngoài trong tương lai.
Việc PLA triển khai năng lực viễn chinh hải quân mới có thể làm thay đổi hơn nữa các động lực an ninh khu vực, thậm chí toàn cầu. Theo tiến sĩ Yung, điều không thể tránh khỏi là trong 10-15 năm tới, Trung Quốc sẽ triển khai một nhóm có khả năng đổ bộ, gồm các tàu chiến chở lực lượng mặt đất được trang bị cho các hoạt động đổ bộ, bên ngoài khu vực ngoại vi của nước này, có thể là tiến hành các cuộc tuần tra thường xuyên ở Ấn Độ Dương hoặc các nơi khác trong khu vực. Ông lập luận rằng những đợt triển khai như vậy sẽ cho phép Trung Quốc nhanh chóng ứng phó với một cuộc khủng hoảng mới nảy sinh hoặc đạt được các mục tiêu địa chính trị khác. Việc triển khai kiểu lực lượng này cũng có thể đem lại cho Bắc Kinh một công cụ mới có ý nghĩa quan trọng nhằm gia tăng sự cưỡng ép quân sự đối với các nước láng giềng, đặt ra cho Nhật Bản, Đài Loan, Philippines và các nước khác viễn cảnh về lực lượng lính thủy đánh bộ Trung Quốc, với quân số lên tới hàng nghìn người, sẵn sàng nhanh chóng chiếm giữ vùng lãnh thổ bị tranh chấp ở biển Hoa Đông và Biển Đông.
PLA đẩy mạnh triển khai lực lượng ở nước ngoài
Trong những năm gần đây, PLA đã gia tăng tần suất và độ phức tạp của các hoạt động ở nước ngoài trong thời bình, cho phép họ có được kinh nghiệm tác chiến có giá trị để chuẩn bị cho một cuộc khủng hoảng quân sự có thể diễn ra ở nước ngoài trong tương lai. Đáng kể nhất, nhóm đặc nhiệm chống cướp biển mà Hải quân PLA đã cử tới vịnh Aden trong hơn 10 năm qua đã tạo thành sự hiện diện gần như thường trực của PLA ở Ấn Độ Dương. Các nhóm đặc nhiệm này đã được bổ sung tàu ngầm từ năm 2013, mang lại cho PLA cơ hội cải thiện năng lực tác chiến ngầm cách xa bờ biển Trung Quốc. Các nước trong khu vực như Ấn Độ coi đây là một điều đáng báo động. Từ năm 2012, PLA cũng đã tham gia hơn 100 cuộc tập trận chung quốc tế với nhiều quốc gia và tổ chức khác nhau.
Những đợt triển khai quan trọng khác của PLA là dành cho các hoạt động hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa và các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Từ năm 2013, PLA đã tiến hành 10 hoạt động hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa ở nước ngoài và hiện đang tham gia 7 hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, và nhờ đó có cơ hội triển khai trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, châu Phi và Trung Đông. Trong khi PLA đã cải thiện đáng kể khả năng cung cấp hàng cứu trợ ở nước ngoài và triển khai thêm các năng lực và nhân lực cho những sứ mệnh này trong 15 năm qua, những đợt triển khai này cũng cho phép PLA có được những kinh nghiệm hữu ích có thể hỗ trợ cho việc triển khai binh lính tác chiến ở nước ngoài. Chẳng hạn, những sứ mệnh hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa đem lại cho PLA cơ hội thực hành và cải thiện các khả năng tác chiến, chẳng hạn như chỉ huy và kiểm soát, lãnh đạo đơn vị nhỏ, kỹ thuật, các hoạt động sử dụng trực thăng và hoạt động hậu cần cần thiết để triển khai và duy trì các lực lượng ở nước ngoài (nhất là cầu không vận chiến lược, viện trợ y tế và tiếp tế từ xa), dù không mang lại kinh nghiệm thực sự nào phục vụ trực tiếp cho tác chiến. PLA đã sử dụng hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc để có được những kinh nghiệm tương tự; chẳng hạn vào tháng 12/2017, một máy bay trực thăng của Lục quân PLA được triển khai tới Sudan để hỗ trợ một hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đánh dấu lần đầu tiên PLA triển khai năng lực hàng không của lục quân trong hoạt động ở nước ngoài trong thời gian dài.
Việc triển khai thường xuyên các lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc ở nước ngoài cũng giúp cải thiện khả năng tác chiến của các quân chủng này ở nước ngoài. Hải quân PLA thường xuyên có các chuyến thăm cảng và tiến hành tập trận với hải quân các nước ở xa, trong đó có ở Địa Trung Hải, biển Baltic, vịnh Aden và vùng biển ngoài khơi Úc. Các chuyến thăm cảng và sự tham gia của PLA trong các cuộc tập trận với quân đội các nước khác ở Tây bán cầu trong những năm gần đây, mà mới đây nhất là triển khai một tàu bệnh viện đến Venezuela như một phần của chuyến thăm thiện chí vào tháng 9/2018, là minh chứng rõ ràng hơn nữa cho thấy sự hiện diện toàn cầu ngày càng gia tăng của Hải quân PLA. Không quân PLA cũng đã đúc kết được kinh nghiệm thông qua các đợt triển khai ở nước ngoài trong những năm gần đây, khi cử các máy bay ném bom chiến lược H-6K và máy bay vận tải Y-9 tới tham gia Hội thao quân sự quốc tế ở Nga năm 2018, đánh dấu lần đầu tiên Bắc Kinh cho vận hành những máy bay triển khai sức mạnh then chốt này ở nước ngoài. Mới đây, một máy bay ném bom H-6K đã được triển khai trở lại Nga, lần này là để tham gia cuộc thi Aviadarts 2019, cho thấy rằng những đợt triển khai này có thể diễn ra đều đặn.
Tuy nhiên, năng lực viễn chinh của PLA vẫn tồn tại những điểm yếu đáng kể, vì các lực lượng thiếu vắng một học thuyết được phát triển đầy đủ, hệ thống chỉ huy kiểm soát và hậu cần mạnh mẽ, cũng như những khả năng y tế, sửa chữa và bảo trì cần thiết cho những hoạt động viễn chinh lâu dài vượt ra ngoài khu vực ngoại vi của Trung Quốc. Tuy vậy, tiến sĩ Yung cũng phát biểu trước USCC rằng những bài học rút ra từ các hoạt động ở nước ngoài mà PLA đã tiến hành, cụ thể là các hoạt động chống cướp biển, đã khiến năng lực của PLA trong việc tiến hành và duy trì các hoạt động viễn chinh được cải thiện. PLA cũng rút ra những bài học quan trọng về các hoạt động ở nước ngoài từ những kinh nghiệm trước đây trong việc sơ tán công dân Trung Quốc khỏi các quốc gia bất ổn, trong đó có Libya vào năm 2011 và Yemen năm 2015. Những hoạt động này không mang tính tác chiến và cũng không thể thay thế hẳn cho hoạt động tác chiến, nhưng chúng đã mang lại cho PLA cơ hội thực hành và cải thiện các năng lực có thể được áp dụng cho một loạt sứ mệnh trong tương lai, trong đó có các hoạt động tác chiến.
Ý nghĩa đối với Mỹ
Tham vọng của Bắc Kinh xây dựng PLA thành một lực lượng quân đội hàng đầu thế giới sẽ đặt ra những thách thức đối với các lợi ích của Mỹ cũng như các đồng minh và đối tác của nước này trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và xa hơn thế. Việc phát triển một lực lượng thực sự có tầm cỡ thế giới về công nghệ, huấn luyện và nhân sự có khả năng sẽ cho phép Bắc Kinh chiến thắng trong một cuộc xung đột quân sự với bất kỳ đối thủ nào trong khu vực và có thể khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc càng sẵn sàng sử dụng PLA để buộc các nước láng giềng phải từ bỏ các yêu sách về lãnh thổ và các lợi ích chủ quyền khác của họ. PLA vốn đã thường xuyên ép buộc các nước láng giềng ở mức dưới ngưỡng xung đột quân sự, làm gia tăng khả năng Bắc Kinh sử dụng một PLA tinh nhuệ hơn theo cách thậm chí còn quyết đoán hơn.
Sở hữu một PLA tầm cỡ thế giới sẽ làm gia tăng sự tự tin của Bắc Kinh vào khả năng của họ trong việc giải quyết dứt điểm các tranh chấp chủ quyền trong khu vực bằng vũ lực. Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ đáng kể với hai đồng minh hiệp ước của Mỹ là Nhật Bản và Philippines và coi Đài Loan, một đối tác an ninh then chốt của Mỹ, như một tỉnh nổi loạn. Bắc Kinh có thể quyết định châm ngòi cho xung đột quân sự ngay cả khi tính toán rằng Mỹ sẽ can thiệp vì Bắc Kinh tự tin rằng họ sẽ có thể ngăn chặn hoặc đánh bại các lực lượng quân sự can thiệp của Mỹ trên thực tế.
Sự hiện diện quân sự của Trung Quốc bên ngoài Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ đặt ra thêm một thách thức cho sự can thiệp của Mỹ vì PLA có thể sử dụng mạng lưới các điểm mạnh ở nước ngoài nhằm trì hoãn hoặc dùng cách khác khiến các lực lượng Mỹ không thể tới được chiến trường chính trong khu vực. Nếu PLA chứng tỏ rằng họ có thể nhanh chóng đạt được các mục tiêu trên chiến trường - đây không phải là một viễn cảnh xa xôi khi xét tới phạm vi có giới hạn của một cuộc xung đột có thể xảy ra về tranh chấp chủ quyền - Mỹ có thể sẽ phải đối mặt với tình huống “sự đã rồi” trong quân sự. Theo lập luận của Elbridge Colby, khi đó là Giám đốc chương trình quốc phòng thuộc Trung tâm an ninh Mỹ mới, trong phiên điều trần trước USCC vào tháng 6/2019, “mối nguy trên hết mà chúng ta phải đối mặt là việc Trung Quốc sở hữu một lực lượng quân đội hàng đầu thế giới mà họ có thể sử dụng trong khu vực, chứ không phải một lực lượng toàn cầu”.
Những tiến bộ mà PLA đạt được trong ứng dụng trí tuệ nhân tạo cũng có thể hạ thấp các rào cản đối với xung đột quân sự. Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng cấp cao thuộc Tổ chức RAND, đã viết trong tuyên bố tại phiên điều trần năm 2019 của USCC: “Khi bắt đầu dựa vào các phương tiện tự hành trong cách tiếp cận kết nối các hệ thống trong tác chiến, Bắc Kinh có khả năng nhận thấy nguy cơ leo thang đang giảm. Nói cách khác, việc tấn công các máy bay không người lái hay hệ thống máy tính mà họ dựa vào sẽ không gây nguy hiểm trực tiếp tới tính mạng con người, và do đó sẽ đơn giản được coi là chiến tranh robot”. Grossman cũng đánh giá rằng với sự phụ thuộc gia tăng của PLA vào trí tuệ nhân tạo, “yếu tố con người - lẽ thường, cảm xúc và luân thường đạo lý - có thể sẽ bị thay thế bởi những tính toán vô cảm của máy tính, làm gia tăng khả năng tính toán sai lầm và leo thang chiến tranh”.
Việc Mỹ hợp tác với Trung Quốc về thương mại hay học thuật trong việc phát triển công nghệ tiên tiến có thể khiến Mỹ trở thành đồng phạm trong những nỗ lực của PLA nhằm trở thành một lực lượng tầm cỡ thế giới. Tương tự, sự hợp tác giữa quân đội hai nước giúp cải thiện năng lực hoạt động của PLA và cung cấp huấn luyện cho các sĩ quan cũng có thể góp phần dẫn tới kết quả này. Trong khi nhiều cuộc trao đổi giữa quân đội hai nước giúp làm bình ổn mối quan hệ rộng lớn hơn, thì PLA cũng sử dụng các cuộc trao đổi khác như những cơ hội để cải thiện kỹ năng tác chiến cũng như các chương trình huấn luyện sĩ quan và quản lý quân nhân.
Ngay cả khi không có xung đột vũ trang giữa Trung Quốc và Mỹ, Bắc Kinh có thể sử dụng sự hiện diện quân sự ở nước ngoài của họ để gây ảnh hưởng tới các chính sách hay các sự kiện ở những nước bên ngoài Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Abraham M. Denmark, Giám đốc chương trình châu Á thuộc Trung tâm học giả quốc tế Woodrow Wilson, phát biểu trong phiên điều trần trước USCC: “Đối với các quốc gia ít quan tâm đến các tham vọng chiến lược của Trung Quốc, nước này được coi là một đối tác tiềm năng trong việc cung cấp hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, hỗ trợ quân sự và có thể là hỗ trợ an ninh trong nước”. ĐCSTQ đã hỗ trợ cho một số quốc gia trên thế giới theo đuổi các chính sách có hại cho các lợi ích của Mỹ; một sự hiện diện quân sự mạnh mẽ hơn sẽ đem lại cho Bắc Kinh thêm nhiều công cụ nhằm cho phép thực hiện những cơ chế đằng sau những hành động này. Một PLA tầm cỡ thế giới gần như chắc chắn sẽ là một đối tác thậm chí còn hấp dẫn hơn đối với nhiều quốc gia, làm gia tăng sức ảnh hưởng của Bắc Kinh ở nhiều nơi hơn trên thế giới, ngay cả những nơi họ không thể phô trương sức mạnh và duy trì các hoạt động tác chiến.
Hiện nay, năng lực và sự hiện diện toàn cầu ngày càng gia tăng của PLA đã đặt ra những thách thức đối với chính phủ và quân đội Mỹ, và những thách thức này sẽ chỉ gia tăng khi PLA tiến tới trở thành một lực lượng tác chiến thực sự hàng đầu thế giới. Theo nhận định của Thomas G. Mahnken, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Trung tâm đánh giá chiến lược và ngân sách, trong phiên điều trần trước USCC, thách thức mà Trung Quốc đặt ra không chỉ giới hạn trong khu vực lân cận nước này. Giờ đây, “Trung Quốc đặt ra thách thức - về chính trị, kinh tế và quân sự - vượt qua ranh giới của các bộ chỉ huy tác chiến theo khu vực địa lý của Bộ Quốc phòng Mỹ và các cơ quan khu vực của Bộ Ngoại giao Mỹ”.
Bài viết được trích trong Báo cáo trước Quốc hội Mỹ của Ủy ban đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ-Trung năm 2019, tr.285-304
Minh Anh (gt)
Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo mọi thứ và có mặt ở khắp mọi nơi. Một trong những phi hành gia của Trung Quốc đã kêu gọi thành lập một nhánh của ĐCSTQ ngoài không gian - sẽ là “một bước tiến nhỏ của con người, một bước tiến vĩ đại cho nhân loại”.
Để phục vụ công tác nghiên cứu và tra tìm tư liệu, website Nghiên cứu Biển Đông trân trọng giới thiệu bạn đọc toàn văn bài nghiên cứu có tựa đề “Chuyến thăm của Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Sherman và việc bổ nhiệm đại sứ mới Tần Cương liệu có mở ra bước ngoặt cho quan hệ Trung – Mỹ?” của tác giả Zhou Yuan,...
Liệu họ có thể tin tưởng vào một quốc gia ban đầu đã tìm cách che giấu dịch COVID-19 để rồi khiến nó lan ra toàn cầu hay không?
Bài viết này xem xét chính sách đối ngoại và ngoại giao của Trung Quốc trong khuôn khổ lý thuyết địa tâm lý học, một loại lý thuyết có thể được định nghĩa là lăng kính địa lý về mô hình hành vi và thái độ của một dân tộc đối với các dân tộc khác, bắt nguồn từ những kinh nghiệm trong quá khứ, quá trình...
Luận điệu của Trung Quốc về cuộc chiến chống COVID-19 đã thay đổi rõ rệt theo sự chuyển biến của tiến trình chống dịch trong nước: từ thận trọng và phòng vệ sang bất mãn với những nhận định về nguồn gốc của virus.
Không phải cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung hay các cuộc biểu tình ở Hong Kong, mà chính sự bùng phát dịch Covid-19 mới là thử thách thực sự về khả năng lãnh đạo của Chính quyền Tập Cận Bình.