Ngay những ngày đầu năm 2016, Trung Quốc đã tiến hành bay thử nghiệm tại sân bay mới xây dựng trái phép ở đá Chữ Thập, Trường Sa. Ngay sau đó, Bộ ngoại giao Việt Nam đã trao công hàm phản đối Trung Quốc và Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nêu rõ hành động này của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay, không tái diễn hành động tương tự. Tiếp đó, Mỹ, Philippines và Nhật Bản đều bày tỏ quan ngại sâu sắc đối với hành động trên của Trung Quốc.

Thực chất của việc thử nghiệm sân bay Chữ Thập

Trung Quốc phân bua rằng: “Chính phủ Trung Quốc tiến hành một chuyến bay thử nghiệm tới sân bay này bằng một máy bay dân sự nhằm kiểm tra xem cơ sở vật chất ở đây đã đáp ứng tiêu chuẩn hàng không dân dụng hay chưa?...”. Tuy nhiên, sau những gì mà Trung Quốc đã thực hiện ở Biển Đông, nhất là những hoạt động lấn biển, biến 7 bãi đá (chủ yếu là bãi cạn lúc chìm lúc nổi) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành các đảo nhân tạo quy mô lớn và xây dựng ở Chữ Thập, Xu Bi và Vành Khăn 3 đường băng dài trên dưới 3.000 m, cùng với những căn cứ quân sự chìm, nổi, khiến người ta không tin được vào những tuyên bố mỹ miều nói trên của Trung Quốc. Điều đó càng khiến dư luận thêm một lần nữa khẳng định rằng Trung Quốc đang theo đuổi quyết tâm quân sự hóa Biển Đông, bất chấp mọi phản ứng, quan ngại của các nước trong khu vực và quốc tế. Bởi vì, chỉ bằng cách đó, Trung Quốc mới có thể khống chế, tiến tới độc chiếm Biển Đông. Trước hết, hành động này trực tiếp đe dọa đến an ninh, an toàn hàng hải, hàng không quốc tế trong khu vực. Khi cầu hàng không từ Hải Nam, qua Hoàng Sa, xuống Trường Sa đi vào vận hành một các suôn sẻ, cùng với sự khởi động của sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”… có thể thấy rằng đến lúc đó, Trung Quốc sẽ ra tay “làm mưa làm gió” ở Biển Đông theo đúng kịch bản mà họ đã vạch ra từ trước. “Chuyến bay thử nghiệm” đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, đi ngược lại nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc và tinh thần của Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002. Tại sao?

Thứ nhất: Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để biến không thành có, biến vùng biển, đảo không tranh chấp thành vùng biển đảo tranh chấp. Sự thật lịch sử không thể giấu giếm được là từ thế kỷ XIX trở về trước, người Trung Hoa luôn coi biển và đại dương là hiểm họa cho sự tồn tại của họ, một phần vì họ không kiểm soát được, phần nữa vì hoạt động cướp biển luôn luôn đe dọa trong nhiều thế kỷ, tạo thành một mối lo lớn cho triều đình phong kiến Trung Quốc. Nhiều chính sách ngăn cấm rất nghiệt ngã được đề ra làm kim chỉ nam cho việc giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa... Đã có những thời kỳ ai đặt chân xuống biển đã bị coi là đại tội, dân chúng bị bắt buộc di cư vào trong đất liền 40 dặm, dọc theo duyên hải từ nam chí bắc không một bóng người. Trên thực tế, sau cuộc chiến tranh Nha Phiến, mối đe dọa đến từ vùng ven biển mới làm thức tỉnh ý thức về biển của người Trung Quốc, hình thành một loạt ý tưởng về chiến lược biển. Chính vì vậy, vào đầu thế kỷ thứ XX, Trung Quốc mới bắt đầu thực hiện các bước tiến ra biển. Mở đầu là sự kiện năm 1909, Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó đã vội vã rút lui. Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm đảo phía Đông Hoàng Sa. Tuy nhiên, với Hiệp định Sơ bộ Hồ Chủ tịch ký với Cộng hòa Pháp ngày 6/3/1946, Việt Nam vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống xâm phạm chủ quyền ở Hoàng Sa. Khi đó, những phản ứng mạnh mẽ của Pháp đối với sự chiếm đóng trái phép của quân đội Tưởng Giới Thạch ở Hoàng Sa và sự suy yếu trước các cuộc tấn công như vũ bão của quân đội Mao Trạch Đông ở trong nước, quân Trung Hoa Dân quốc phải rút khỏi đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, kết thúc khoảng thời gian ngắn chiếm đóng trái phép ở quần đảo này. Đến ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức trao lại cho Chính phủ Bảo Đại việc quản lý và bảo vệ Hoàng Sa. Lợi dụng thời khắc lịch sử rối ren của Việt Nam khi quân viễn chinh pháp rút khỏi lãnh thổ Việt Nam theo Hiệp định Giơnevơ, Trung Quốc đã “lén lút” đưa quân chiếm đóng nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Ngày 21/2/1959, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa nhằm đánh chiếm nhóm đảo còn lại của quần đảo Hoàng Sa nhưng đã bị lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa phát hiện. 82 binh lính Trung Quốc đóng giả ngư dân cùng với 5 tàu đánh cá vũ trang đã bị bắt giữ và áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau đó đã được trao trả cho Trung Quốc.

Năm 1970, vào lúc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam đến giai đoạn đỉnh điểm, lực lượng hải quân của Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã tiến hành một số hoạt động “ít kín đáo” trên nhóm đảo An Vĩnh - bộ phận phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Nhiều công trình hạ tầng quân sự đã được xây dựng vào năm 1971. Từ ngày 17 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc mở cuộc tấn công vào lực lượng hải quân của Việt Nam Cộng Hòa với lực lượng hùng hậu gồm: một hạm đội gồm 8 tàu chiến, lục quân và không quân. Trước sự chuẩn bị kỹ lưỡng, lực lượng đông và mạnh của hải quân Trung Quốc, quân đội của Việt Nam Cộng Hòa đã không bảo vệ được phần còn lại là nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Đầu tháng 3/1988, sau khi chiếm giữ trái phép 5 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa (bao gồm Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi), Trung Quốc đã huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa gồm 9 đến 12 tàu chiến, 2 tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải, tàu đo đạc để hỗ trợ đánh chiếm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Trong đó, Gạc Ma là bãi đá san hô nằm ở phía nam đảo Sinh Tồn và Sinh Tồn Đông mà Hải quân thuộc lực lượng Quân giải phóng nhân dân miền Nam Việt Nam đã tiếp quản vào hạ tuần tháng 4/1975. Tới 14/3/1988, hải quân Trung Quốc với sức mạnh vượt trội đã chiếm được đá Gạc Ma, nhưng Việt Nam vẫn bảo vệ được Cô Lin và Len Đao. Năm 1995, Trung Quốc chiếm bãi Vành Khăn, lúc đó do Philippines quản lý. Như vậy, việc Trung Quốc dùng vũ lực để xác lập chủ quyền là hoàn toàn bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế. Cụ thể, điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc, “nghiêm cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác”. Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc phải tuân thủ. Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, trong đó quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe doạ hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác, hay (coi đe doạ hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia… Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng bằng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe doạ hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này. Rõ ràng, Trung Quốc đã “biến không thành có” từ đầu thế kỷ XX, bằng thủ đoạn lợi dụng những thời điểm lịch sử để tổ chức đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số thực thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa vào những năm 1956, 1974, 1988, 1995 và chiếm đóng trái phép đến ngày nay.

Không dừng lại ở đó, Trung Quốc còn thực hiện hàng loạt hoạt động sai trái khác và tổ chức các bước đi tiếp theo nhằm thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông, biến “vùng biển không tranh chấp thành vùng biển tranh chấp”, tìm mọi cách hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” bao lấy trên 80% diện tích Biển Đông. Thứ hai, Trung Quốc tổ chức lấn biển tạo đảo, biến các đá, các bãi lúc chìm lúc nổi thành những đảo lớn, xây dựng thành các “tàu sân bay bất khả chìm”, thành những căn cứ quân sự tấn công lợi hại. Việc Trung Quốc tiếp tục có những bước đi, những toan tính nguy hiểm để hiện thực hóa tham vọng của mình đã đi ngược lại những gì Trung Quốc đã cam kết. Cụ thể, Trung Quốc đã và đang đẩy mạnh hoạt động xây dựng, biến các bãi, đá thành các đảo nhân tạo quy mô lớn và tiến hành xây dựng những căn cứ quân sự tấn công trên các đảo nhân tạo này.

Đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số bãi, đá ở quần đảo Trường Sa chỉ là bước đi đầu tiên trong chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông. Giành lấy sự kiểm soát ở các quần đảo chỉ là bước đệm để Trung Quốc vươn ra xâm chiếm các vùng biển ở Biển Đông bằng sức mạnh quân sự. Chính vì vậy, sau khi đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số bãi, đá ở Trường Sa, Trung Quốc đã ra sức củng cố những thực thể này không chỉ với ý nghĩa “cải thiện” điều kiện sinh hoạt cho quân đội Trung Quốc đang đóng ở đây, mà sâu xa hơn cả là muốn biến những điểm này thành những pháo đài quân sự, thậm chí có người còn ví đó là những “tàu sân bay” cố định để có thể tiến xa hơn nữa xuống phía Nam Biển Đông.

Bài viết của Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, đăng trên tờ “Thời báo Công nghệ Thông tin” của Hàn Quốc.

Hùng Sơn (gt)