Lúc này, ông có vẻ là một nhà cải cách theo khuôn mẫu của Đặng Tiểu Bình; một trong những hành động đầu tiên khi lên cầm quyền của Tập Cận Bình là thực hiện lại chuyến “du hành xuống phía Nam” của nhà cải cách vĩ đại này, chuyến đi đã khởi động các cải cách thị trường sau vụ thảm sát năm 1989 tại Quảng trường Thiên An Môn. Lúc khác, ông lại có vẻ như luyến tiếc chủ nghĩa xã hội cách mạng của Mao Trạch Đông. Một vài tháng sau chuyến công du xuống phía Nam, Tập Cận Bình đã có chuyến thăm gây nhiều sự chú ý tới Tây Bách Pha, sở chỉ huy cuối cùng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong suốt thời kỳ Nội chiến Trung Quốc và là một địa điểm thiêng liêng đối với những người ủng hộ theo hướng tả khuynh của Mao.

Các chính sách của Tập Cận Bình cũng mâu thuẫn như hình ảnh của ông. Ông đã phát động những nỗ lực được nhiều người biết tới nhằm khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và ngăn chặn tham nhũng. Nhưng ông đã kết hợp chúng với cam kết duy trì nhà nước là “cốt lõi” của nền kinh tế và một cuộc đàn áp rộng rãi những người bất đồng chính kiến. Vậy phải chăng Tập Cận Bình có định mở ra một kỷ nguyên cải cách mới mà sẽ đưa Trung Quốc hoàn toàn bước vào thế giới hiện đại, hay ông có ý định tăng gấp đôi sự cai trị độc tài theo hướng nhà nước chủ nghĩa và hồi sinh chủ nghĩa Mác có tư tưởng dân túy của Mao Trạch Đông?

Nói tóm lại, tất cả những điều kể trên. Những cải cách kinh tế của Tập Cận Bình và những xu hướng chính trị kiểu Mao của ông đều là những chiến thuật trong một chiến lược nhằm duy trì hệ thống một đảng thông qua cải cách nó. Các phương pháp của ông minh chứng cho việc ông thừa nhận những vấn đề lớn nhất hiện nay của Trung Quốc: nạn tham nhũng tràn lan, hệ thống chính trị xơ cứng, và một mô hình kinh tế đang nhanh chóng mất đà. Để giải quyết những vấn đề này mà không phá vỡ hệ thống đã đưa ông lên nắm quyền, Tập Cận Bình hứa hẹn điều hòa các công ty thuộc sở hữu nhà nước theo kiểu Mao Trạch Đông, và sự thống trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc với một thị trường mở và năng động. Ông sẽ làm vậy bằng cách thực hiện điều mà ông gọi là “hai bàn tay”, nhà nước và thị trường, làm việc cùng nhau và truyền cảm hứng cho đảng tin vào chính mình và vào sứ mệnh của mình là phục vụ nhân dân Trung Quốc.

Bàn tay của Tập Cận Bình

Trong suốt thập kỷ qua, Tập Cận Bình đã tham gia một cuộc tranh luận gay gắt về vai trò của nhà nước và thị trường ở chính cấp cao nhất của đảng. Một bên là những người lập luận rằng tinh thần cải cách được thiết lập dưới thời Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân, Tổng bí thư của đảng từ năm 1989 đến năm 2002, đã bị mất đi do sự bế tắc chính trị và các nhóm lợi ích bất di bất dịch đầy quyền lực đã phản đối cải cách hơn nữa. Bên còn lại là những người lập luận rằng việc liều lĩnh theo đuổi thị trường hóa đã chứng kiến đảng mất đi ý thức về mục đích của mình và tạo ra các mức độ bất bình đẳng và tham nhũng không thể chấp nhận được.

Tập Cận Bình đã tìm ra cách thỏa hiệp. Ông lập luận rằng nhà nước và thị trường không nhất thiết cứ phải cạnh tranh với nhau. Ông nói “bàn tay vô hình” của thị trường và “bàn tay hữu hình” của nhà nước có thể củng cố lẫn nhau. Như ông đã giải thích trong chuyên mục thường xuyên của mình trên tờ Chiết Giang Nhật báo, bàn tay của thị trường cần phải “điều chỉnh” nền kinh tế, đẩy mạnh tính hiệu quả, và dẫn dắt sự phát triển đô thị, trong khi đó nhà nước cần phải tập trung vào quản lý xã hội, các dịch vụ công, sự công bằng và phát triển nông thôn. Lý thuyết này cho phép ông tự đặt mình vào vị trí vừa là người ủng hộ mạnh mẽ khu vực nhà nước, vừa là học trò của Adam Smith: Tập Cận Bình nói với đài truyền hình trung ương của Trung Quốc CCTV vào năm 2006 rằng “Khái niệm về thị trường hóa này được giải thích rất rõ ràng trong cuốn ‘Sự thịnh vượng của các quốc gia’ của Adam Smith, nơi ông đưa ra lý thuyết về hai bàn tay”. 

Tập Cận Bình đưa mô hình của mình vào hoạt động ở Chiết Giang, nơi ông là bí thư từ năm 2002 đến năm 2007. Tại tỉnh đó, ông nhắm tới việc hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, bao gồm thông qua việc giảm mạnh thói quan liêu hành chính (danh sách các hạng mục đòi hỏi chính phủ phê duyệt đã giảm từ 3.000 xuống chỉ còn 800). Đồng thời, ông đã ra sức trấn an công chúng và các quan chức rằng nhà nước vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng. Ông bảo vệ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước (SOE) vốn bị những người có tư tưởng tự do kinh tế xem như những kẻ có tội lớn nhất trong mô hình nhà nước đầu tư quá mức không bền vững của Trung Quốc. Ông giải thích rằng việc chính phủ hỗ trợ hơn nữa cho các công ty tư nhân có thể cải thiện khu vực nhà nước bằng cách khiến nó phải cạnh tranh. Khi đó các SOE cũng có thể hưởng lợi từ đầu tư tư nhân hơn nữa, và chính phủ sẽ có được thu nhập từ thuế nhiều hơn.

Kinh nghiệm của Tập Cận Bình ở Chiết Giang dường như đã chứng minh mô hình của ông là đúng. Tập Cận Bình lấy làm tự hào rằng từ năm 1978 đến năm 2004, 71,4% tăng trưởng GDP của Chiết Giang là từ các doanh nghiệp tư nhân, ngay cả khi tổng quy mô tài sản thuộc sở hữu nhà nước của nó đã tăng lên 42 lần.

Mô hình của Tập Cận Bình cũng đã tỏ ra hữu hiệu cho ông Tập. Trong khi nắm giữ vai trò bí thư tỉnh ủy ở Chiết Giang, Tập Cận Bình đã đúc kết công trình kinh tế của mình vào hai cuốn sách, được xuất bản vào tháng 12/2006 và tháng 8/2007: Làm thật, Đi đầu và Những tư duy mới từ sông Dương Tử. Cả hai đều được “chế tác” nhằm giúp Tập Cận Bình giành chiến thắng tại một trong những cuộc bầu cử bí ẩn nhất thế giới – được “ban lãnh đạo tập thể” của Trung Quốc chọn làm người đứng đầu chính phủ trong những năm chuẩn bị diễn ra sự chuyển giao quyền lực vào năm 2012 – điều chưa từng có. Hai người tiền nhiệm của ông, Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân, đều do chính tay Đặng Tiểu Bình lựa chọn. Trước khi nghỉ hưu và cuối cùng mất vào năm 1997, Đặng Tiểu Bình đã thiết lập một hệ thống – không rõ ràng và gần như là khó hiểu với người ngoài đảng – cho phép giới tinh hoa của đảng chấp nhận một nhà lãnh đạo cao nhất mà không có sự chỉ đạo của thế hệ cách mạng ban đầu. Hệ thống đó có nghĩa là Tập Cận Bình phải lôi kéo được một bộ phận cử tri rộng lớn gồm giới tinh hoa trong đảng sẽ được lựa chọn. Trong một chừng mức nào đó, các mối quan hệ gia đình, những người bảo trợ chính trị, các thỏa thuận, liên minh, và những người ủng hộ ông đã giúp làm công việc đó. Nhưng Tập Cận Bình cũng phải chứng tỏ rằng ông có thể đáng tin cậy với một mục tiêu mà tất cả mọi người đều nhất trí: giữ cho đảng tiếp tục cầm quyền. Và ở khía cạnh đó, lý thuyết của ông đã tỏ ra thuyết phục.

Sau khi giành được quyền lực quốc gia, Tập Cận Bình được ủy thác để thực hiện chiến lược “hai bàn tay” trên quy mô lớn hơn. Là chủ tịch nước Trung Quốc, ông đã tìm cách hỗ trợ thị trường bằng cách bãi bỏ những phê duyệt của chính phủ đối với nhiều loại hình hoạt động kinh tế và kinh doanh; cải cách khu vực tài chính, kể cả chấp nhận hoạt động ngân hàng tư nhân; khiến cho việc thành lập các công ty mới trở nên dễ dàng hơn; và mở cửa nhiều khu vực kinh tế hơn để cạnh tranh. Ông cũng đã nỗ lực áp đặt kỷ luật tài chính lên các SOE bằng cách đưa họ vào môi trường cạnh tranh lớn hơn và khuyến khích đầu tư tư nhân vào khu vực nhà nước. Như Tập Cận Bình đã phát biểu tại Đại hội đại biểu Nhân dân Toàn quốc vào tháng 3, ông cho rằng những cải cách này “không những không làm suy yếu, mà còn tăng cường” cho các SOE. Do đó, hai bàn tay đã trở thành biện pháp trung tâm để Chính quyền Tập Cận Bình tóm tắt phương pháp tiếp cận nền kinh tế của mình. Vào ngày 27/5, Tập Cận Bình chủ trì một “buổi nghiên cứu tập thể” của Bộ Chính trị, chỉ rõ rằng “hai bàn tay” cần phải kết hợp với nhau theo một cách thức “thống nhất, bổ sung và phối hợp với nhau”. Cơ quan ngôn luận của đảng, tờ Nhân dân Nhật báo, đã đề cập tới sự kiện “hai bàn tay” như là “nhiệm vụ cốt lõi của tiến trình cải cách”.

Tập Cận Bình cũng đã đưa các lý thuyết kinh tế của mình vào lĩnh vực xã hội; ông lập luận rằng giống như các thị trường có thể hỗ trợ cho một nền kinh tế theo chủ nghĩa nhà nước, thì xã hội dân sự cũng có thể làm việc với một nhà nước hà khắc để hỗ trợ cho trật tự xã hội. Ở nước Trung Quốc của Tập Cận Bình, người dân có thể đóng góp với tư cách là những “lực lượng xã hội tích cực”. Tập Cận Bình đã thúc đẩy việc ban hành các quy định mới khiến cho việc đăng ký các tổ chức phi chính phủ trở nên dễ dàng hơn và để cho các tổ chức phi chính phủ phối hợp với chính quyền địa phương nhằm cung cấp các dịch vụ xã hội. Ông cũng đã kiểm soát hoặc bãi bỏ các hành vi lạm dụng công khai, chẳng hạn như cải tạo thông qua lao động. Nhưng đồng thời, chính phủ của ông cũng tăng cường đàn áp. Ông không thay đổi ý kiến về quyền tự do bày tỏ hoặc tụ tập, và đã ban hành những luật mới chống lại các tội mơ hồ như “lan truyền tin đồn”.

Quay trở lại tương lai của Mao Trạch Đông

Trong những năm tới, Tập Cận Bình sẽ phải đối mặt với điều mà ông và những người tiền nhiệm từng mô tả là mối đe dọa chí mạng tiềm tàng đối với tính hợp pháp của đảng: tham nhũng. Ông sẽ phải tìm ra cách thức để kiểm soát những sự lạm dụng quyền lực diễn ra hàng ngày, điều kích động sự giận dữ và phản kháng của dân chúng – hối lộ, phá dỡ cưỡng bức và sự lãnh đạm có chủ ý đối với sức khỏe và an toàn cộng đồng. Các chiến dịch mà những người tiền nhiệm của Tập Cận Bình phát động đã cố gắng nhưng thất bại trong việc giải quyết những vấn đề này, vì các quan chức địa phương đơn giản là đã từ chối thay đổi thói quen của họ, tin rằng “núi thì cao mà nhà vua thì ở xa”. Tuy nhiên, lần này Tập Cận Bình đã tìm đến Mao Trạch Đông để tìm ra câu trả lời.

Mao Trạch Đông biết cách thu hút sự chú ý của người dân: động viên và khủng bố về ý thức hệ. Ông có khả năng truyền cảm hứng cho hàng triệu người Trung Quốc đấu tranh vì sự thay đổi, ngay cả khi thay đổi đồng nghĩa với những kế hoạch chỉ có ý nghĩa với ông và dẫn đến chết chóc và đau khổ hàng loạt. Giờ đây, đối mặt với hàng triệu quan chức miễn cưỡng chấp nhận cải cách, Tập Cận Bình hy vọng khai thác được kiểu sức mạnh này để làm trong sạch đảng. Tập Cận Bình là một người ủng hộ cho chủ nghĩa tự phê kiểu Maoít từ năm 2004 và đường lối đại chúng ít nhất là từ năm 2006. Từ lâu ông đã là người đề xuất lập trường cứng rắn của đảng đối với tham nhũng.

Kể từ sau khi trở thành chủ tịch nước, Tập Cận Bình đã yêu cầu các quan chức nghiên cứu học thuyết Mao, đặc biệt là “đường lối đại chúng” của Mao Trạch Đông, nói rằng đảng phải vừa là một bộ phận của nhân dân vừa có khả năng lãnh đạo họ. Đến lượt mình, Tập Cận Bình đã đặt ra gia giới hạn cho các buổi tiệc chiêu đãi chính thức, tặng quà, và sử dụng xe công, và khuyến khích các quan chức có tác động qua lại với quần chúng. Ông đã nhiều lần xuất hiện trong các nhà hàng ở Bắc Kinh và trên các phố mua sắm sầm uất, và cũng đã chỉ đạo – và, cùng với các đồng sự của mình trong ban lãnh đạo, dẫn dắt – vô số phiên “tự phê bình”, trong đó lực lượng nòng cốt của đảng công khai đánh giá thành công của chính họ trong việc kết nối với người dân.

Tập Cận Bình trên thực tế đã yêu cầu các quan chức dưới quyền ông từ bỏ nhiều đặc quyền. Ông nói rằng các nguyên tắc chính là sự sống còn của đảng. Một chiến dịch giáo dục dựa trên “Văn kiện số 9″ nổi tiếng đã thúc đẩy cái mà lý luận của đảng gọi là “nhận thức về nguy cơ” về mối đe dọa đối với sự sụp đổ của đảng do sự thoái hóa biến chất bên trong nội bộ và nỗ lực phá hoại của nước ngoài. Đối với nhiều quan chức, điều đó đã đủ: các quan chức địa phương than phiền về sự sụt giảm đáng kể quà tặng chính thức trên cả nước, và kết quả là khu vực hàng hóa xa xỉ cũng đã bị ảnh hưởng nặng nề.

Tuy nhiên, đối với những ai không tin vào dự án của Tập Cận Bình, thì ông phát động cuộc thanh trừng lớn nhất trong nhiều thập kỷ. Vũ khí chọn lựa của ông là Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương, tổ chức chống tham nhũng của đảng, mà Tập Cận Bình đã củng cố rất nhiều dưới sự lãnh đạo của người bạn và đồng minh lâu năm của mình, Vương Kỳ Sơn. Ông Vương chỉ đạo việc tạm giữ hàng trăm quan chức trong đảng, chính phủ, ngành công nghiệp và giới học thuật. Những ai bị điều tra trên thực tế đều biến mất và khó tránh khỏi nỗi kinh hoàng mà một người sống sót gần đây mô tả với hãng thông tấn AP rằng đó là “địa ngục trần gian”.

Mặc dù vậy, việc Tập Cận Bình sử dụng nền chính trị kiểu Maoít có những hạn chế. Không giống như Mao, Tập Cận Bình đã nỗ lực để giữ cho các chiến dịch chính trị và các cuộc trấn áp nằm trong vòng kiểm soát. Mao Trạch Đông đã yêu cầu dân chúng tham gia các cuộc thanh trừng, khởi đầu cho sự hỗn loạn của cuộc Cách mạng Văn hóa. Ngược lại, các chiến dịch chính trị và thanh trừng của Tập Cận Bình được các cơ quan trung ương của đảng tổ chức và do ông và các uỷ viên Bộ Chính trị dẫn dắt. Họ có ý định tăng cường các thể chế của đảng thay vì xóa bỏ chúng – vừa làm cho quyền lực của “bàn tay hữu hình” đủ trung thực để được chấp nhận, vừa đưa các quan chức cấp thấp hơn tham gia thực hiện những thay đổi kinh tế mà Tập Cận Bình kêu gọi.

Tầm nhìn hạn hẹp?

Ngay cả khi Tập Cận Bình giải quyết nạn tham nhũng, thì ông cũng vẫn phải tìm ra các cách thức để chấm dứt tình trạng bế tắc chính trị. Trong nhiều năm qua, chế độ kiểm soát và cân bằng do Đặng Tiểu Bình đưa ra nhằm ngăn không cho nền chuyên chính kiểu Maoít xuất hiện trở lại cuối cùng đã đi đến việc đưa ra quy tắc thiếu quyết đoán của ban thường vụ. Đồng thời, những người hưởng lợi từ các cải cách trước đây đã đứng lên chống lại sự thay đổi hơn nữa. Để bắt đầu điều chỉnh nền chính trị, Tập Cận Bình đã xem xét lại toàn bộ cơ cấu ra quyết định của đảng, trao quyền cho đảng để khai thông thế bế tắc này. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ông cũng đã tự trao cho mình nhiều quyền hạn để dẫn đầu trên mặt trận này.

Trong hơn một thập kỷ, Tập Cận Bình đã lập luận rằng Trung Quốc cần một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, biết nhìn xa trông rộng. Tại Chiết Giang vào năm 2003, ông đã viết rất đầy đủ chi tiết về vai trò của “nhân vật số một” trong một chế độ lãnh đạo tập thể. Ông nói rằng Tổng bí thư phải là “hiện thân của Ban chấp hành Trung ương Đảng và chính phủ” và vai trò của ông sẽ là tiếp nhận những tiếng nói khác nhau trong ban lãnh đạo và “biến chúng thành một bài hát”. Đến lượt mình, các nhà lãnh đạo khác phải luôn “chú ý tới việc duy trì thẩm quyền của Tổng bí thư”.

Tìm cách trỗi dậy trong một hệ thống nghi ngờ sâu sắc về quyền lực tập trung, Tập Cận Bình phải cẩn trọng khi thảo luận những ý tưởng này. Ông tránh nói trực tiếp về quyền lãnh đạo quốc gia, sử dụng các bài luận về chính phủ cấp tỉnh để giải thích cho các kế hoạch của ông. Ông cũng đã bỏ nhiều công sức nhấn mạnh cam kết của mình đối với nguyên tắc cơ bản của quyền lãnh đạo tập thể. Ông viết rằng nhân vật số một “không nên lớn hơn một ngón tay, cùng lắm là bằng ngón tay cái” trong bàn tay mang tên ban lãnh đạo.

Ngay dù vậy, kể từ khi nắm quyền, Tập Cận Bình đã tập trung quyền lực dưới tay các nhà lãnh đạo cao nhất của đảng, đặc biệt là vào chính mình. Đáng chú ý nhất là ông đã thành lập một loạt các ban lãnh đạo nhỏ và các ủy ban chịu trách nhiệm về cải cách kinh tế, an ninh quốc gia, an ninh mạng, và cải tổ quân sự, chúng không phụ thuộc vào chính phủ và do Tập Cận Bình đứng đầu. Các nhóm này đặt ông vào vị trí trung tâm của phần lớn quá trình hoạch định chính sách và đem lại cho ông một phương tiện để ra quyết định mà các nhóm lợi ích bất di bất dịch trong bộ máy hành chính quan liêu của Trung Quốc không thể gây cản trở.

Tập Cận Bình cũng đã triển khai một vũ khí mà, kể từ khi kết thúc Cách mạng Văn hóa và xóa bỏ sự sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông, đã khiến cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải băn khoăn: tầm nhìn. Chỉ vài ngày sau khi nắm quyền, ông đưa Ban Thường vụ mới tới cuộc triển lãm “Con đường phục hưng” tại Bảo tàng quốc gia Trung Quốc. Đứng trong phòng triển lãm, ông hỏi “Giấc mộng Trung Hoa là gì?” và sau đó đã đưa ra câu trả lời: “Tôi tin rằng việc thực hiện công cuộc vĩ đại khôi phục đất nước Trung Quốc là giấc mộng lớn nhất của đất nước hiện nay.” Ngoài ra, không giống những người tiền nhiệm mà các bài phát biểu của họ chứa đầy những thuật ngữ chỉ người trong đảng mới hiểu được, Tập Cận Bình đã dùng sắc thái bề ngoài của mình để nói với người dân, khai thác chủ nghĩa dân tộc được lòng dân và trình bày những cải cách của mình như là chìa khóa cho sự trỗi dậy của Trung Quốc. Lời lẽ của ông ngầm mô tả các đối thủ của mình là không yêu nước.

Giới tinh hoa, những người lựa chọn Tập Cận Bình, có vẻ tán thành các ý tưởng của ông về vai trò lãnh đạo mạnh mẽ. Chắc chắn là ông đã được trao cho các công cụ sắc bén hơn để thúc đẩy chương trình của mình so với những người tiền nhiệm. Ông thừa kế một Ban Thường vụ Bộ Chính trị được sắp xếp hợp lý hóa – tầng lớp ra quyết định cao nhất của đảng – đã được giảm xuống còn bảy thành viên ngay trước khi ông nắm quyền. Cũng gần như ngay lập tức, ông được chuyển giao cho các vị trí đứng đầu trong đảng, quân đội, chính phủ, vị trí mà những người tiền nhiệm của ông đã phải chờ đợi nhiều năm mới có được. Tuy nhiên, cán cân quyền lực thực sự bên trong các thể chế bí mật này là không rõ ràng với bên ngoài. Điều chắc chắn là để sử dụng hai bàn tay cân bằng lại nền kinh tế, Tập Cận Bình đã tích lũy quyền lực rất lớn. Can thiệp vào cán cân quyền lực trong các chế độ độc đoán luôn nguy hiểm, vì vậy ông phải tìm ra cách để làm điều đó mà không khiến cho những đảng viên lão thành và các đồng sự xa lánh ông.

Dựng lên và san bằng

Tập Cận Bình tin rằng cuộc tranh luận lớn về chế độ chính trị của Trung Quốc đã kết thúc. Như ông nói với cử toạ châu Âu hồi tháng Ba, Trung Quốc đã “thử nghiệm chế độ quân chủ lập hiến, khôi phục đế chế, chế độ đại nghị, chế độ đa đảng và chế độ chính phủ do tổng thống điều hành, nhưng không có cái nào thực sự hiệu quả. Cuối cùng, Trung Quốc đi trên con đường chủ nghĩa xã hội”. Mặc dù có một số va vấp trên đường đi, “Tính độc nhất vô nhị của truyền thống văn hóa, lịch sử và hoàn cảnh của Trung Quốc xác định rõ Trung Quốc cần phải theo một con đường phát triển phù hợp với thực tế của riêng mình. Trên thực tế, chúng tôi đã tìm thấy một con đường như vậy và đã đạt được thành công trên con đường này”.

Tập Cận Bình đã thuyết phục Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng ông biết các bước đi tiếp theo. Ông đã được trao quyền rộng rãi để thực hiện hoạt động kinh tế “hai bàn tay” và hoạt động chính trị tân Maoít, được thống nhất bởi sự lãnh đạo mạnh mẽ và chủ nghĩa dân tộc có sức thuyết phục mạnh mẽ. Để kéo dài sự cai trị của đảng, chính phủ của ông đã hứa hẹn sẽ điều chỉnh nó. Điều này đồng nghĩa với việc đem đến những cải thiện thực sự cho cuộc sống của người dân thông qua cải cách nền kinh tế và ngăn không cho các quan chức nhỏ bòn rút nó. Nhưng một khu vực nhà nước hùng mạnh và một bộ máy đàn áp mạnh mẽ cũng là trọng tâm trong tầm nhìn của ông.

Cách tiếp cận “tất cả các thứ kể trên” của Tập Cận Bình được gắn kết với nhau bằng một ý tưởng đơn giản: giữ đảng ở vị trí cầm quyền. Nhưng để làm được điều đó, ông đang áp đặt những cải cách đau đớn, buộc các ngành công nghiệp nhà nước phải cạnh tranh, tấn công nhiều đặc quyền của đảng viên, và thay đổi cán cân quyền lực ở cấp cao nhất. Nếu dự án này đánh mất niềm tin của giới tinh hoa Trung Quốc, nó có thể làm đảo lộn sự cân bằng quyền lực vốn gắn kết hệ thống lại với nhau và gây ra một cuộc khủng hoảng. Trong lịch sử của Liên Xô, hai nhà lãnh đạo đã tìm cách thực hiện những cải cách rộng lớn như vậy nhằm hồi sinh một hệ thống trì trệ. Người thứ nhất, Nikita Khruschev, đã tạo ra một làn sóng các cuộc nổi dậy khắp Đông Âu và gần như khởi động một cuộc chiến tranh hạt nhân. Người thứ hai, Mikhail Gorbachev, dẫn đến sự tan rã của đảng-nhà nước Xô Viết. Cải tổ một chế độ độc tài là canh bạc đầy rủi ro. Dự án này được coi là nhằm bảo đảm cho sự sống còn của hệ thống chính trị Trung Quốc trong thế kỷ 21 – nhưng nếu thất bại, nó có thể khiến hệ thống này sụp đổ./.

Theo Tạp chí “Foreign Affairs

Vũ Hiền (gt)