Năm 1964, Albert Ravenholt viết cho tờ Tin tức hàng ngày Chicago rằng "Tàu ngầm của Trung Quốc có thể là một mối đe dọa lớn đối với tàu của Mỹ", khi ông đề cập đến mối đe dọa dưới biển của Mao đối với các lực lượng hải quân Mỹ trên Biển Đông, ngoài khơi bờ biển của Việt Nam. Các tàu ngầm do Nga cung cấp đóng trên đảo Hải Nam và trên Vịnh Bắc Bộ. Vào thời điểm đó, Trung Quốc ước tính có khoảng từ 30 đến 40 tàu đang hoạt động, là hạm đội lớn thứ tư sau Liên Xô, Mỹ và Anh.

Gần 48 năm trôi qua, đã có nhiều thay đổi và sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi trên cùng một quỹ đạo. Khi Ravenholt, phóng viên tại Thượng Hải vào những năm 1940 trong chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai, qua đời ở tuổi 90 hồi năm 2010, Trung Quốc vẫn theo chế độ cộng sản, mặc dù sắc thái ý thức hệ được cho là đã biến thành dân tộc chủ nghĩa sau ba thập kỷ gia tăng thịnh vượng.

Trung Quốc đã hiện đại hóa quân sự của mình song song với tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc cam kết chi tiêu quân sự lớn, nỗ lực để bắt kịp với sức mạnh công nghệ của phương Tây bằng cách chế tạo vũ khí tiên tiến được dẫn đường chính xác, vũ khí chống vệ tinh và khả năng chiến tranh mạng. Năm ngoái, Trung Quốc trình làng máy bay chiến đấu J-20, dự kiến sẽ đi vào hoạt động trong giai đoạn 2017-2019. Trung Quốc cũng thiết lập một hệ thống tên lửa chống hạm trên đất liền để hạn chế khả năng đi lại tự do của các quốc gia khác trong vùng biển khu vực, bao gồm cả các vùng biển xung quanh các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp, mà Trung Quốc ước tính có thể có trữ lượng lớn thứ tư thế giới về dầu và khí tự nhiên.

Ngoài việc tăng cường số lượng tàu ngầm diesel lên hơn 50 chiếc, Trung Quốc đã có bốn hoặc năm tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn, có trang bị tên lửa đạn đạo. Và, trong năm 2007, Trung Quốc đã hoàn thành xây dựng 1 căn cứ ngầm hiện đại trên đảo Hải Nam, cho phép các tàu của họ dễ dàng ra vào eo biển Malắcca, Biển Đông và Ấn Độ Dương, tuyến đường vận chuyển quan trọng cho phần lớn thương mại của thế giới và cung cấp dầu cho Trung Quốc từ Vịnh Pécxích. Mục tiêu lâu dài của Bắc Kinh là nhằm thiết lập một lực lượng hải quân biển khơi đầy đủ, trong vài thập kỷ nữa, cho phép họ có sức mạnh vượt ra ngoài vùng biển khu vực, cả về phía Tây và về phía Đông.

Để gia tăng khả năng triển khai sức mạnh của mình, Trung Quốc đã thành lập một hạm đội nhỏ “ít nhất ba” tàu sân bay. Năm 1998, sau khi Liên Xô tan rã, Trung Quốc mua một tàu sân bay ngừng hoạt động từ Ucraina được chế tạo đặc biệt cho chiến tranh chống tàu ngầm. Tàu Varyag ban đầu được dùng làm khách sạn và casino nổi ngoài khơi Macao , nhưng năm ngoái Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) đã công bố rằng con tàu đã được tân trang lại để "nghiên cứu khoa học, thử nghiệm và huấn luyện". Nói cách khác, rất có thể nó được sử dụng nghiên cứu chế tạo một tàu sân bay trong tương lai. Tàu dự kiến sẽ vận hành vào trong năm nay, mang theo 30 máy bay chiến đấu J-15, máy bay trực thăng và một thủy thủ đoàn 2.000 người.

Sau khi phát triển với tốc độ trung bình hàng năm hơn 10% kể từ những năm 1990, chi tiêu quân sự của Trung Quốc hiện đã sẵn sàng để vượt xa châu Âu lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ.

Theo đánh giá về cân bằng sức mạnh quân sự toàn cầu của Viện Quốc tế Nghiên cứu Chiến lược (IISS), có trụ sở tại Luân Đôn được công bố gần đây, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã tăng lên một cách mạnh mẽ, nếu không muốn nói là đáng báo động, kể từ khi diễn ra các cuộc khủng hoảng tài chính 2008, trong khi ngân sách của Mỹ và châu Âu đi xuống. Viện này cho rằng chi tiêu của Trung Quốc vượt qua mức tổng cộng của các nước châu Âu lớn nhất trong NATO vào năm 2015, khiến nhiều người kêu gọi liên minh này phải hành động với sáng kiến "phòng thủ thông minh" của mình. Sáng kiến "phòng thủ thông minh" do Tổng thư ký Anders Fogh Rasmussen đề xuất, có nghĩa là các thành viên trong NATO sẽ tổng hợp và chia sẻ khả năng cho nhau để hiệp lực trong bối cảnh hạn chế về mặt tài chính.

Chi phí quân sự của Bắc Kinh đến nay là lớn nhất trong khu vực nếu không tính Ôxtrâylia và Niu Dilân. Đại hội đại biểu Nhân dân Toàn quốc, cơ quan phê duyệt đề xuất ngân sách, gần đây công bố rằng chi tiêu quốc phòng chính thức của quốc gia – hiện chỉ đứng thứ hai sau Mỹ về con số tuyệt đối, mặc dù vẫn còn cách xa về bình quân đầu người - sẽ tăng 11,2% trong năm nay, lên 670 tỷ nhân dân tệ (khoảng 106 tỷ USD). Cho dù nhỏ hơn so với mức 12,7% được phân bổ trong năm 2011, song nó có thể không hẳn là chi tiêu thực tế. Một số nhà phân tích cho rằng nó có thể nhiều gấp đôi bởi số liệu chính thức không bao gồm chi tiêu cho vũ khí hạt nhân và chương trình không gian.

Trung Quốc, một cách có thể hiểu được, rất lo lắng về việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Ký ức về cuộc xâm lược của châu Âu thế kỷ XIX và Nhật Bản ở thế kỷ XX đã nâng cao ý thức về sự dễ bị tổn thương trước các liên minh quân sự hiện đại, hình thành bởi các nước và vùng lãnh thổ láng giềng, chẳng hạn như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và Mỹ. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận quy mô lớn nhằm cải thiện khả năng phòng thủ ven biển, huy động nhanh và khả năng linh hoạt trong chỉ huy và kiểm soát. Các cuộc tập trận này rõ ràng nhằm vào sự hiện diện của Mỹ dưới nước, trên mặt biển và trên không.

Nhưng thử nghiệm của Trung Quốc với khả năng triển khai lực lượng tầm xa cho thấy những ý nghĩa về sự thay đổi trên biển. Nó vượt khỏi phạm vi nỗ lực để đạt được các khả năng cần thiết nhằm thiết lập một vành đai phòng thủ quanh các lãnh hải của mình.

Nhằm xoa dịu các mối quan ngại quốc tế, quân đội Trung Quốc đã đẩy mạnh chiến dịch ngoại giao quân sự để cải thiện mối quan hệ song phương và đa phương trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và xuống thang trong các tranh chấp lãnh thổ. Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc cũng đã tham gia Sáng kiến an ninh toàn cầu, chẳng hạn như các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc và hợp tác với NATO chống cướp biển ngoài khơi vùng Sừng châu Phi. Tìm hiểu cách để làm việc với nhau chặt chẽ và minh bạch hơn là một chủ đề chính của cuộc thảo luận giữa các nhà lãnh đạo của quân đội Trung Quốc và các đại biểu thuộc tổ chức Các nhân viên quân sự quốc tế (IMS) khi họ gặp nhau tại Bắc Kinh vào tháng Hai. NATO, trong nỗ lực tăng cường đối thoại với quân đội Trung Quốc, đang nỗ lực để phát huy kết quả từ các cuộc gặp cấp cao thường xuyên mà họ thực hiện một cách lặng lẽ với Trung Quốc hai lần mỗi năm, cũng như mở rộng các kênh liên lạc đã thành lập thông qua đại sứ của Bắc Kinh tại Bỉ.

Phản ứng trước việc Trung Quốc tăng cường khả năng hải quân, Lầu Năm Góc, hiện đang đối mặt với việc cắt giảm 485 tỷ USD trong 10 năm tới, đã bắt đầu một cuộc "xoay trục" ưu tiên chiến lược của mình. Đô đốc Sam Locklear, chỉ huy Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (PACOM), sau khi dẫn đầu lực lượng hải quân Mỹ ở châu Âu và điều phối hoạt động của NATO ở Libi, đã được giao nhiệm vụ chuyển đổi PACOM thành lực lượng tiên phong của chiến lược quốc phòng mới của Mỹ. Nhìn ở phạm vi rộng, điều này có nghĩa là củng cố sự hiện diện của Mỹ ở Thái Bình Dương để kiềm chế Trung Quốc. Về mặt ngoại giao, Bộ Ngoại giao Mỹ đã tái khẳng định cam kết an ninh của mình đối với các quốc gia khác nhau trong khu vực và củng cố quan hệ với các đồng minh lâu đời như Nhật Bản, Philíppin và Ôxtrâylia. Mỹ cũng làm sâu sắc thêm quan hệ với các quốc gia ASEAN. Chính PACOM đã đàm phán các thỏa thuận an ninh song phương với Việt Nam , Xinhgapo, Thái Lan, Campuchia và Philíppin. Trong khi một số nhà phân tích chính sách cho rằng một mối quan hệ đối tác NATO-ASEAN trong tương lai là quan trọng đối với sự ổn định trong khu vực, nhiều người khác cảm thấy rằng PACOM đã đủ lớn và không gặp các trở ngại của một bộ máy quan liêu đa quốc gia để thành công trong việc đảm bảo lợi ích chiến lược của Mỹ ở Thái Bình Dương.

Theo quan điểm của Trung Quốc, sự tiếp tục tồn tại của NATO kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, lý do chính để nó tồn tại và mở rộng phạm vi hoạt động ra ngoài Bắc Đại Tây Dương đã cho thấy màu sắc thật sự của nó. Nhận thức chung ở Trung Quốc là NATO chủ yếu là một phương tiện cho sự bá chủ toàn cầu và thống trị quân sự của Mỹ. Bắc Kinh đặc biệt lo ngại về vai trò của NATO trong việc lật đổ chế độ không mong muốn ở Ápganixtan và Libi. Họ xem đây là một tiền lệ nguy hiểm cho khả năng hỗ trợ Đài Loan, nếu hòn đảo "nổi loạn" này tuyên bố độc lập chính trị với Trung Quốc đại lục; hoặc, một ngày nào đó ép buộc chuyển đổi chính trị ở Trung Quốc nếu chế độ hiện nay quyết thách thức quyền tự do tuyệt đối của Mỹ.

Tuy nhiên, Trung Quốc cũng thừa nhận mong muốn bình thường hóa và làm sâu sắc thêm quan hệ với NATO nếu nó đáp ứng mục tiêu "trỗi dậy hòa bình" và hội nhập hài hòa hệ thống toàn cầu như tuyên bố. Trung Quốc vẫn sẵn sàng chấp nhận một cách tiếp cận đa phương và "tôn trọng" với các vấn đề quan tâm chung, đặc biệt là những vấn đề mà từ đó Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể giành được vốn liếng chính trị quốc tế, chẳng hạn như các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như chống cướp biển, khủng bố và phổ biến vũ khí.

Khi sự quyết đoán của PLAN gia tăng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thu hút sự chú ý của Mỹ khỏi vùng Đại Tây Dương, thì chương trình của Bắc Kinh về ảnh hưởng kinh tế và chính trị gián tiếp đối với châu Âu cũng được đẩy mạnh bằng việc gia tăng thương mại và đầu tư.

Sự thiếu rõ ràng về ý định chiến lược của Trung Quốc đã được thảo luận chi tiết trong chuyến thăm của Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến Mỹ hồi tháng Hai. Ông Tập, người có quan hệ gần gũi với quân đội Trung Quốc hơn so với Hồ Cẩm Đào và dự kiến sẽ thay thế ông Hồ làm chủ tịch nước vào cuối năm nay, cam kết sẽ thúc đẩy việc khôi phục và mở rộng đối thoại quân sự Trung-Mỹ. Các cuộc Tham vấn Quốc phòng hàng năm giữa các quan chức cấp cao dân sự, quân sự Trung Quốc và Mỹ, đã bị gián đoạn trong những năm gần đây do việc Mỹ tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Tập Cận Bình nhấn mạnh rằng hiện đại hóa và mở rộng quân sự của Trung Quốc là hoàn toàn có tính chất phòng thủ, tốc độ nhanh chóng của nó chỉ đơn giản là phản ánh sự cần thiết phải có lực lượng ở mức độ tương xứng với sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia, dân số lớn và vị thế quốc tế tăng cao.

Người ta hy vọng rằng một cuộc đối thoại thiện chí sẽ mang lại sự rõ ràng hơn. Trung Quốc có thể chủ yếu nỗ lực để bảo vệ lãnh thổ của mình và bảo vệ tuyến đường biển vận chuyển năng lượng và tài nguyên khác từ Trung Đông và châu Phi. Hoặc Trung Quốc có thái độ cứng rắn hơn với các tuyên bố về kinh tế và lãnh thổ đối với toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc có thể phát triển khả năng của mình để hỗ trợ các nhiệm vụ đa quốc gia nhằm thúc đẩy hòa bình và ổn định trên thế giới và khu vực. Hoặc, như một số nhà quan sát nhận định, có thể muốn làm suy yếu NATO và mang lại một sự cân bằng quyền lực ba bên mới, một trạng thái cân bằng chiến lược có lợi cho việc kiểm soát rủi ro toàn cầu đối với việc mở rộng danh mục đầu tư kinh tế ở châu Phi và các nơi khác.

Trong mọi trường hợp, có một điều đã trở nên rõ ràng hơn – là sự quyết đoán đang gia tăng của Trung Quốc và nhiệm vụ khẳng định mình của PACOM trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang tạo ra sân chơi cho một cuộc Chiến tranh Lạnh mới có thể diễn ra./.

Theo Diplomatic Courier

Tiến Tiệp (gt)