Yale Global, ngày 23 tháng 9 năm 2014

Trung Quốc thúc đẩy Con đường Tơ lụa trong số các sáng kiến về chính sách đối ngoại nhưng lịch sử lại không hề giản đơn như thế.

NEW YORK: Ý niệm lãng mạn về Con đường Tơ lụa lịch sử với các đoàn lữ hành cưỡi lạc đà băng qua các ngọn núi và sa mạc vùng Trung Á đang được giới truyền thông chú ý trở lại. Bên cạnh đó là các cuộc thảo luận về việc tái thiết lập một mạng lưới trên biển mà theo đó, Đô đốc Trịnh Hòa đã chỉ huy hạm đội hải quân của mình băng qua Ấn Độ Dương 7 lần. Giới lãnh đạo Trung Quốc thúc đẩy các tuyến đường buôn bán cổ, gần đây nhất là trong chuyến thăm các nước Nam và Trung Á của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, nhằm nhấn mạnh vai trò lịch sử của Trung Quốc như một sứ giả của hòa bình và thịnh vượng.

Tuy nhiên, có một vấn đề nhỏ trong chiến dịch quảng bá dựa trên lịch sử của Trung Quốc, đó là lịch sử đã bị bóp méo.

Vào Tháng 9 năm 2013, chưa đầy một năm sau khi đảm nhiệm chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, ông Tập Cận Bình đã khởi động một sáng kiến về đối ngoại mới mang tên “Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa”. Trong bài phát biểu tại trường Đại học Nazarbayev (Kazakhstan), kêu gọi hợp tác và phát triển khu vực Á – Âu thông qua sáng kiến Con đường Tơ lụa mới, ông Tập Cận Bình đã đưa ra 5 mục tiêu cụ thể: đẩy mạnh hợp tác kinh tế, cải thiện kết nối giao thông, thúc đẩy đầu tư và thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển đổi tiền tệ và tăng cường giao lưu nhân dân.

Một tháng sau, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc lần thứ 16 diễn ra tại Brunei, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã đề nghị thiết lập “Con đường Tơ lụa trên biển” của thế kỉ 21 để cùng nhau thúc đẩy hợp tác và kết nối trên biển, nghiên cứu khoa học và môi trường biển cũng như các hoạt động đánh bắt hải sản khác. Sau đó một vài ngày, trong bài phát biểu trước Quốc hội Indonesia, ông Tập Cận Bình đã khẳng định lại sáng kiến này và nhấn mạnh rằng Trung Quốc sẽ dốc vốn và lực để “thúc đẩy mạnh mẽ các quan hệ đối tác biển trong một nỗ lực chung nhằm xây dựng Con đường Tơ lụa trên biển của thế kỉ 21,” tuyến đường trải dài từ vùng ven biển Trung Quốc đến Địa Trung Hải.

Trong cả hai bài phát biểu, Chủ tịch Tập Cận Bình đã nhấn mạnh mối liên hệ về lịch sử của Trung Quốc đối với từng khu vực và gợi ý rằng những kiến nghị của mình là nhằm tái thiết lập các mối quan hệ hữu hảo từ xưa trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và hiện đại ngày nay. Tại Kazakhstan, ông Tập Cận Bình khen ngợi Sứ thần Trương Khiên (Zhang Qian) nhà Tây Hán vì đã “gánh vác sứ mệnh của hòa bình và tình hữu nghị”, mở ra cánh cửa đối thoại giữa hai miền Đông – Tây và lập ra Con đường Tơ lụa. Tại Indonesia, ông ngợi ca Đô đốc Trịnh Hòa (Zheng He) vì đã truyền lại cho thế hệ sau “những câu chuyện tuyệt vời về sự giao lưu hữu hảo giữa nhân dân hai nước Trung Quốc và Indonesia.”

Tuy nhiên, điều không được đề cập đến là bối cảnh đầy rẫy xung đột và nỗ lực của Trung Quốc nhằm thúc đẩy một trật tự thế giới “dĩ Hoa vi trung” (sinocentric - chủ nghĩa Đại Hán, coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới - ND). Trong khi cố gắng mô tả lại quá khứ như một kỷ nguyên không tưởng, mục đích của sứ mệnh mà Sứ thần Trương Khiên gánh vác trong chuyến đi tới vùng đất phương Tây đã bị bóp méo hoàn toàn. Đế vương nhà Hán đã phái Trương Khiên đi tìm đồng minh để chống lại các tộc người Hung Nô (Xiongnu) hùng mạnh – kẻ thù số một của triều đại Tây Hán. Chính bởi những chính sách bành trướng của mình mà Vương triều nhà Hán đã biến bộ tộc Hung Nô du mục trở thành một dạng thực thể bán nhà nước chống lại quân nhà Hán. Vào năm 138 Trước Công nguyên, triều đình Trung Hoa đã phái Trương Khiên tới vùng Trung Á để tìm ra vị trí của người Tân Cương (Duy Ngô Nhĩ - Yuezhi), trước đó đã được người Hung Nô vạch đường. Tuy vậy, nhiệm vụ của Trương Khiên đã thất bại. Ông bị người Hung Nô bắt giữ và ép cưới một phụ nữ dân tộc này. Sau 10 năm bị giam giữ, ông trốn thoát và nhận ra rằng người Tân Cương không hề quan tâm đến việc thiết lập một liên minh quân sự. Đóng góp duy nhất của Trương Khiên là những thông tin ông cung cấp được cho triều đình nhà Hán về thể chế xã hội và người dân vùng Trung Á.

Tương tự, việc mô tả Đô đốc Trịnh Hòa như một sứ giả của hòa bình và hữu nghị là có vấn đề. Trên thực tế, bảy chuyến thám hiểm của Đô đốc Trịnh trong khoảng thời gian từ năm 1405 đến 1433 bao gồm việc sử dụng sức mạnh quân sự tại những khu vực mà ngày nay là Indonesia, Malaysia, Sri Lanka và Ấn Độ, dựng nên những nhà cai trị “thân Trung” và kiểm soát các điểm huyết mạch chiến lược tại Ấn Độ Dương. Ông Trịnh cũng can dự vào việc triều chính của Sri Lanka và Indonesia, đem các tù nhân trở về Nam Kinh (thủ phủ của triều đại nhà Minh). Vua Chu Lệ (Yongle) nhà Minh ban đầu phái Đô đốc Trịnh tới các vùng biển phương Tây để tìm kiếm người cháu mà chính mình đã soán ngôi nhằm thúc đẩy các giá trị của nền văn minh Trung Quốc. Trong quá trình thực hiện các chuyến thám hiểm này, Đô đốc Trịnh Hòa đã bắt cóc rất nhiều vua và hoàng tử, khiến họ phải khấu đầu trước đế vương của mình và trao đổi lễ vật. Các chuyến hải trình này sau đó đã bị hủy bỏ bởi chúng quá đắt đỏ và, theo quan điểm của những quan lại trong triều đình Khổng giáo, đem lại quá nhiều quyền lực cho một người vốn là hoạn quan như Đô đốc Trịnh Hòa.

Triều đại nhà Hán cũng sử dụng sách lược tương tự tại vùng Trung Á, đặc biệt là tại các địa điểm chiến lược trên các tuyến đường trao đổi buôn bán. Vì vậy, dù là trên đường bộ hay đường biển, tất cả những tuyến đường được gọi chung là Con đường Tơ lụa, đều không hề mang tính chất hòa bình hay giúp thúc đẩy các trao đổi hữu nghị thông qua sự hiện diện của Trung Quốc như những gì được thuật lại ngày nay. 

Bản thân thuật ngữ “Con đường Tơ lụa” hay các “Tuyến đường Tơ lụa” cũng có vấn đề. Nhà địa lý học người Đức Ferdinand von Richthofen đã đặt ra thuật ngữ này vào năm 1877 để dùng cho tuyến đường buôn bán cổ trên bộ xuyên qua vùng Trung Á. Kể từ đó tới nay, rất nhiều tuyến đường kết nối Trung Quốc với thế giới bên ngoài đã được gọi là các “Con đường Tơ lụa” hay các “Tuyến đường Tơ lụa”, bất chấp sự thật rằng lụa không phải là mặt hàng được buôn bán sớm nhất hay được trao đổi nhiều nhất qua các tuyến đường này. Ngoài ra, thuật ngữ “Con đường Tơ lụa” mà các học giả Trung Quốc sử dụng rất nhiệt tình đã nhấn mạnh một cách không có cơ sở vai trò của Trung Quốc trong các tương tác nội bộ khu vực thời cận đại. Điều này đã khiến cho người ta bỏ qua vai trò của ảnh hưởng bên ngoài đối với xã hội và kinh tế Trung Quốc trong suốt 2000 năm.

Có lẽ, cũng giống như rất nhiều người Trung Quốc khác, quan điểm của Chủ tịch Tập Cận Bình về Con đường Tơ lụa cũng được định hình bởi hệ thống giáo dục nước nhà –  một hệ thống loại trừ các phân tích mang tính chất phản biện cũng như phương pháp giải kiến tạo (deconstruction) phù hợp đối với các nguồn thông tin lịch sử. Cũng có khả năng ông Tập Cận Bình thực sự bị ảnh hưởng bởi thực tế gia đình ông xuất thân từ cố đô Trường An (Xi’an, trong lịch sử còn được gọi là Chang’an) – nơi được ghi nhận trong sử sách Trung Hoa là điểm bắt đầu của Con đường Tơ lụa trên đất liền. Hoặc là Tập Cận Bình không hề biết đến những phản ứng tiêu cực mà việc sử dụng chủ nghĩa tượng trưng văn hóa Trung Quốc trong lĩnh vực chính sách đối ngoại đã gây ra ở ngoại quốc, hoặc ông rất dứt khoát trong việc thúc đẩy các sáng kiến này với nguồn sức mạnh kinh tế mà Trung Quốc đã tích lũy được trong một vài thập kỉ qua.

Tuy nhiên, một số quốc gia đã tỏ ý sẵn sàng chấp nhận những cách giải thích lịch sử bị bóp méo này vì lý do kinh tế.

Ví dụ, chính phủ Sri Lanka năm ngoái đã nhận một bức tượng mạ vàng tạc Đô đốc Trịnh Hòa như một món quà từ Hiệp hội Quản lý Du lịch Quốc tế (International Tour Management Association) của Trung Quốc. Hai nước đã tuyên bố rằng Đô đốc Trịnh Hòa và các chuyến du hành của ông đã thể hiện quan hệ thương mại hòa hữu giữa Trung Quốc và Sri Lanka. Các chi tiết như chính Trịnh Hòa đã dấy lên những thay đổi về chế độ tại khu vực này, bắt cóc một người cai quản địa phương tên là Alaskawera và đày ông này về Nam Kinh như một tù nhân, đều bị bỏ qua. Đô đốc Trịnh cũng chiếm đoạt Xá lợi Răng Phật nổi tiếng tại thành phố Kandy - một biểu tượng về sự độc lập chính trị của Sri Lanka từ lâu đời.

Xung đột quân sự cũng đã xảy ra ở Indonesia – nơi một số tờ báo trong nước lại hoan nghênh đề xuất của Tập Cận Bình, ghi nhận rằng các đề xuất này có thể mang lại “những cơ hội to lớn cho sự phát triển của khu vực.” Chẳng ai quan tâm đến thực tế rằng vào năm 1407, Trịnh Hòa đã thay đổi chế độ trên đảo Sumatra bằng cách bắt cóc một thủ lĩnh địa phương người Trung Quốc tên là Trần Tổ Nghĩa (Chen Zuyi), người bị triều đình nhà Minh coi là cướp biển. Sau khi bị hành hình công khai ở Nam Kinh, vị trí của Trần Tổ Nghĩa được thay thế bởi một người đại diện cho lợi ích của triều đình nhà Minh trong khu vực. Cũng trong năm đó, Trịnh Hòa còn can thiệp vào công việc nội bộ của vương quốc Majapahit trên đảo Java, dường như để làm suy yếu một cường quốc khu vực chính tại Đông Nam Á.

Những cuộc can thiệp quân sự như kiểu này tại các khu vực khác, với cái cớ là thúc đẩy một trật tự thế giới hài hòa dưới sự cai trị của Trung Hoa Thiên tử, mới là mục tiêu của các cuộc thám hiểm của Đô đốc Trịnh Hòa.

Sáng kiến Con đường Tơ lụa của chính phủ Trung Quốc, với nguồn tiền và đầu tư đáng kể, có thể thúc đẩy nền kinh tế của một vài quốc gia tại Châu Âu và Châu Á – các quốc gia sẵn sàng khẳng định mối quan hệ từ xa xưa với vương quốc Trung Hoa cổ đại. Đối với Trung Quốc, sự thành công của sáng kiến này sẽ mở ra các kênh đầu tư mới cho nguồn dự trữ tiền tệ khổng lồ của nước này. Sự thành công của sáng kiến này cũng sẽ đánh dấu một bước tiến lớn trong công cuộc tái thiết trật tự thế giới Trung Quốc thời cổ đại (hay còn được biết đến dưới cái tên là “thiên hạ - Tianxia”) – một trật tự mà trong đó tất cả mọi khu vực được biết đến trên thế giới này đều thuộc về một thiên ủy hoàng đế của Trung Hoa. Trật tự thế giới mới này sẽ không chỉ đơn giản tồn tại trên lý thuyết mà còn đem lại những hàm ý địa chính trị quan trọng.

Tansen Sen là Phó giáo sư tại trường Đại học Baruch, Đại học Tổng hợp Thành phố New York. Ông nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử và các tôn giáo tại Châu Á. Ông đặc biệt quan tâm đến quan hệ tương tác giữa Ấn Độ và Trung Quốc, thương mại tại Ấn Độ Dương, Phật giáo và khảo cổ học về Con đường Tơ lụa. Ông là tác giả cuốn “Đạo Phật, Ngoại giao và Thương mại: Xây dựng lại quan hệ Trung - Ấn, năm 600-1400”[1] (Nhà xuất bản Đại học Hawaii, xuất bản năm 2003) và đồng tác giả (với Victor H. Mair) cuốn “Trung Quốc truyền thống trong lịch sử thế giới và Châu Á”[2] (Hiệp hội Nghiên cứu Châu Á, xuất bản năm 2012).

Tài liệu tham khảo:

·         Nicola Di Cosmo, Trung Quốc cổ đại và kẻ thù của nó: Sự gia tăng của quyền lực du cư trong lịch sử Đông Á. Cambridge: NXB. Đại học Cambridge, 2002.

·         Edward L. Dreyer, Trịnh Hòa: Trung Quốc và các đại dương đầu thời kì nhà Minh, 1405-1433. New York: Longman, 2007.

·         Étienne de la Vaissière, Những thương nhân xứ Sogdia: Một lịch sử. Leiden: Brill, 2005.

·         Louise Levathes, Khi Trung Quốc thống trị biển: Hạm đội Trời cho của Ngai Rồng, 1405-1433. New York: NXB. Đại học Oxford, 1994.

·         Tansen Sen, “Thay đổi Chế độ: Hai hồi can thiệp quân sự của Trung Quốc ở Nam Á thời trung cổ.” Trong cuốn Gặp gỡ châu Á: Tìm hiểu lịch sử kết nối, Upinder Singh và Parul P. Dhar (đồng biên tập). New Delhi: NXB. Đại học Oxford, sắp xuất bản.

·         Geoff Wade, “Bạo lực của triều Minh Trung Quốc chống lại các chính thể láng giềng và các mô tả của nó trong chính sử Trung Quốc.” Trong cuốn Tao ngộ châu Á: Tìm hiểu lịch sử kết nối, Upinder Singh và Parul P. Dhar (đồng biên tập). New Delhi: NXB. Đại học Oxford, sắp xuất bản.

Bài viết được đăng lần đầu tại The Yale Global. Bản quyền thuộc về Trung tâm Nghiên cứu Khu vực và Quốc tế Whitney và Betty MacMillan, đại học Yale, năm 2014.

Người dịch: Hoàng Đỗ

Hiệu đính: Kim Minh

 


[1] Buddhism, Diplomacy, and Trade: The Realignment of Sino-Indian Relations, 600-1400

[2] Traditional China in Asian and World History