Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc là văn kiện trung ương đáng được chờ đợi nhất sau phương án cải cách doanh nghiệp nhà nước, đây cũng có thể là một trong những quy hoạch 5 năm quan trọng nhất. Hai nghiên cứu viên là Chu Chấn Hâm và Trương Đức Lễ của Viện nghiên cứu chứng khoán Dân Sinh (Trung Quốc) đã kết hợp kinh nghiệm của nhiều quy hoạch 5 năm trước và một loạt văn kiện chính sách quan trọng từ Hội nghị trung ương 3 khóa 18 đến nay, đưa ra 10 lĩnh vực then chốt của Quy hoạch 5 năm lần thứ 13: tăng trưởng kinh tế, công nghệ tin học, mở cửa ngành dịch vụ, thị trường thống nhất trên cả nước, phân phối thu nhập (then chốt là xóa đói giảm nghèo), dân số lão hóa, bảo vệ môi trường sinh thái, cơ chế huy động vốn đầu tư theo hình thức công-tư (PPP), cải cách doanh nghiệp nhà nước, kết hợp quân-dân.

Quy hoạch 5 năm có tên gọi đầy đủ “Quy hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội quốc dân”. Vào năm 1953, Trung Quốc bắt đầu hoạch định kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đến nay đã hoạch định 10 kế hoạch 5 năm và 2 quy hoạch 5 năm, trong đó rất nhiều quy hoạch đã tạo nên những bước ngoặt quan trọng của kinh tế Trung Quốc. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã xác định việc xây dựng cơ sở ban đầu cho nền công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, đặt nền tảng vững chắc cho con đường công nghiệp hóa của Trung Quốc, và Quy hoạch 5 năm lần thứ 10 gần đây lần đầu tiên đề xuất thúc đẩy mạnh mẽ tin học hóa, Quy hoạch 5 năm lần thứ 11 đề xuất phải xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, Quy hoạch 5 năm lần thứ 12 mở ra 10 ngành nghề mới mang tính chiến lược.

Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 nhất định sẽ trở thành một trong những quy hoạch 5 năm quan trọng nhất. Hiện nay, Trung Quốc đang ở thời kỳ then chốt nâng cấp chuyển đổi mô hình, chồng chéo giữa 3 thời kỳ (tốc độ tăng trưởng tiến vào thời kỳ thay đổi; điều chỉnh kết cấu đối diện với thời kỳ khó khăn tạm thời; thời kỳ “tiêu hóa” chính sách kích thích trước đây); đồng thời lại là 5 năm cuối cùng để hoàn thành mục tiêu 100 năm đầu tiên, thời điểm đặc thù đã quyết định Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 sẽ chú ý hơn nữa đến ổn định tăng trưởng và điều chỉnh kết cấu: một mặt là để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân đầu người và thu nhập dân cư thành thị nông thôn tăng gấp bốn lần, tốc độ tăng trưởng bình quân GDP trong thời gian thực hiện Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 cần phải đạt mức 6,5%; mặt khác, năng suất dư thừa trong ngành chế tạo truyền thống vẫn rất nghiêm trọng và những ngành kinh tế mới vẫn chưa nổi lên, lợi thế về dân số không còn nữa, động lực xuất khẩu giảm sút, mô hình tăng trưởng truyền thống khó có thể tiếp tục, việc phải nhanh chóng chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế đã trở nên vô cùng cấp bách. 

Công tác biên soạn Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 do Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia Trung Quốc (NDRC) đứng đầu, hiện nay đã tiến vào giai đoạn cuối cùng. Tháng 4/2014, NDRC đã khởi động công tác biên soạn Quy hoạch 5 năm lần thứ 13, công khai mời thầu 25 đề tài trọng điểm trên các lĩnh cực như kinh tế vĩ mô, giáo dục, nông nghiệp, bất động sản, cải cách doanh nghiệp nhà nước… Các đơn vị trúng thầu đề tài vào cuối năm 2014 đã giao nộp thành quả của đề tài cho NDRC, NDRC sẽ căn cứ theo kết quả nghiên cứu đề tài, sau khi hình thành tư duy ban đầu sẽ nộp lên trung ương. Đầu năm 2015, lại do trung ương ủy thác cho các bộ ban ngành, hình thành kiến nghị quy hoạch trong các lĩnh vực liên quan.

Công tác biên soạn Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 cuối cùng sẽ hình thành hai văn kiện: “Kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 phát triển kinh tế xã hội quốc dân” (Kiến nghị quy hoạch) và “Cương yếu Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 phát triển kinh tế xã hội quốc dân” (Cương yếu quy hoạch). Kiến nghị quy hoạch là văn kiện của đảng, do Văn phòng Trung ương đảng, Văn phòng của Tiểu ban lãnh đạo tài chính Trung ương đảng, Tiểu ban lãnh đạo đi sâu cải cách toàn diện Trung ương đảng phụ trách, sau khi được Hội nghị trung ương 5 khóa 18 xét duyệt sẽ công bố với bên ngoài. Cương yếu quy hoạch là văn kiện của Quốc vụ viện (Chính phủ), do Văn phòng chính phủ, Vụ quy hoạch của NDRC... chịu trách nhiệm hoạch định, nửa cuối năm 2015 đã đệ trình lên chính phủ, trong thời gian diễn ra kỳ họp lưỡng hội năm 2016 sau khi thông qua Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc xét duyệt sẽ công bố công khai. Kiến nghị quy hoạch và Cương yếu quy hoạch cùng được hoạch định, trao đổi hai chiều, vì vậy, kiến nghị quy hoạch được công bố vào 10/2015 có thể được coi là phiên bản ban đầu của Quy hoạch 5 năm lần thứ 13.

Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 vẫn chưa được công bố, vậy chúng ta làm thế nào để phân tích? Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 không phải là không có căn cứ, mà là được biên soạn căn cứ theo một loạt khuôn khổ văn kiện liên quan của đảng và nhà nước. Căn cứ thứ nhất là “Quyết định” của Hội nghị trung ương 3 khóa 18, đây là đường lối phát triển tổng thể lâu dài được Trung ương đảng hoạch định. Căn cứ thứ hai là các ý kiến, biện pháp và quy hoạch chỉ đạo của Chính phủ, điều này giống với văn kiện mang tính cương lĩnh mà Chính phủ ban hành để thực hiện Quyết định của Hội nghị trung ương 3 khóa 18, hiệu lực của nó vẫn đang tăng lên. Căn cứ thứ ba là văn kiện và phương án mà các bộ ban ngành công bố, điều này giống với các biện pháp cụ thể mà các đơn vị chức năng hoạch định để thực hiện đường lối của Trung ương đảng và Chính phủ. Từ hiệu quả chính sách cho thấy quyền lực của Trung ương đảng cao hơn Chính phủ, Chính phủ cao hơn các bộ ban ngành, nhưng từ chi tiết chính sách, văn kiện do các bộ ban ngành hoạch định là cụ thể nhất, hơn nữa sát với thực tế nhất, có ý nghĩa hiện thực rất mạnh mẽ. Căn cứ thứ tư là các quy hoạch 5 năm trước đây. Theo kinh nghiệm trước đây, quy hoạch 5 năm chủ yếu liên quan đến các đề tài như tăng trưởng kinh tế, phát triển ngành nghề, phát triển khu vực, phát triển thành thị và nông thôn, văn hóa xã hội, đời sống dân sinh, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, cải cách mở cửa…

Tổng hợp bốn căn cứ nêu trên, chúng ta đưa ra 10 lĩnh vực then chốt trong Quy hoạch 5 năm lần thứ 13: tăng trưởng kinh tế, công nghệ tin học, mở cửa ngành dịch vụ, thị trường thống nhất trên cả nước, phân phối thu nhập (mấu chốt là xóa đói giảm nghèo), dân số lão hóa, bảo vệ môi trường sinh thái, cơ chế huy động vốn đầu tư theo mô hình công-tư (PPP), cải cách doanh nghiệp nhà nước, kết hợp quân-dân. 

I. Mục tiêu tăng trưởng: không còn 7% như trước đây

Nắm được mấu chốt của vấn đề sẽ giải quyết được tất cả, mục tiêu tăng trưởng kinh tế chính là mấu chốt của chính sách vĩ mô. Từ ngắn hạn cho thấy mục tiêu hàng năm mà lưỡng hội mỗi năm hoạch định là sự tham khảo chủ yếu của chính sách vĩ mô, nhưng từ trung hạn và dài hạn cho thấy xu hướng của chính sách vĩ mô có liên quan đến mục tiêu tăng trưởng trong “quy hoạch 5 năm”. 

Vậy thì làm thế nào để xác định mục tiêu tăng trưởng trong 5 năm tiếp theo? Căn cứ theo những quy hoạch 5 năm trước đây, chúng ta về cơ bản có thể tổng kết ra những quy luật sau:

Một là, mục tiêu tăng trưởng thông thường là bội số nguyên của 0,5%, ví dụ mục tiêu của 4 quy hoạch 5 năm gần đây lần lượt là 8%, 7%, 7,5% và 7%. Biên độ biến động cũng lấy 0,5% làm đơn vị chuẩn.

Hai là, tốc độ tăng trưởng thực tế thông thường sẽ vượt xa mục tiêu tăng trưởng, điều này có nghĩa là khi hoạch định mục tiêu tăng trưởng sẽ để lại không gian chính sách tương đối lớn. Nhìn vào 20 năm của 4 kế hoạch 5 năm vừa qua cho thấy mục tiêu tăng trưởng kinh tế chưa bao giờ không thực hiện được.

Ba là, phương hướng biến động của mục tiêu tăng trưởng và phương hướng biến động của tốc độ tăng trưởng thực tế hoàn toàn phù hợp với nhau. Cũng có nghĩa là mục tiêu tăng trưởng thông thường sẽ xem xét một cách đầy đủ tình trạng kinh tế thực tế, cũng có ý nghĩa chỉ đạo mạnh mẽ đối với sự điều tiết kiểm soát vĩ mô sau đó. Sau khi mục tiêu tăng trưởng tăng lên hoặc giảm xuống, tăng trưởng thực tế cũng xuất hiện sự tăng lên hoặc giảm xuống tương ứng.

Bốn là, mục tiêu tăng trưởng trong thời kỳ sức ép kinh tế giảm xuống tương đối lớn cũng sẽ không giảm xuống nhiều, tốc độ tăng trưởng sẽ áp sát mục tiêu tăng trưởng. Ví dụ, tăng trưởng thực tế của Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 là 11,2%, vượt mục tiêu 3,7%. Tăng trưởng kinh tế trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 giảm 4,2%, nhưng mục tiêu chỉ điều chỉnh giảm từ 7,5% xuống 7%.

Triển vọng thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ 13, để hoàn thành mục tiêu GDP năm 2020 tăng gấp đôi so với năm 2010, nếu tăng trưởng trong năm 2015 là 7%, thì trong thời gian Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 chỉ cần tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 6,6% (nhưng cách nói của Chủ tịch Tập Cận Bình trong chuyến thăm gần đây là 7%), vì vậy, từ góc độ chủ quan, trung ương không cần phải xác định mục tiêu cao. Nhưng từ góc độ khách quan, do các yếu tố tăng trưởng như nguồn vốn, lao động, đất đai và năng lực sản xuất… đều có xu thế giảm xuống, nên việc Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 muốn tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng 7% sẽ có mức độ khó khăn tương đối lớn. Cho nên nếu trung ương vẫn dựa vào quy luật truyền thống để đưa ra quyết sách, thì Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 chắc chắn sẽ phải xác định mục tiêu tăng trưởng là 6,5%.

Nhưng từ Đại hội 18 đến nay, việc dựa vào kinh nghiệm trước kia để tiến hành dự đoán trở nên ngày càng nguy hiểm, tương tự, mục tiêu của Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 cũng có thể sẽ phá vỡ quy luật trước kia: có lẽ 6,5% là lựa chọn hợp lý hơn, nhưng 7% có thể mới là kết quả hợp tình hơn, vì vậy mục tiêu cuối cùng rất có thể được xác định là 7%. Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế được trung ương công nhận phải trong khoảng 7%, nếu dựa theo quy luật truyền thống, xác định ở mức 6,5% có thể để lại không gian chính sách tương đối lớn, nhưng vai trò “then chốt” của chính sách lại không rõ rệt, khiến cho mục tiêu tăng trưởng chỉ là hình thức không thiết thực ; nếu xác định ở mức 7%, vai trò “then chốt” sẽ rõ rệt hơn. Hai là, lấy 7% làm mục tiêu không có nghĩa là tốc độ tăng trưởng thực tế sẽ cao hơn 7%, cũng không có nghĩa là Trung ương không thể chấp nhận tốc độ tăng trưởng thấp hơn mức 7%. Ba là, việc mục tiêu được điều chỉnh từ 6,5% ban đầu lên 7% lạc quan hơn có nghĩa là trong các hành động thực tế chính sách vĩ mô sẽ tích cực hơn, sự tích cực này chủ yếu được thể hiện trong chính sách tài chính, trong tương lai việc chính phủ thay thế các đơn vị tư nhân làm đòn bẩy vẫn là xu thế lớn, để ổn định kinh tế, phòng ngừa rủi ro, và điều này cũng cần phải có sự ủng hộ của một môi trường thanh khoản mang tính linh hoạt rộng rãi, chính sách tiền tệ cũng sẽ không được phép thất bại. 

II. Kinh tế tin học

Nội hàm của kinh tế tin học không giới hạn ở “Internet”. Ngành tin học của Trung Quốc đã có quy mô bước đầu, quy mô tiêu dùng của ngành tin học Trung Quốc năm 2014 là 28.000 tỷ nhân dân tệ (NDT), đóng góp 0,8% GDP. Với sự kích thích của sự đa dạng hóa sử dụng tin học của người dân và chỉ dẫn của chính sách, kinh tế tin học đã phát triển nhanh chóng, quy mô sử dụng tin học trong năm 2014 tăng 18% so với năm trước, và căn cứ dự đoán của Bộ Công nghiệp và Tin học Trung Quốc, năm 2015 sẽ tăng trưởng 15% đạt 32.000 tỷ NDT, trở thành điểm sáng mới về tăng trưởng. Dự tính trong thời kỳ Quy hoạch 5 năm lần thứ 13, kinh tế tin học vẫn sẽ một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuỗi liên kết ngành nghề sẽ đưa tới cơ hội đầu tư cho thị trường.

Phương hướng quan tâm của thị trường

a. Tích hợp tin học với các ngành nghề. Sự tích hợp tin học sớm nhất được ứng dụng vào lĩnh vực quân sự, cùng với sự phát triển của kỹ thuật tin học, sự ứng dụng của lĩnh vực dân dụng cũng ngày càng phổ biến như tích hợp với công nghệ sinh học, tích hợp với ngành chế tạo, tích hợp với ngành dịch vụ…

b. Dữ liệu lớn. Về bản chất, dữ liệu lớn là dữ liệu cá thể được tập hợp thông qua quá trình theo dõi trong thời gian dài, sau khi tiến hành phân tích đối với dữ liệu sẽ cung cấp dịch vụ trí năng và cá tính hóa. Trong tương lai, dữ liệu lớn có không gian tăng trưởng tương đối lớn, chủ yếu được bắt nguồn từ 3 nhân tố sau: một là, phạm vi ứng dụng lớn, kỹ thuật về dữ liệu lớn có thể được ứng dụng vào các lĩnh vực như giáo dục, y tế, giao thông, tài chính, công tác điều tra của công an, thu hút đầu tư…; hai là, hiện nay ngành dữ liệu lớn có mức độ phát triển tương đối thấp, các số liệu như tài chính, thông tin, giao thông… chủ yếu nằm trong tay chính phủ, khiến cho mức độ tích hợp dự liệu với hình ảnh thấp, vẫn còn có thể khai thác thêm về giá trị kinh tế; ba là chỉ đạo tăng cường chính sách, ngày 5/9/2015 Quốc vụ viện ban hành “Cương yếu hành động về thúc đẩy phát triển dữ liệu lớn”, thúc đẩy các cơ quan của chính phủ chia sẻ dữ liệu, cùng mở cửa tài nguyên dữ liệu, tranh thủ đến năm 2018 xây dựng được kho dữ liệu quốc gia thống nhất mở cửa, nhanh chóng xây dựng cường quốc về dữ liệu. 

c. An ninh tin học. An ninh tin học là cơ sở để phát triển kinh tế tin học, không có an ninh tin học thì kinh tế tin học không được bảo đảm. Từ góc độ cá nhân cho thấy, ý thức an ninh đảm bảo riêng tư của công dân đang tăng lên; nhu cầu an ninh đối với các hệ thống ngành nghề như tài chính ngân hàng, thông tin, logistics… đang ngày càng tăng lên; từ phương diện quốc gia, cần đặc biệt coi trọng an ninh tin học; trong các tiểu ban lãnh đạo mà Chủ tịch Tập Cận Bình là trưởng ban, thì Tiểu ban lãnh đạo an ninh mạng và tin học hóa trung ương là tiểu ban duy nhất có trách nhiệm nghiệp vụ cụ thể. 

d. Năng lượng thông minh. Điều mà năng lượng thông minh muốn chỉ ra là thông qua đổi mới công nghệ và thay đổi cơ chế, làm cho toàn quá trình khai thác, sản xuất, tiêu thụ năng lượng được trí năng hóa hơn nữa, xây dựng công nghệ năng lượng và hệ thống cơ chế năng lượng phát triển bền vững. Trí thức hóa ngành năng lượng, lấy tin học hóa các khâu làm cơ sở, thông qua việc thu thập dữ liệu để thực hiện ưu hóa chuỗi ngành nghề. Năng lượng thông minh là phương hướng phát triển của ngành năng lượng: Một là, hiện nay các kỹ thuật năng lượng mới như năng lượng mặt trời, năng lượng gió… để ứng dụng trên quy mô lớn vẫn cần có thời gian, cần phải nâng cao trình độ kỹ thuật năng lượng và hạ thấp giá thành, trí thức hóa là một trong những con đường thực hiện; hai là, nhiên liệu hóa thạch trong kết cấu tiêu thụ năng lượng toàn cầu hiện nay chiếm 63,4%, nâng cao trình độ trí thức hóa các khâu có lợi cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng, hạ thấp áp lực tài nguyên và giảm bớt việc thải ra các chất khí có hại. 

e. Giao thông thông minh. Giao thông thông minh có lợi cho việc làm giảm vấn đề ùn tắc giao thông ở thành thị, là phương hướng phát triển của hệ thống giao thông trong tương lai, nó sẽ tập hợp một cách có hiệu quả kỹ thuật tin học, kỹ thuật cảm biến, kỹ thuật truyền thông, kỹ thuật điều khiển và kỹ thuật máy tính… vào hệ thống giao thông mặt đất và xây dựng hệ thống quản lý vận tải giao thông tổng hợp thực tế, chính xác, hiệu quả cao có phạm vi lớn và toàn diện. Hệ thống giao thông tin học tiên tiến là cơ sở của giao thông thông minh, sau khi thu thập nhiều thông tin và truyền đến trung tâm thông tin giao thông, sau khi trung tâm thông tin xử lý sẽ phản hồi thông tin đến người tham gia giao thông, đồng thời kết hợp các hệ thống như hệ thống quản lý giao thông, hệ thống giao thông công cộng… tối ưu hóa phương thức đi lại. 

III. Mở cửa ngành dịch vụ

Việc chuyển đổi mô hình từ ngành chế tạo sang ngành dịch vụ là vô cùng cấp bách: Một là, hoạt động của ngành chế tạo bị thu hẹp, sự phát triển mạnh mẽ của ngành dịch vụ có lợi cho việc làm giảm sự liên lụy do ngành chế tạo giảm sút gây ra đối với tăng trưởng kinh tế; hai là, khả năng thu hút lao động của ngành dịch rất mạnh mẽ, trong tương lai năng suất dư thừa của các ngành truyền thống sẽ tiếp tục bị loại bỏ, sự phát triển của ngành dịch vụ có lợi cho việc thực hiện sự chuyển dịch sức lao động từ ngành công nghiệp sang ngành dịch vụ, làm giảm áp lực về việc làm. Nhưng mấu chốt phát triển của ngành dịch vụ phải dựa vào việc thúc đẩy mở cửa.

Phương hướng quan tâm của thị trường

a. Ngân hàng tư nhân: Một là, thị trường hóa lãi suất lấy mở rộng điều kiện tiếp cận thị trường làm cơ sở, đa dạng hóa nguồn vốn tín dụng để cung cấp nguồn vốn có lợi cho việc nâng cao khả năng thương lượng của các bên yêu cầu nguồn vốn, để thực hiện hai bên cung và bên cầu nguồn vốn về thực chất là ở địa vị ngang bằng. Hai là, ngân hàng tư nhân có thị trường gia tăng tương đối lớn. Điều khác với ngân hàng truyền thống là ngân hàng tư nhân xác định cung cấp dịch vụ tài chính theo yêu cầu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; và vấn đề khó vay vốn, vay vốn lãi suất cao … là những căn bệnh lâu năm hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay; ngân hàng tư nhân đối diện với nhu cầu nguồn vốn mạnh mẽ. Ba là, sự tham gia tích cực của nguồn vốn xã hội, hiện nay đã có hơn 40 doanh nghiệp bày tỏ mong muốn đặt kế hoạch xây dựng ngân hàng tư nhân đợt hai. 

b. Bệnh viện tư nhân. Một là, bệnh viện tư nhân có lợi cho việc làm giảm gánh nặng về tài chính. Bệnh viện công đa phần là đơn vị sự nghiệp, tài chính cung cấp sự hỗ trợ đối với hoạt động kinh doanh thường ngày của những bệnh viện này. Sau khi tư nhân hóa bệnh viện công, bên nguồn vốn xã hội về tổng thể có thể tham gia chuỗi ngành nghề như thiết bị y tế, dược phẩm…, thông qua phương thức định hướng mua sắm của bệnh viện để bán thiết bị và dược phẩm, lấy lợi nhuận giành được từ chuỗi ngành nghề để bù đắp sự lỗ vốn do quá trình hoạt động bệnh viện tạo nên. Hai là, nhân viên y tế được khuyến khích tham gia cơ chế chuyển đổi bệnh viện: một mặt có thể giành được thu nhập từ thị trường hóa; mặt khác thời gian công tác không bị hạn chế về độ tuổi. Ba là, hiệu quả quản lý và vận hành nguồn vốn xã hội cao hơn, có thể nâng cao hiệu quả cung cấp của dịch vụ y tế, làm giảm vấn đề khám bệnh khó khăn. 

c. Ngành thể dục thể thao. Một là, tiềm lực phát triển của ngành thể dục thể thao là rất lớn, năm 2013 ngành thể dục thể thao Trung Quốc chỉ chiếm 0,6% tỷ lệ của GDP, còn ngành thể dục thể thao của Mỹ chiếm 3% tỷ lệ của GDP. Hai là, đặc biệt coi trọng sự phát triển của ngành thể dục thể thao, vấn đề cải cách môn bóng đá đang tiến vào giai đoạn đi sâu thảo luận cải tổ, chính phủ cũng đưa ra ý kiến sẽ nâng cấp chương trình tập thể dục trong toàn dân thành chiến lược quốc gia. Ba là, Thế vận hội mùa Đông được coi là cuộc thi đấu quốc tế quy mô lớn duy nhất trong nhiệm kỳ của Chủ tịch Tập Cận Bình, nhà nước sẽ ra sức tăng cường công tác tuyên truyền, điều này lại tạo ra một cơ hội cho sự phát triển của ngành thể dục thể thao. Đối với thị trường vốn, có thể quan tâm đến các doanh nghiệp như tham gia xây dựng và kinh doanh sân vận động, dụng cụ thể dục, trang thiết bị thể dục thể thao, hoạt động và truyền phát các trận đấu…

IV. Thị trường lớn thống nhất trên cả nước

Xây dựng thị trường lớn thống nhất cả nước, có lợi cho việc giảm thiểu sự bảo hộ của chính sách địa phương, làm giảm sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực. Từ nội bộ khu vực cho thấy “Một vành đai, một con đường”, phát triển đồng bộ Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc, “Ba vành đai trụ cột” của vành đai kinh tế sông Trường Giang đã thúc đẩy các thành phố và tỉnh trong khu vực xác định chức năng một cách rõ ràng, nhanh chóng phân bổ hợp lý ngành nghề và cơ chế kết hợp giữa các ngành nghề, thúc đẩy sự phát triển của khu vực; thực hiện chính sách chấn hưng Đông Bắc để thoát khỏi cục diện tỷ lệ tăng trưởng thấp, việc nhanh chóng phát triển khu vực biên giới có ý nghĩa chiến lược to lớn, nhưng cơ sở kinh tế yếu kém như Tây Tạng, Tân Cương... Nhìn từ sự kết nối giữa các khu vực cho thấy thương mại điện tử được coi là phương thức lưu thông mới nổi đã thúc đẩy sự phát triển của tiêu dùng xuyên khu vực, thúc đẩy ngành logistics phát triển, đồng thời đặt ra yêu cầu mới cho việc xây dựng các sân bay, tuyến đường vận tải thủy...

Phương hướng quan tâm của thị trường

a. Ở tầm khu vực: xác định rõ chức năng, nhanh chóng phát triển khu vực.

- Chiến lược “Một vành đai, một con đường”.

Trước tiên, chiến lược “Một vành đai, một con đường” do Chủ tịch Tập Cận Bình đích thân thúc đẩy, trong thời kỳ “5 năm lần thứ 13” nhiều biện pháp sẽ được thực hiện. Chủ tịch Tập Cận Bình lần lượt trong tháng 9 và tháng 10/2013 lần đầu tiên đưa ra ý tưởng “Vành đai kinh tế, Con đường tơ lụa” và “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”, sau đó trong nhiều trường hợp trong nước và ngoại giao đều khởi xướng chiến lược “Một vành đai, một con đường”. Hai là, “Một vành đai, một con đường” là nhu cầu để hóa giải năng suất dư thừa. Chỉ số giá thành sản xuất (PPI) liên tiếp trong 42 tháng đều có chỉ số âm và không ngừng giảm xuống, năng suất dư thừa của ngành công nghiệp nặng vẫn rất nghiêm trọng, bên cạnh việc loại bỏ những ngành nghề có năng suất dư thừa cần phải khai thác thị trường nước ngoài. Việc chiến lược “Một vành đai, một con đường” được thúc đẩy, sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của các ngành xi măng, sắt thép, hóa chất… Ba là, chiến lược “Một vành đai, một con đường” có lợi cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng ngoại hối. Năm 2014, Trung Quốc có gần 2.000 tỷ USD tài sản ở nước ngoài, và lợi ích đầu tư lại âm 29,8 tỷ USD, nhưng cùng năm tuy nợ tới 4500 tỷ USD, nhưng lợi ích đầu tư nợ nước ngoài của Nhật Bản vẫn đạt 228,8 tỷ USD. Trung Quốc cần phải thông qua chiến lược “Một vành đai, một con đường” để mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài nâng cao hiệu quả sử dụng ngoại hối, chứ không phải là bố trí ngoại hối có tỷ lệ cao vào trái phiếu chính phủ nước ngoài (cuối năm 2014 bố trí gần 1/3 dự trữ ngoại hối vào trái phiếu chính phủ Mỹ). Cuối cùng, chiến lược “Một vành đai, một con đường” sẽ chấn hưng nhiều ngành nghề. Việc xây dựng chiến lược “Một vành đai, một con đường” phải dựa vào “5 thông” – khai thông chính sách, liên thông cơ sở, thông suốt thương mại, khai thông nguồn vốn, tương thông lòng dân, tạo cơ hội mới cho các doanh nghiệp và ngành nghề như giao thông, năng lượng, thông tin, tài chính, giáo dục, y tế…

- Phát triển đồng bộ Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc.

Trước tiên, chính phủ khóa mới đặc biệt coi trọng phát triển đồng bộ Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc. Ngay từ năm 2001 đã có học giả đưa ra quy hoạch Bắc Kinh, nhưng do tiến triển điều tiết lợi ích giữa các bên diễn ra chậm chạp, ngày 26/2/2014, tại cuộc tọa đàm phát triển đồng bộ Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc, Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức nâng việc điều hòa phát triển giữa ba khu vực này thành chiến lược quốc gia. Hai là, việc xác định chức năng khác nhau cho ba khu vực Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc sẽ thúc đẩy điều chỉnh ngành nghề. Bắc Kinh được xác định là trung tâm chính trị, trung tâm văn hóa, trung tâm giao lưu quốc tế và trung tâm sáng tạo khoa học kỹ thuật của cả nước; Thiên Tân được xác định là khu vực nền tảng nghiên cứu phát minh chế tạo tiên tiến, khu trọng tâm vận tải quốc tế phía Bắc, khu vực kiểu mẫu hoạt động đổi mới tài chính và khu vực kiểu mẫu đi đầu cải cách của cả nước; Hà Bắc được xác định là cơ sở quan trọng của ngành logistics thương mại hiện đại, khu vực thí điểm nâng cấp chuyển đổi mô hình ngành nghề, khu vực kiểu mẫu về quy hoạch thị trấn hóa và thành thị với nông thôn kiểu mới, khu vực hỗ trợ môi trường sinh thái Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc. Việc ba khu vực được xác định các chức năng khác nhau, sẽ thúc đẩy phân bố hợp lý ngành nghề và cơ chế kết hợp các ngành nghề, đẩy nhanh sự phát triển tổng thể của khu vực. Cuối cùng, phát triển đồng bộ ba khu vực sẽ thúc đẩy sự liên thông giữa ba khu vực, thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề như giao thông, logistics, thông tin, du lịch,…

- Vành đai kinh tế Trường Giang.

Một mặt, Vành đai kinh tế Trường Giang hiện có quy mô kinh tế lớn. Vành đai kinh tế Trường Giang bao phủ 11 tỉnh thành, diện tích khoảng 2.050.000 km2, dân số và GDP khoảng trên 40% toàn quốc. Mặt khác, tiềm lực tăng trưởng của Vành đai kinh tế Trường Giang lớn. Giao thông của Vành đai kinh tế Trường Giang tiện lợi, nguồn tài nguyên phong phú, có ưu thế ngành nghề và ưu thế về nguồn nhân tài, hơn nữa tập trung nhiều thành phố, mật độ các thành phố ven sông gấp 2,16 lần mật độ bình quân toàn quốc. Chiến lược Vành đai kinh tế Trường Giang thông qua việc tác động giữa miền Đông, miền Trung và miền Tây, phát triển hài hòa khu vực ven biển và khu vực ven sông, giúp phát huy ưu thế các tỉnh, thành phố trong khu vực, khai thác tiềm lực tăng trưởng.

- Các khu vực khác.

Chủ yếu tập trung ở khu vực biên giới: một mặt cơ sở kinh tế yếu kém, cần đẩy nhanh sự hỗ trợ đối với khu vực biên giới, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa khu vực này với miền Trung và miền Đông, cũng là biện pháp tất yếu để thực hiện xã hội khá giả toàn diện; mặt khác, sự phát triển kinh tế của khu vực biên giới giúp bảo vệ đất nước được ổn định và hòa bình lâu dài. Trong giai đoạn 5 năm lần thứ 13, nhà nước cần phải coi trọng việc thúc đẩy phát triển ở khu vực biên giới.

+ Chấn hưng Đông Bắc.

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng GDP ở khu vực Đông Bắc vào loại thấp nhất so với cả nước. Khu vực Đông Bắc với tư cách là cơ sở công nghiệp già cỗi, do cơ cấu ngành nghề mất cân bằng, chuyển đổi mô hình chậm chạp, ngành nghề chủ đạo không vực dậy được dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp. 6 tháng đầu năm 2015, tốc độ tăng trưởng GDP ở Liêu Ninh, Hắc Long Giang, Cát Lâm lần lượt là 2,6%, 5,1%, 6,1%, xếp thứ nhất, thứ ba và thứ tư tính từ dưới lên trên cả nước. Thứ hai, kế hoạch chấn hưng Đông Bắc cần tăng cường hỗ trợ về chính sách. Kế hoạch chấn hưng Đông Bắc được đề xuất đầu tiên vào năm 2003, nhưng căn cứ theo tình hình phát triển kinh tế cho thấy hiệu quả không rõ rệt. Thời gian gần đây đã có sự hỗ trợ về chính sách, ví dụ như một số lượng lớn khoản chi tài chính cho các ngành nghề và các doanh nghiệp nhà nước mới xuất hiện, ngành sản xuất công nghiệp năm 2025 cũng sắp xếp nhiều dự án cho khu vực Đông Bắc. Thứ ba, trọng điểm hỗ trợ quốc gia từ doanh nghiệp nhà nước chuyển sang doanh nghiệp tư nhân, xuất hiện điểm tăng trưởng mới. Các doanh nghiệp nhà nước ở Đông Bắc chiếm lượng lớn nguồn tài nguyên, dẫn đến các doanh nghiệp tư nhân phát triển chậm chạp, cơ sở tăng trưởng kinh tế khu vực cũng có liên quan trực tiếp với việc này. Thứ tư, địa vị chiến lược khu vực Đông Bắc rất quan trọng. Với tư cách là lá chắn đối với Nga và Triều Tiên, sự phát triển của Đông Bắc liên quan đến an ninh và ổn định quốc gia.

+ Khu vực Tây Tạng.

Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế của Tây Tạng lạc hậu, GDP bình quân đầu người của Tây Tạng năm 2014 là 29.000 nhân dân tệ, chỉ bằng 62,7% GDP bình quân đầu người toàn quốc. Thứ hai, Tây Tạng có vị trí ưu tiên về mặt chính sách. Vấn đề phát triển kinh tế ở Tây Tạng được đưa vào thảo luận tại các cuộc họp của Bộ Chính trị, từ ngày 25-26/8 Hội nghị về công tác Tây Tạng của Trung ương lần thứ 6, các lãnh đạo cấp cao đã coi trọng cao độ sự phát triển của Tây Tạng. Thứ ba, Tây Tạng có ưu thế ngành nghề đặc thù. Giàu tài nguyên khoáng sản; trữ lượng lớn băng cháy, đồng, sắt… đã được phát hiện; tài nguyên du lịch phong phú, nguồn thu từ ngành du lịch năm 2014 là 20,4 tỷ nhân dân tệ, chiếm 22,15% GDP khu vực; ngành sản xuất thuốc ở Tây Tạng lại là ngành tăng trưởng nhanh nhất ở khu vực Tây Tạng những năm gần đây.

+ Khu vực Tân Cương.

Thứ nhất, Tân Cương với tư cách là khu vực tập trung dân tộc thiểu số, nâng cao trình độ kinh tế giúp giảm bớt sự tác động của các thế lực chia rẽ, thúc đẩy khu vực biên giới ổn định và đất nước ổn định, hòa bình lâu dài. Thứ hai, Tân Cương với tư cách là cửa sổ hướng đến Trung Á trong chiến lược “Một vành đai, một con đường”, đón lấy thời cơ phát triển: một mặt nguồn tài nguyên trong khu vực phong phú, tận dụng sự kết nối giữa nội địa và Tân Cương trong “Một vành đai, một con đường”, cung cấp nguồn tài nguyên cho nội địa; mặt khác có thể với tư cách là trạm trung chuyển hàng hóa, bán các hàng hóa mua từ nội địa cho các nước như Trung Á…

b. Sự kết nối giữa các vùng

- Thương mại điện tử.

Trước tiên, thương mại điện tử được sự hỗ trợ về chính sách. Thương mại điện tử có thể thúc đẩy tiêu dùng, kéo theo thúc đẩy việc làm, Thủ tướng Lý Khắc Cường nhiều lần ca ngợi về thương mại điện tử. Ngày 19/8/2015, Hội nghị thường vụ Quốc Vụ viện đề xuất phải mở rộng hình thức lưu thông mới nổi như thương mại điện tử. Thứ hai, các doanh nghiệp truyền thống dần dần triển khai nghiệp vụ bán lẻ trên mạng, như các doanh nghiệp quần áo, mũ giày mở cửa hàng bán trên mạng trên các trang thương mại điện tử như Taobao.com, JD.com…, mở rộng kênh tiêu thụ. Cuối cùng, các doanh nghiệp truyền thống kết hợp với các ông trùm thương mại điện tử, như trang mạng JD nắm giữ cổ phần của siêu thị Vĩnh Huy đã mở rộng mô hình O2O (online to offline), điện máy Tô Ninh gia tăng đầu tư vào thương mại điện tử đồng thời góp cổ phần với trang mạng Weibo (Alibaba).

- Logistics.

Một mặt, logistics tiện lợi có thể thúc đẩy sự lưu thông hàng hóa xuyên khu vực, đẩy nhanh xây dựng thị trường lớn thống nhất toàn quốc. Mặt khác, sự phát triển của thương mại điện tử cũng đưa ra yêu cầu mới đối với logistic. Hiện nay trong nước vẫn chưa có doanh nghiệp chuyển phát nhanh niêm yết trên sàn chứng khoán, nhưng sự phát triển của logistics đã tăng thêm nhu cầu đối với các thiết bị đồng bộ như các sản phẩm, xe cộ… được tin học hóa logistics…, mang lại thời cơ mới cho các ngành nghề liên quan.

- Sân bay dân dụng.

Theo quy hoạch của Tổng cục hàng không dân dụng, trước năm 2025 sẽ tăng thêm 2500 sân bay dân dụng nhằm đáp ứng lỗ hổng cung cầu sân bay ngày càng mở rộng trong giai đoạn hiện nay: một mặt, Luật hàng không dân dụng hiện hành ràng buộc sự cung cấp các sân bay dân dụng. Luật hàng không dân dụng đã gia tăng hạn chế đối với bán kính khoảng cách sân bay, dẫn đến một số thành phố có nhu cầu sân bay dân dụng không thể xây dựng được; mặt khác, sự phát triển của logistics cũng như sự gia tăng nhu cầu hàng không dân dụng như đi du lịch, giám sát môi trường…, còn đưa ra yêu cầu cao hơn đối với tỷ lệ phổ cập sân bay. Trong giai đoạn 5 năm lần thứ 13, sẽ có nhiều các sân bay dân dụng được khởi công xây dựng, mang lại thị trường mới cho các doanh nghiệp xây dựng và vận hành sân bay, các doanh nghiệp thiết kế và chế tạo máy bay.

- Thông suốt đường thủy.

Quy hoạch dài hạn trong phát triển ngành logistics đặc biệt chỉ rõ phải phát huy ưu thế độc đáo của đường thủy, xây dựng Vành đai kinh tế Trường Giang, và nhiệm vụ hàng đầu trong việc phát triển Vành đai kinh tế Trường Giang chính là xây dựng cơ sở hạ tầng tốt, thực hiện tốt công tác nạo vét và khai thông đường thủy bị tắc nghẽn. Hiện nay Vũ Hán và Trùng Khánh đang thực hiện công tác nạo vét Trường Giang, các thành phố chủ chốt như Nam Kinh, Vu Hồ, Nghi Xương… cũng đã thực hiện một phần công tác khai thông đường thủy bị tắc nghẽn. Dự kiến “Quy hoạch Vành đai kinh tế Trường Giang” sẽ được ban hành trong năm nay, “Quy hoạch” sẽ xác định rõ vị trí phân công và bố cục ngành nghề của các tỉnh, thành phố. Cùng với việc xác định rõ công việc, quy mô công tác xử lý tắc nghẽn có tính khu vực có triển vọng thúc đẩy. 

V. Phân phối thu nhập, then chốt là xóa đói giảm nghèo

Tăng cường điều tiết phân phối thu nhập, áp dụng đúng đắn các biện pháp xóa đói giảm nghèo, giúp dân nghèo thoát khỏi cảnh nghèo nàn, là nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn Quy hoạch 5 năm lần thứ 13: Một là chênh lệch thu nhập của người dân quá lớn, số liệu Cục thống kê quốc gia cho thấy hệ số Gini của Trung Quốc năm 2014 là 0,469, đạt đến khu vực có trị số xã hội bất ổn, và tình hình thực tế có thể nghiêm trọng hơn so với số liệu chính thức; hai là số người nghèo đói nhiều, tính theo tiêu chuẩn nghèo đói với thu nhập bình quân đầu người một năm 2300 nhân dân tệ, số người nghèo đói ở nông thôn năm 2014 có khoảng 70 triệu người; ba là Tổng Bí thư Tập Cận Bình nhiều lần đề cập đến việc “nghiêm chỉnh xóa đói giảm nghèo”, tháng 6 năm nay khi điều tra nghiên cứu ở Quý Châu, ông nhấn mạnh phải lên kế hoạch công tác phát triển xóa đói giảm nghèo một cách khoa học trong giai đoạn Quy hoạch 5 năm lần thứ 13, đảm bảo số người nghèo đến năm 2020 sẽ thoát nghèo đúng hạn.

Phương hướng quan tâm của thị trường

a. Kinh doanh ngành nghề hóa nông nghiệp.

Thứ nhất, chính sách hướng dẫn kinh doanh ngành nghề hóa nông nghiệp. Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 đề xuất cho phép các nông dân dùng quyền khoán kinh doanh góp cổ phần phát triển kinh doanh ngành nghề hóa nông nghiệp, phát triển kinh doanh quy mô bằng nhiều hình thức. Thứ hai, ngành nghề hóa nông nghiệp cũng là nhu cầu thực tế. Sau khi thúc đẩy đô thị hóa, dân số nông thôn chuyển dịch lên thành phố, sức lao động dư thừa ở nông thôn giảm sút, cần thông qua kinh doanh ngành nghề hóa hợp nhất nguồn tài nguyên đất đai. Thứ ba, hệ thống logistics và kỹ thuật mạng Internet hiện đại khiến cho việc xác định vị trí các sản phẩm nông nghiệp chính xác hơn, thị trường rộng lớn hơn, mở thêm kênh tiêu thụ cho việc kinh doanh ngành nghề hóa. Thành phố Ba Trung có kế hoạch xây dựng các điểm dịch vụ thương mại điện tử, áp dụng biện pháp linh hoạt tùy từng nơi lựa chọn chủng loại thiết lập ngành nghề đặc sắc, xây dựng hệ thống ngành nghề nông nghiệp hiện đại bao gồm Trung tâm giao dịch sản phẩm nông nghiệp, khu vườn ngành nghề, Trung tâm logistics thương mại…

b. Nguồn vốn xã hội tham gia xóa đói giảm nghèo.

Thứ nhất, không gian phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn lớn. So với thành phố, cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn như giao thông, viễn thông, nước sạch, xử lý ô nhiễm còn kém, mở rộng việc cung cấp cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn là một trong những nội dung quan trọng trong công tác xóa đói giảm nghèo. Thứ hai, chính quyền địa phương chấp thuận dùng hình thức như PPP để nguồn vốn xã hội tham gia việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Đối với các dự án người sử dụng trả phí, chính quyền địa phương có thể giảm bớt khoản chi tiền vốn ban đầu; đối với các dự án chính phủ trả phí, chính quyền địa phương có thể kéo dài khoản chi ngắn hạn, giảm sức ép tài chính hiện thời. Thứ ba, nguồn vốn xã hội khi tham gia xây dựng và vận hành cơ sở hạ tầng nông thôn đã mở rộng phạm vi thị trường, giành được lợi ích dài hạn tương đối ổn định.

c. Giảm nghèo nhờ năng lượng, đặc biệt là giảm nghèo nhờ năng lượng mặt trời.

Thứ nhất, giảm nghèo nhờ năng lượng là biện pháp cần thiết để thực hiện xã hội khá giả ở khu vực nông thôn trong 5 năm. Năng lượng là một trong những nhân tố hạn chế khu vực nông thôn trở nên giàu có, sự phát triển ngành nghề cần nguồn năng lượng hỗ trợ. Thứ hai, tháng 10/2014, Cục năng lượng quốc gia, Tiểu ban lãnh đạo xóa đói giảm nghèo Chính phủ công bố “Phương án về công tác thực thi công trình giảm nghèo năng lượng mặt trời”, đề xuất rõ ràng phải tận dụng thời gian 6 năm để tổ chức thực thi công trình giảm nghèo nhờ năng lượng mặt trời, thông qua xây dựng lắp đặt hệ thống phát điện năng lượng mặt trời kiểu phân bố, trạm điện năng lượng mặt trời…, tăng thêm thu nhập cho người nghèo. Thứ ba, ngành năng lượng mặt trời sau năm 2009 đã trải qua sự mở rộng nhanh chóng năng lượng sản xuất, hiện đã xuất hiện sự dư thừa năng lực sản xuất, thông qua giảm nghèo nhờ năng lượng mặt trời để mở rộng thị trường nông thôn, cũng là một trong những biện pháp giải quyết sự dư thừa năng lực sản xuất của các ngành nghề.

d. Du lịch nông thôn.

Ở tầm nhà nước cần tăng cường hỗ trợ chính sách đối với các thôn trọng điểm thực hiện xóa đói giảm nghèo thông qua du lịch nông thôn, “Một số ý kiến về việc thúc đẩy hơn nữa đầu tư và tiêu dùng du lịch” do Văn phòng Chính phủ ban hành ngày 11/8/2015, đề xuất sẽ hỗ trợ 6000 thôn trọng điểm về xóa đói giảm nghèo thông qua triển khai du lịch nông thôn, thực hiện mỗi thôn trọng điểm có thu nhập kinh doanh hàng năm từ du lịch đạt 1 triệu nhân dân tệ, nỗ lực đến năm 2020 thực hiện cả nước hàng năm thông qua du lịch nông thôn thúc đẩy 2 triệu người nghèo ở nông thôn thoát nghèo trở nên giàu có.

e. Tài chính nông thôn.

Thứ nhất, giải quyết vấn đề tam nông, không tách rời với sự phát triển của tài chính nông thôn. Nhưng do các nguyên nhân như trình độ công nghệ tin học ở khu vực nông thôn thấp, thiếu cơ chế đánh giá tín dụng có hiệu quả, nông dân và các cơ cấu tài chính thiếu tích lũy tín dụng… khiến cho tài chính nông thôn phát triển chậm chạp. “Báo cáo phát triển tài chính nông thôn Trung Quốc năm 2014” do Trung tâm điều tra và nghiên cứu tài chính gia đình Trung Quốc thuộc Đại học kinh tế tài chính Tây Nam công bố cho thấy khả năng nhận được khoản vay qua kênh chính thức của các gia đình nông thôn là khoảng 27,6%, thấp hơn mức bình quân toàn quốc là 40,5%, còn tỷ lệ vay qua kênh không chính thức ở nông thôn cao đến 43,8%. Thứ hai, chính sách hỗ trợ tài chính nông thôn, như Ngân hàng Trung ương thực hiện giảm chuẩn định hướng và giảm chuẩn ngoài mức quy định đối với các ngân hàng thương mại và ngân hàng thương mại thành phố phù hợp với điều kiện liên quan đến cho vay nông thôn, Bộ Tài chính rót vốn cho các ngân hàng phát triển nông nghiệp. Thứ ba, hiện nay các cơ quan tham gia tài chính nông thôn tương đối ít, với ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng phát triển nông nghiệp, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, các ngân hàng thương mại nông thôn là chính. Trước một lượng lớn nhu cầu về dịch vụ tài chính nông thôn, các cơ cấu tài chính nếu có thể thực hiện lý luận nghiên cứu và điều tra thực tiễn, hoàn thiện cơ chế đánh giá rủi ro, chuẩn bị tốt công tác kiểm soát rủi ro thì có triển vọng giành được thị phần trong thị trường tài chính nông thôn.

VI. Lão hóa dân số

Theo tiêu chuẩn lão hóa dân số của quốc tế (số lượng người già từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% tổng dân số) thì Trung Quốc đã có dân số lão hóa từ năm 1999. Cùng với việc dân số lão hóa, những tác động tiêu cực đến kinh tế và xã hội ngày càng rõ rệt: một mặt do tỷ lệ dân số lao động giảm sút, không còn lợi thế về nhân công, Trung Quốc chưa giàu đã lão hóa; mặt khác sự thay đổi của kết cấu dân số đã kéo theo sự thay đổi về kết cấu nhu cầu, theo kinh nghiệm của Mỹ và Nhật Bản, bất động sản bước vào giai đoạn giảm tốc trong chu kỳ dài, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự giảm tốc trong tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc. 

Dự báo trong giai đoạn Quy hoạch 5 năm lần thứ 13, việc ứng phó với cuộc khủng hoảng lão hóa dân số sẽ bắt đầu từ hai phương diện: một là nới lỏng chính sách sinh đẻ có kế hoạch, nâng cao tỷ lệ sinh, giảm sức ép lão hóa xuống mức thấp nhất; hai là gia tăng cung cấp dịch vụ liên quan đến dưỡng lão, đáp ứng nhu cầu về phương diện đời sống và tinh thần cho người già.

Phương hướng quan tâm của thị trường 

a. Chính sách sinh con thứ 2.

Ngày 28/12/2013, Hội nghị lần thứ 6 Ủy ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc biểu quyết thông qua “Nghị quyết về điều chỉnh hoàn thiện chính sách sinh đẻ”, mỗi bên vợ chồng là con một đều có thể sinh con thứ hai, các tỉnh, thành phố khác ngoài Tân Cương và Tây Tạng đều thực thi chính sách này vào 6 tháng đầu năm 2014. Xét từ hiện nay cho thấy hiệu quả của chính sách không rõ rệt, số người sinh năm 2014 là 16,870 triệu người, chỉ tăng 47.000 người so với năm 2013, chủ yếu do chi phí sinh đẻ, giáo dục, giá nhà… cao và sự thay đổi quan niệm sinh đẻ đưa tới. Theo các nguồn tin, các cơ quan liên quan đang nghiên cứu nới lỏng toàn diện chính sách sinh hai con, thông qua mở rộng số lượng để tăng thêm tỷ lệ sinh, theo đó các ngành liên quan như thực phẩm bà mẹ và trẻ em, giáo dục trẻ em, đồ chơi… đều có cơ hội tốt để phát triển.

b. Xây dựng cơ sở hạ tầng chăm sóc người già.

Một mặt, Trung Quốc chưa thế ứng phó đầy đủ với việc lão hóa dân số, hạ tầng cơ sở chăm sóc người già thiếu thốn nghiêm trọng. Lấy thành phố Thượng Hải làm ví dụ, giường ngủ dưỡng lão ở thành phố Thượng Hải năm 2013 chỉ có 108 nghìn giường, chiếm 2,8% số người già, chênh lệch tương đối lớn so với mức 3,75% theo quy hoạch. Thượng Hải với tư cách là khu vực tương đối phát triển về ngành dưỡng lão còn như vậy, lỗ hổng cung cầu về hạ tầng dưỡng lão ở các tỉnh, thành phố khác càng lớn hơn. Mặt khác, Trung Quốc đã đưa ra chính sách chỉ đạo đẩy nhanh việc xây dựng hạ tầng dưỡng lão. “Ý kiến của Chính phủ về thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ chăm sóc người già” quy định các khu nội thành xây mới và các tiểu khu xây mới ở các địa phương đều phải xây dựng hạ tầng chăm sóc người già đồng bộ theo tiêu chuẩn, khuyến khích nguồn vốn xã hội tham gia cung cấp dịch vụ chăm sóc người già.

c. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chăm sóc người già.

Thứ nhất, nhà nước khuyến khích thúc đẩy xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chăm sóc người già. Các cơ cấu dịch vụ chăm sóc người già chuyên nghiệp hóa, tiêu chuẩn hóa có thể cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt hơn, “Ý kiến của Chính phủ về thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ chăm sóc người già” khuyến khích xây dựng các doanh nghiệp hàng đầu quy mô hóa, dây chuyền hóa. Thứ hai, hiện nay trong thị trường dịch vụ chăm sóc người già trong nước, các doanh nghiệp chủ yếu cung cấp dịch vụ chăm sóc người già trong khu vực, đồng thời các doanh nghiệp không đạt chuẩn lại chiếm thị phần tương đối lớn. Cùng với việc ngày càng nhiều doanh nghiệp khai thác thị trường dịch vụ chăm sóc người già, cạnh tranh ngành nghề gia tăng, cơ chế thị trường sẽ khiến cho dịch vụ chăm sóc người già tập trung vào các doanh nghiệp lớn có tiền vốn và nguồn tài nguyên, kinh nghiệm có liên quan.

d. Dịch vụ quản lý chăm sóc người già.

Cùng với sự gia tăng quy mô dân số lão hóa, nhu cầu đối với dịch vụ quản lý chăm sóc người già cũng mở rộng, chủ yếu bao gồm nhu cầu ở hai phương diện: một là nhu cầu cuộc sống, bao gồm ăn uống, hỗ trợ tắm rửa, vệ sinh, trợ giúp y tế; hai là nhu cầu tinh thần, bao gồm giáo dục cho tuổi già, hoạt động vui chơi giải trí, an ủi tư vấn tâm lý… Đối với thị trường, có thể tận dụng mạng Internet xây dựng diễn đàn mạng dịch vụ tại nhà, cung cấp các hạng mục dịch vụ về nhu cầu người già như cuộc gọi khẩn cấp, đặt lịch giúp việc nhà, tư vấn sức khỏe, nộp phí dịch vụ…

VII. Bảo vệ môi trường sinh thái

Mô hình tăng trưởng thô trước kia đã gây ra vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo “Công báo môi trường của Trung Quốc năm 2014”, trong số 4896 điểm kiểm tra chất lượng nước ngầm trên toàn quốc, tỷ lệ chất lượng nước tốt chỉ có 10,8%, còn tỷ lệ chất lượng kém và rất kém lần lượt lên tới 45,4% và 16,1%. Trong số 161 thành phố cấp địa khu trở lên triển khai kiểm tra theo tiêu chuẩn mới về chất lượng không khí, tỷ lệ thành phố đạt tiêu chuẩn về chất lượng không khí chỉ 9,9%; tỷ lệ vượt quá tiêu chuẩn ô nhiễm cho phép về đất đai trên toàn quốc là 16,1%, riêng đất trồng trọt vượt quá tiêu chuẩn cho phép tới 19,4%. 

Trên cơ sở Quy hoạch 5 năm lần thứ 12, việc xây dựng bảo vệ môi trường sinh thái trong Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 sẽ tiếp tục được tăng cường. Trong 24 chỉ số phát triển kinh tế xã hội tại Quy hoạch 5 năm lần thứ 12, có 8 chỉ số liên quan đến môi trường tài nguyên, ngoài chỉ số sử dụng nước tưới tiêu có hiệu quả trong nông nghiệp, các chỉ số còn lại đều là chỉ số mang tính bắt buộc. Cùng với sự nổi cộm của vấn đề môi trường và tài nguyên, sức ép xây dựng bảo vệ môi trường trong thời kỳ Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 chỉ tăng chứ không giảm. 

Phương hướng quan tâm của thị trường

a. Bên thứ ba quản lý môi trường.

Thứ nhất, chính quyền ra sức mở rộng cho bên thứ ba quản lý. So với việc chính quyền trực tiếp quản lý, doanh nghiệp là bên thứ ba có ưu thế về kỹ thuật, giá thành; giúp thúc đẩy chuyên nghiệp hóa, ngành nghề hóa việc xây dựng và vận hành các cơ sở bảo vệ môi trường, được kỳ vọng rất nhiều cho quản lý môi trường. Doanh nghiệp bên thứ hai, thứ ba rất mong muốn được tham gia quản lý môi trường. Quy mô thị trường quản lý môi trường rất to lớn, ví dụ chỉ riêng kim ngạch đầu tư cho "Kế hoạch hành động phòng ngừa và xử lý ô nhiễm nguồn nước" đã lên tới quy mô hơn nghìn tỷ nhân dân tệ, các dự án quản lý môi trường thường thu lãi ổn định, chu kỳ cho hiệu quả lâu dài. Đã có những công ty niêm yết trên sàn chứng khoán tham gia quản lý môi trường với tư cách bên thứ ba như Công ty xử lý nước Ba An, Công ty Bích Thủy Nguyên... 

b. Năng lượng mới. Một mặt, năng lượng mới còn phải mất chặng đường rất dài để thay thế năng lượng hóa thạch. Cơ cấu tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc chủ yếu là nhiên liệu hóa thạch, tỷ lệ nhiên liệu hóa thạch năm 2014 chiếm 83,1% tổng lượng tiêu thụ năng lượng, trong khi thủy điện, điện hạt nhân và năng lượng tái sinh chỉ chiếm 11,2% tổng lượng tiêu thụ năng lượng. Mặt khác, lĩnh vực ứng dụng năng lượng mới còn có không gian lớn để mở rộng. Năng lượng mới hiện nay chủ yếu ứng dụng trong lĩnh vực ô tô, cùng với tiến bộ kỹ thuật năng lượng mới, tương lai có thể mở rộng ứng dụng trong các lĩnh vực như ngành kiến trúc, ngành chế tạo...

c. Thương mại hóa bảo vệ môi trường.

Một mặt, Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 đề xuất phát triển thị trường bảo vệ môi trường, thực hiện chế độ thương mại hóa quyền tiết kiệm năng lượng, thải khí CO2, thải ô nhiễm, quyền sử dụng nước… Mặt khác, công tác thí điểm có liên quan đã được triển khai, trong thời kỳ Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 có hy vọng hình thành thị trường thống nhất. Hiện nay đã triển khai thí điểm việc giao dịch quyền thải ô nhiễm, quyền thải khí CO2, quyền sử dụng nước, việc thương mại hóa tiết kiệm năng lượng cũng đang trong giai đoạn nghiên cứu. Theo tiết lộ của một quan chức có liên quan tại Diễn đàn giảm thải, tiết kiệm năng lượng ngành đường sắt cao tốc, năm 2016 sẽ khởi động thị trường giao dịch khí thải CO2, các ngành thí điểm đợt đầu gồm 6 ngành lớn trong đó có ngành đường sắt, điện lực...

d. Kinh tế tuần hoàn.

Phát triển kinh tế tuần hoàn có lợi cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên của toàn xã hội. Thông qua sự kết nối tuần hoàn hệ thống sản xuất và sinh hoạt, biến rác thải sinh hoạt thành tài nguyên để sử dụng lại, sử dụng tổng hợp chất thải rắn như quặng than, chất thải quặng mỏ… Trong thời kỳ Quy hoạch 5 năm lần thứ 13, phạm vi và quy mô thí điểm kinh tế tuần hoàn sẽ tiếp tục được mở rộng: Một mặt, các tỉnh, thành phố đang triển khai thí điểm làm mẫu kinh tế tuần hoàn sẽ trợ giúp về đầu tư, thu thuế, tài chính cho các dự án thí điểm. Mặt khác, những doanh nghiệp lên sàn chứng khoán tích cực tham gia kinh tế tuần hoàn như Công ty sản xuất chì Dự Quang là một trong những doanh nghiệp sản xuất chì lớn nhất cả nước đã tích cực nghiên cứu và sản xuất chì tái sinh.

VIII. Cơ chế huy động vốn đầu tư: mô hình hợp tác công-tư (PPP)

Trong thời kỳ Quy hoạch 5 năm lần thứ 13, việc ứng dụng mô hình PPP trong các dự án cơ sở hạ tầng và phục vụ công ích sẽ tiếp tục được mở rộng: Một là cải thiện môi trường thể chế, "Phương pháp cấp phép đặc biệt kinh doanh quản lý cơ sở hạ tầng và phục vụ cộng đồng" đã ràng buộc trách nhiệm vi phạm hợp đồng của chính quyền địa phương; hai là cùng với việc nhân rộng các dự án thành công và tập huấn về PPP, sự hiểu biết của chính quyền địa phương và chủ nguồn vốn xã hội về thực hiện cụ thể PPP đã được nâng cao; ba là sự định hướng chính sách, Bộ Tài chính xây dựng Quỹ hướng dẫn chuyên ngành PPP, hỗ trợ về tài chính và thuế đối với một số dự án.

Việc xây dựng cơ sở hạ tầng địa phương từng do doanh nghiệp đầu tư đô thị chủ đạo. Văn bản số 43 đã hạn chế chức năng vay vốn của chính quyền thông qua các tổ chức tín dụng, đối với các dự án xây dựng mới và dự án chưa hoàn thành thì ưu tiên xây dựng theo phương thức PPP. Cùng với việc tỷ lệ ký kết hợp đồng theo phương thức PPP tăng lên, tính chất thay thế của phương thức này đối với việc vay đầu tư xây dựng đô thị được tăng cường, cung cấp cơ hội đầu tư cho thị trường vốn. 

Phương hướng quan tâm của thị trường

a. Doanh nghiệp tham gia dự án PPP.

Như phần trên đã nêu, cơ sở hạ tầng hậu kỳ và dự án phục vụ cộng đồng sẽ được xây dựng theo phương thức PPP nhiều hơn, tỷ lệ sử dụng phương thức chủ đạo của chính quyền theo truyền thống sẽ thu hẹp. Để thích ứng với những thay đổi của phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng và phục vụ cộng đồng, đã có những doanh nghiệp lên sàn chứng khoán tham gia trong dự án PPP như Công ty Hạn Phúc Hoa Hạ, Công ty nước Trung Tín… Những doanh nghiệp này thường có các đặc điểm: Một là nhân viên chuyên ngành làm công việc chuyên ngành, sử dụng năng lực chuyên môn để nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm dịch vụ. Hai là có những kinh nghiệm thành công trong thực hiện dự án PPP, dễ nhân rộng phương thức kinh doanh có lãi của mình, trong quá trình mời thầu cũng dễ được chính quyền địa phương chấp nhận. Ba là đi đầu trong lĩnh vực của mình, năng lực huy động vốn từ doanh nghiệp lớn thuộc trung ương, các công ty đã lên sàn chứng khoán, quan hệ với chính quyền và năng lực trong lĩnh vực chuyên ngành giúp họ có ưu thế tất yếu trong dự án PPP.

b. Dịch vụ vay vốn PPP.

Dự án PPP phần lớn là những dự án cơ sở hạ tầng. Số vốn đầu tư tài sản cố định ban đầu lớn, trong khi việc huy động vốn chủ yếu do nguồn vốn xã hội đảm nhận, có yêu cầu nhất định đối với thực lực nguồn vốn xã hội. Hiện nay trong những quốc gia ứng dụng thành thục phương thức PPP, chủ yếu bằng nguồn vốn cho vay, tỷ lệ góp vốn bằng cổ phần khá nhỏ, còn trong các dự án PPP và BOT của Trung Quốc, chủ yếu là nguồn vốn từ cổ phần. Vốn cho vay có thể giảm thiểu việc chiếm dụng vốn của doanh nghiệp, giảm giá thành. Trong tương lai nguồn vốn cho vay dự án PPP sẽ là hướng phát triển. Nguồn vốn cho vay dự án PPP trong giai đoạn hiện nay đặc biệt là nguồn vốn từ trái phiếu đang từng bước được mở rộng, Ngân hàng phát triển nhà nước đã mở dịch vụ có liên quan. Nhưng điều cần phải chú ý là do dự án PPP liên quan đến lợi ích của công chúng, đòi hỏi phải đảm bảo an toàn vốn vay nhằm tránh do nguyên nhân đòn bẩy dẫn đến dự án bị thất bại, nên tiến trình phát triển vốn cho vay PPP phải triển khai một cách vững chắc.

c. Dịch vụ tư vấn PPP.

Sự phát triển phương thức PPP đã làm nảy sinh thị trường dịch vụ tư vấn PPP, tương lai sẽ có không gian phát triển khá lớn: Thứ nhất, hiện nay doanh nghiệp dịch vụ tư vấn PPP trong nước khá ít, chỉ có 2 doanh nghiệp tư vấn là công ty Tư vấn Tế Bang và công ty Tư vấn Đại Nhạc độc quyền thị trường. Thứ hai, chi phí cho dịch vụ tư vấn PPP cao. Căn cứ kinh nghiệm nước ngoài, phí tư vấn dự án PPP chiếm tỷ lệ khoảng 1% tổng chi phí dự án. Thứ ba, phương thức khá phổ thông của nghiệp vụ PPP phức tạp, doanh nghiệp cũng có nhu cầu tư vấn. Khi tham gia dự án, doanh nghiệp đòi hỏi được tìm hiểu và phân tích các khâu như tính khả thi của dự án, khả năng có lãi, thiết kế cơ cấu tài chính, xử lý tranh chấp dự án, việc miễn trừ, chuyển dịch, việc giao nhận với chính quyền khi hết thời gian dự án, làm phát sinh nhu cầu thị trường…

IX. Cải cách doanh nghiệp nhà nước

Phương án thiết kế ở cấp cao nhất về cải cách doanh nghiệp nhà nước cuối cùng đã được công khai hóa và không có gì thần bí. Mọi người quan tâm một vấn đề: Cải cách doanh nghiệp nhà nước liệu có thể trở thành "phép màu cứu thị trường" hay không? Điều này dường như là một nhiệm vụ không thể hoàn thành. Trọng tâm của cải cách từ trước đến nay không phải là chủ đề nóng của thị trường, mà là việc giải quyết vấn đề thực thể. Cho dù là một phương án tốt cân bằng cho các bên cũng không chắc thỏa mãn được ảo tưởng vô tận của thị trường vốn, xét đến cùng thì nhà đầu tư cũng không đại diện cho tất cả mọi người. Huống hồ trước đó, các nhà đầu tư đã gửi gắm hy vọng vào thành công của việc thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước, trước khi công bố việc cải cách doanh nghiệp nhà nước đã xác định một phương án không ngoài dự báo. Đối với nhà đầu tư, sự lựa chọn có lý trí là từ bỏ mọi ảo tưởng, tìm lấy điều gần lý tưởng nhất trong phương án thực tế.

Phương hướng quan tâm của thị trường

a. Thúc đẩy chứng khoán hóa tài sản nhà nước.

Ưu thế lớn của cải cách lần này là thị trường vốn và công cụ tiền tệ hoàn thiện hơn trước nhằm tạo điều kiện thúc đẩy chứng khoán hóa tài sản nhà nước. Một mặt chứng khoán hóa tài sản nhà nước có thể giải quyết được vấn đề ai sẽ mua, ai sẽ làm gia tăng tài sản nhà nước, mặt khác có thể thông qua cạnh tranh và giám sát của thị trường công khai để thúc đẩy sự tách bạch giữa chính quyền và doanh nghiệp, tránh né có hiệu quả vấn đề thất thoát tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Đối với những doanh nghiệp nhà nước có mức độ chứng khoán hóa khác nhau có thể sử dụng các phương thức khác nhau như đưa tất cả lên sàn chứng khoán, mượn vỏ bọc để lên sàn, trở lại mua công ty mẹ… để nâng cao tỷ lệ chứng khoán hóa, hiện nay đã có 12 tỉnh, thành phố công bố mục tiêu định lượng chứng khoán hóa tài sản nhà nước, tỷ lệ chứng khoán hóa tài sản nhà nước 5 năm tới sẽ tăng lên đáng kể, đem đến cho thị trường cơ hội đầu tư.

b. Thúc đẩy sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, trọng điểm là doanh nghiệp trung ương.

Ý tưởng của chính phủ khóa mới liên kết giữa các doanh nghiệp trung ương mạnh, chủ yếu là tập trung xếp sắp lại các doanh nghiệp đầu tàu, tạo "thương hiệu nhà nước" có sức cạnh tranh quốc tế, tránh để doanh nghiệp trong quá trình "đi ra bên ngoài" xảy ra cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép lẫn nhau, nhằm mở rộng thị trường ở nước ngoài, đẩy nhanh năng lực xuất khẩu. Phương hướng sắp xếp lại doanh nghiệp trung ương trong tương lai là thúc đẩy sáp nhập các hạng mục cùng loại của doanh nghiệp trung ương có giá trị kèm theo cao, có vai trò đẩy mạnh xuất khẩu, còn tồn tại cạnh tranh không lành mạnh về nghiệp vụ.

c. Chế độ sở hữu hỗn hợp. Sự thể hiện có phần nhẹ đi so với cách nêu "tích cực phát triển" được đưa ra tại Hội nghị trung ương 3 khóa 18, trong tương lai sẽ càng thận trọng hơn, chủ yếu là nhấn mạnh chế độ sở hữu hỗn hợp không có nghĩa là tư hữu hóa, mà nhằm phục vụ cho doanh nghiệp nhà nước phát triển mạnh hơn, tốt hơn, lớn hơn. Từ góc độ đầu tư chiến lược, trong tương lai sẽ thu hút nguồn vốn xã hội trên cơ sở tránh thất thoát tài sản nhà nước và thúc đẩy việc duy trì và tăng thêm giá trị tài sản nhà nước. Ở cấp trung ương, cải cách chế độ sở hữu hỗn hợp sẽ tập trung ở chuỗi ngành sản xuất có chiều sâu, ví dụ như cải cách chế độ sở hữu hỗn hợp ở khâu tiêu thụ của Công ty lọc dầu Trung Quốc. Doanh nghiệp nhà nước cấp địa phương thì tập trung cải cách chế độ sở hữu hỗn hợp ở địa phương đã phát triển, PPP là một hình thức có chế độ sở hữu hỗn hợp đặc thù, trong các lĩnh vực năng lượng, thông tin, điện lực có không gian khá lớn để ứng dụng.

d. Cải thiện công tác quản lý công ty, xí nghiệp nhà nước.

Nếu không cải cách tận gốc thể chế quản lý tài sản nhà nước thì việc cải cách quản lý nội bộ doanh nghiệp nhà nước chắc chắn sẽ gặp trở ngại. Đối với nhà đầu tư, có thể tập trung vào cải cách thể chế quản lý công ty cục bộ. Một là thị trường hóa cơ chế quản lý, giải quyết vấn đề hội đồng quản trị doanh nghiệp nhà nước mang tính hình thức; Hai là thị trường hóa việc tuyển dụng nhân viên. Việc tuyển dụng quản lý ở cấp cao căn cứ vào phân loại và cấp độ khác nhau của doanh nghiệp để thực hiện cơ chế tuyển dụng, đề bạt khác nhau như có chế tuyển chọn bổ nhiệm, cơ chế ủy thác công việc, cơ chế mời làm việc, việc tuyển dụng được thị trường hóa công khai… Ba là thị trường hóa cơ chế khuyến khích. Cải cách chế độ tiền lương, nâng cao tính tích cực làm việc, ở lĩnh vực thích hợp khuyến khích công ty đã lên sàn chứng khoán khích lệ bằng quyền cổ phiếu, phát triển chế độ sở hữu hỗn hợp thông qua phương thức khuyến khích giữ cổ phần của công nhân viên chức. 

e. Đặc biệt quan tâm đầu tư cho các viện nghiên cứu khoa học.

Trong tương lai sẽ thông qua đầu tư cho các viện nghiên cứu để nâng cao tỷ lệ chứng khoán hóa của doanh nghiệp trung ương, cũng là một trong những giải pháp cải cách doanh nghiệp trung ương. Một mặt, các viện nghiên cứu là tài sản cốt lõi của doanh nghiệp trung ương. Doanh nghiệp trung ương, nhất là doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng thì viện nghiên cứu khoa học trực thuộc bên dưới đảm nhận nhiệm vụ nghiên cứu khoa học công nghệ sản xuất, được hỗ trợ ngân sách và chứng nhận phát minh sang chế, là tài sản cốt lõi của doanh nghiệp trung ương. Nhưng mặt khác, đa số viện nghiên cứu khoa học thuộc doanh nghiệp trung ương lại chưa lên sàn chứng khoán, ví dụ như Trung tâm điều hành bay, Trung tâm quang điện, Trung tâm vô tuyến điện, Trung tâm máy tính và Viện điện radar dưới quyền Tập đoàn Điện tử hàng không Trung Quốc, phần lớn là cơ quan nghiên cứu chuyên ngành hoặc có địa vị độc quyền duy nhất trong nội bộ ngành, thuộc tài sản chất lượng cao nhưng đều chưa lên sàn chứng khoán. 

X. Kết hợp quân sự-dân sự

Trong Quy hoạch 5 năm lần thứ 12, tuy đã đề cập đến việc kết hợp quân sự-dân sự, nhưng ở thời kỳ Quy hoạch 5 năm lần thứ 12, phạm vi kết hợp ứng dụng kỹ thuật quân sự-dân sự còn khá hạn hẹp, chủ yếu ở lĩnh vực dẫn đường, thông tin… Tháng 3/2014, Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã trình bày có hệ thống quan điểm về kết hợp trong và ngoài quân đội, đưa việc kết hợp này lên thành chiến lược quốc gia. Từ đó việc kết hợp quân sự-dân sự đã phát triển nhanh chóng, như Tổng cục trang bị Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc khai thông mạng thông tin mua sắm vũ khí trang bị của toàn quân, thành phố Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam thành lập Khu sản xuất ứng dụng vệ tinh kết hợp quân sự-dân sự. Dự kiến trong thời kỳ Quy hoạch 5 năm lần thứ 13 sẽ có sự đột phá khá lớn cả chiều rộng và chiều sâu về kết hợp quân sự-dân sự.

Phương hướng quan tâm của thị trường

a. Xí nghiệp dân doanh tham gia hệ thống mua sắm.

Ngành công nghiệp quốc phòng Trung Quốc do phía quân đội chủ đạo, nội bộ ngành công nghiệp quốc phòng đã hình thành một hệ thống từ trên xuống dưới khá hoàn chỉnh, việc mua sắm vật tư quân sự cũng chủ yếu từ nguồn nội bộ hệ thống này. Hệ thống công nghiệp quốc phòng do quân đội giữ vai trò chủ đạo đã được thúc đẩy phát triển nhảy vọt, nhưng đồng thời mặt trái phát triển theo phương thức không cần tính toán giá thành cũng ngày càng lộ rõ, đòi hỏi phải tạo điều kiện mở cửa thị trường mua sắm hàng công nghiệp quân sự để các xí nghiệp dân doanh cạnh tranh với doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng: Một mặt, cơ chế cạnh tranh có thể hạ giá thành mua sắm của doanh nghiệp quốc phòng, tăng sức cạnh tranh, tạo thuận lợi thực hiện chiến lược "Đi ra bên ngoài"; mặt khác, có thể thúc đẩy phát triển kỹ thuật dân dụng. Thông qua tiêu chuẩn hàng quân sự phải cao hơn hàng dân dụng, xí nghiệp dân doanh tham gia mua sắm hàng công nghiệp quốc phòng, có thể nâng cao chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm, từ đó thúc đẩy sự phát triển kỹ thuật dân dụng.

b. Kỹ thuật công nghiệp quốc phòng ứng dụng cho dân dụng.

Thứ nhất, kỹ thuật quân sự của Trung Quốc đã tiến rất xa trước kỹ thuật dân dụng. Kỹ thuật công nghiệp quốc phòng được ứng dụng cho kỹ thuật dân dụng có thể nhanh chóng nâng cao trình độ kỹ thuật dân dụng. Thứ hai, kỹ thuật công nghiệp quốc phòng ứng dụng cho kỹ thuật dân dụng có hiệu ứng kinh tế rõ rệt. Lấy ví dụ như hệ thống dẫn đường bằng vệ tinh Bắc Đẩu, ban đầu việc thiết lập hệ thống này là để phá vỡ cục diện độc quyền về thị trường dẫn đường trên thế giới và để ứng phó với nhu cầu thời chiến. Cùng với sự hoàn thiện hệ thống, đã từng bước mở cửa thị trường, căn cứ theo bài viết của giới quân sự trên “Nhân dân nhật báo”, sau khi hệ thống dẫn đường vệ tinh Bắc Đẩu mở rộng ứng dụng, hàng năm đã mang lại trăm tỷ nhân dân tệ.

Theo Sina (Trung Quốc)

Hoàng Lan (gt)