Dự báo toàn cầu: Điều hiển nhiên là sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ tiếp tục chi phối địa chính trị của châu Á. Người Trung Quốc nhìn nhận vấn đề này như thế nào? Các nước láng giềng của Trung Quốc có xem đó là điều không thể tránh được, vô hại hay đáng lo ngại? Đâu là điểm hội tụ lớn nhất trong quan điểm của người Trung Quốc với các nước láng giềng và đâu là điểm bất đồng lớn nhất? 

Christopher K. Johnson: Nếu ảnh hưởng về kinh tế, địa chính trị và quân sự của Trung Quốc tiếp tục gia tăng với tốc độ hiện nay trong vài thập kỷ tới, thế giới sẽ chứng kiến một sự thay đổi lớn nhất trong xếp hạng sức mạnh toàn cầu kể từ thời nước Mỹ nổi lên hồi cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Và nếu Trung Quốc trong vòng từ 10-15 năm nữa vượt qua Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, thì đó sẽ là lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ nước lãnh đạo kinh tế thế giới không nói tiếng Anh, không phải là một nước phương Tây và không phải là một nền dân chủ. Tất nhiên, có rất nhiều từ “nếu”. Giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải thể hiện đủ tầm nhìn xa trông rộng và sự linh hoạt để ứng phó với các mối lo ngại chiến thuật tức thì, trong khi vẫn luôn phải để tâm tới ván cờ địa chiến lược chính trị lâu dài của họ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cần phải chứng minh rằng sự trỗi dậy về kinh tế và chính trị của nước này sẽ bền vững trong 30 năm tới như những gì Trung Quốc đã làm được trong 1/3 thế kỷ vừa qua, cho dù nhiệm vụ mà Bắc Kinh đang phải đối mặt hiện nay, như điển hình là việc Trung Quốc chật vật duy trì tăng trưởng kinh tế, rõ ràng là phức tạp hơn nhiều so với trước đây. Giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải hoạch định một sách lược khả thi nhằm đưa sức mạnh và sự thịnh vượng ngày càng tăng của nước này đi theo hướng tạo điều kiện để Trung Quốc trở lại vị thế chi phối ở Đông Á mà không để xảy ra xung đột với các quốc gia láng giềng của họ, hoặc quan trọng hơn là xung đột với Mỹ. Về cơ bản, Bắc Kinh phải tìm được câu trả lời cho câu hỏi hóc búa là Trung Quốc muốn theo đuổi kiểu cường quốc gì, xét theo khía cạnh có hay không tuân thủ các luật chơi toàn cầu đã được thiết lập lâu nay đối với cuộc chơi mà nước này không tham gia định hình. Cách Trung Quốc khéo léo cân bằng giữa các lợi ích của một cường quốc và bản năng trở thành một cường quốc hung hăng hơn về cơ bản sẽ quyết định cách nước này tương tác với các nước láng giềng trong khu vực thời gian tới. 

Amy Searight: Các nước láng giềng của Trung Quốc ở Đông Nam Á coi sự trỗi dậy của nước này là không thể tránh được và cũng không thể thiếu đối với sự thịnh vượng về kinh tế của chính họ. Trung Quốc là động cơ tăng trưởng kinh tế của khu vực này trong mấy thập kỷ qua, và các nước Đông Nam Á đang tìm cách gắn kết vào sự phát triển của Trung Quốc, nắm lấy cơ hội trao đổi thương mại gia tăng và các liên kết đầu tư vốn đã biến Đông Nam Á thành một mạng lưới sản xuất ngày càng lớn của khu vực. Sự gia tăng của hoạt động sản xuất và tăng trưởng kinh tế nói chung đã giúp nhiều người dân Đông Nam Á thoát khỏi đói nghèo và tạo triển vọng kinh tế sáng sủa hơn cho nhiều quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên, song song với đó, sự quyết đoán và áp bức ngày càng lớn của Trung Quốc trong lĩnh vực biển và trên mặt trận ngoại giao cũng đang tạo ra sự lo lắng lớn ở khu vực này, cũng như tâm lý cảnh giác với tham vọng chiến lược của Bắc Kinh. Sự “trỗi dậy hòa bình” mà Trung Quốc tự tuyên bố không còn vô hại nữa với các nước láng giềng khi Trung Quốc “diễu võ giương oai” tại Biển Đông và tìm cách chia rẽ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong các vấn đề lớn. Đáp lại, nhiều nước ASEAN đang tìm cách cân bằng sự phụ thuộc về kinh tế vào Trung Quốc bằng các mối quan hệ an ninh mạnh mẽ hơn với Mỹ và các cường quốc khu vực khác như Nhật Bản, Ấn Độ hay Úc

Victor Cha: Tôi nghĩ nếu bạn tiến hành thăm dò các nhà lãnh đạo khu vực này (như CSIS đã làm), sẽ có 2 kết quả rõ ràng. Thứ nhất, mọi quốc gia trong khu vực đều biết rằng Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc chi phối khu vực này trong vòng 10 năm tới. Tuy nhiên, cũng chính những nước trên sẽ bỏ phiếu với kết quả khác khi được hỏi họ có thoải mái với một nước Trung Quốc là cường quốc chi phối hay không. Trên thực tế, thậm chí người Trung Quốc cũng không thoải mái với suy nghĩ đó. Vì lý do này, nhiều nước cảm thấy vai trò của Mỹ như một bên bình ổn và vai trò lãnh đạo chính trị của Mỹ là rất quan trọng đối với an ninh của họ. Tôi cho rằng điểm chung nhất là hội nhập kinh tế khu vực. Châu Á lâu nay vẫn thiếu kết dính như là một cộng đồng kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á giai đoạn 1997-1998 là hồi chuông cảnh tỉnh thật sự và Mỹ đã chứng kiến xu thế hội nhập ngày càng cao về thương mại và đầu tư kể từ thời điểm đó tới nay. Điểm khác biệt lớn nhất là những phản ứng về sự phát triển của Trung Quốc, vốn đang động chạm tới vấn đề chủ quyền của các nước khác, như Mỹ đang chứng kiến tại Biển Đông. 

Dự báo toàn cầu: Một số người tại Washington cho rằng Trung Quốc sẽ ngày càng quyết đoán hơn khi năng lực của nước này gia tăng và Bắc Kinh sẽ ngày càng xác định rõ các lợi ích phòng vệ của mình ở quy mô lớn hơn. Các ngài có đồng ý với nhận định này? Liệu có khả năng Trung Quốc sẽ sử dụng “lực đòn bẩy” ngày càng tăng của họ đối với Mỹ trong một số lĩnh vực nhất định hay không? 

Christopher K. Johnson: Tôi liên tiếp ngạc nhiên trước việc tâm lý lo ngại lại xuất hiện nhiều tới vậy tại Washington về vấn đề này. Tất nhiên, Trung Quốc sẽ ngày càng chủ động ở nước ngoài khi các lợi ích toàn cầu của nước này tăng lên - xét trên các lĩnh vực an ninh năng lượng, thương mại và đầu tư hoặc xu thế ngày càng rõ của cộng đồng quốc tế tìm kiếm sự can dự của Bắc Kinh vào việc giải quyết nhiều thách thức hiện nay của thế giới – đẩy Trung Quốc đi theo hướng này. Đây là một sự vận động hoàn toàn tự nhiên và nên được mong đợi thay vì lo ngại. Về việc ảnh hưởng toàn cầu gia tăng của Trung Quốc tác động như thế nào đối với quan hệ Mỹ-Trung, các thông số của thách thức chính sách đối với Washington vẫn vậy: khuyến khích Trung Quốc can dự vào trật tự toàn cầu dựa trên luật pháp, trong khi phòng ngừa cách hành xử của Trung Quốc mà có thể làm suy yếu trật tự này. Theo quan điểm của tôi, khó khăn nằm ở việc tính phức tạp trong nhiệm vụ mà các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải đối mặt đang ngày càng lớn vì quan hệ song phương Mỹ-Trung ngày càng phát triển đa chiều, trong khi các vấn đề chính sách đối ngoại cạnh tranh lẫn nhau cũng đang ngày càng tăng. Quan điểm của tôi là chính quyền sắp tới của Tổng thống Trump cần phải xem xét kỹ lưỡng cách tiếp cận mà Washington muốn áp dụng đối với quan hệ Mỹ-Trung, với trọng tâm đặc biệt là các cơ chế cơ bản của cách thức Mỹ can dự trong bối cảnh Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang định hình lại hệ thống chính sách và việc thực hành tại Trung Quốc. Điều này là đặc biệt cần thiết khi ngay cả các điểm hội tụ truyền thống của quan hệ song phương, như quan hệ thương mại và kinh tế, sẽ phát triển theo xu thế ngày càng cạnh tranh. 

Amy Searight: Bản chất tự nhiên của một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc, với quyền lợi toàn cầu và khu vực ngày càng tăng, là xác định các lợi ích trên quy mô lớn hơn và tích cực can dự hơn vào những lĩnh vực như quốc phòng, ngoại giao và triển khai sức mạnh. Chương trình hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc là một ví dụ. Khi giao dịch thương mại toàn cầu và sự phụ thuộc vào tài nguyên của Trung Quốc tăng lên, nước này ngày càng quan tâm tới việc xây dựng năng lực bảo vệ các tuyến đường giao thương huyết mạch mà không dựa vào Hải quân Mỹ. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đầu tư mạnh cho hải quân và biến hải quân nước này từ một lực lượng ven bờ thành một lực lượng hải quân viễn dương, có khả năng thực hiện các chiến dịch trên khắp các đại dương thế giới. Trung Quốc đang vận dụng năng lực hải quân mới của nước này để tạo dựng sức ảnh hưởng đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương và xa hơn nữa, đồng thời đóng góp vào các nỗ lực an ninh hàng hải toàn cầu, đáng chú ý nhất là những đóng góp thường xuyên của nước này vào các chiến dịch chống cướp biển quốc tế tại vùng Sừng châu Phi kể từ năm 2008. Hải quân Trung Quốc cũng ngày càng tích cực hơn trong các sứ mệnh nhân đạo, hàng năm triển khai tàu quân y viện Peace Ark trong thời gian lâu hơn và ở những nơi xa hơn. Chống cướp biển và cứu trợ nhân đạo là 2 lĩnh vực mà Mỹ và Trung Quốc đã hợp tác với nhau thông qua các chuyến giao lưu và diễn tập hải quân, đồng thời cũng có một số lĩnh vực hợp tác tiềm tàng khác như đảm bảo an toàn hàng hải và giảm thiểu rủi ro. Ở quy mô lớn hơn, khi các lợi ích của Mỹ và Trung Quốc song hành, Mỹ có thể chờ đợi hai nước mở rộng hợp tác giữa quân đội 2 nước. Mặt khác, nơi những lợi ích có sự mâu thuẫn, như các chiến dịch tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông, Mỹ có thể sẽ chứng kiến xích mích gia tăng. 

Victor Cha: Tôi cho rằng hầu hết những người ở Washington đều có chung một đánh giá về sức mạnh và các ý đồ của Trung Quốc. Điều này không phải vì Trung Quốc là một nước cộng sản, mà bởi vì Trung Quốc đang hành xử giống như những siêu cường hùng mạnh nhất từng làm trong lịch sử sau khi họ trỗi dậy. Do đó, sẽ có xung đột và cạnh tranh một cách tự nhiên nảy sinh giữa cường quốc đang trỗi dậy này với bên bá chủ (Mỹ) trong 2 thập kỷ tới. Điểm mấu chốt đối với các nhà hoạch định chính sách là phải đảm bảo rằng sự cạnh tranh đó không biến thành xung đột quân sự. Những lĩnh vực có chung mục đích lớn nhất giữa một nước Trung Quốc đang trỗi dậy và Mỹ có thể là những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, chứ không phải các vấn đề khu vực. 

Dự báo toàn cầu: Các ngài gì về ván cờ lâu dài của Trung Quốc ở Biển Đông, và Mỹ có thể làm gì hơn nữa để đảm bảo quyền tự do hàng hải ở khu vực này trong tương lai? 

Amy Searight: Khi Trung Quốc ngày càng có những hành động quyết đoán tại Biển Đông – xây dựng các đảo nhân tạo và biến chúng thành những tiền đồn quân sự, đe dọa các nước láng giềng và quấy rối tàu thuyền Mỹ - một điều trở nên khá rõ ràng đó là tham vọng từ lâu của Bắc Kinh hòng kiểm soát Biển Đông. Việc kiểm soát tuyến hàng hải huyết mạch và các cấu trúc địa hình ở Biển Đông sẽ giành được các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ nhu cầu sử dụng của riêng Trung Quốc, đồng thời cung cấp an ninh cho các cách tiếp cận hàng hải đối với nước này, giúp Trung Quốc có thể ngăn cản sự tiếp cận của các lực lượng đối địch trong trường hợp xảy ra xung đột. Động thái này cũng sẽ tiến một bước dài tiến tới khôi phục một trật tự khu vực do Trung Quốc đóng vai trò trung tâm, đặc điểm dễ nhận thấy trong trí tưởng tượng của người Trung Quốc, cũng như góp phần duy trì tính hợp pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Dù Trung Quốc không thể ngăn cản tự do hàng hải thương mại quốc tế trong thời bình, song những thách thức mà nước này đặt ra đối với tự do hàng hải và hàng không quân sự, cùng với đó là nỗ lực của Bắc Kinh thực thi quyền tài phán đối với các khu vực tranh chấp, sẽ tiếp tục và có thể còn gia tăng một khi năng lực của nước này lớn mạnh hơn. 

Các chính sách gần đây của Mỹ, bao gồm việc tiến hành các hoạt động hiện diện thường xuyên và các hoạt động trong khuôn khổ Chương trình Tự do Hàng hải, có lẽ là đủ để đảm bảo quyền tự do hàng hải của Mỹ trong thời bình. Vấn đề quan trọng là duy trì được điều này và thể hiện được sự quyết tâm. Ví dụ, Các chiến dịch Tự do Hàng hải (FONOP) nên được tiến hành một cách đều đặn, thách thức các tuyên bố chủ quyền thái quá của cả Trung Quốc và các bên tuyên bố chủ quyền khác. FONOP không nên được tiến hành “lúc bổng, lúc trầm” phụ thuộc vào những toan tính chính trị, mà nên được vận dụng nhằm thiết lập một kênh truyền đạt thông tin chuẩn về sự phản đối của Mỹ đối với các tuyên bố chủ quyền thái quá và quyết tâm của Washington thực thi đầy đủ các quyền và quyền tự do hàng hải. Việc đảm bảo hoạt động tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông trong trường hợp xảy ra xung đột sẽ ngày một khó khăn do năng lực quân sự của Trung Quốc đang tăng lên. Duy trì khả năng răn đe bằng cách đưa vào các năng lực tối tân của Mỹ, phát triển các khái niệm tác chiến mới, đồng thời đảm bảo sự hiện diện của Mỹ với tư thế một lực lượng mạnh và có thể chống đỡ, sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc ngăn chặn xung đột và tránh được một cuộc chiến “hao tiền tốn của” nhằm giành lại quyền tiếp cận Biển Đông. 

Victor Cha: Một học giả mới đây viết rằng Biển Đông đối với Trung Quốc giống như biển Caribbean đối với một nước Mỹ non trẻ 2 thế kỷ trước. Chiến lược khẩn cấp của Mỹ là loại bỏ mọi cường quốc châu Âu khỏi các vùng biển xung quanh. Có lẽ đó cũng là điều Trung Quốc đang nghĩ về Biển Đông. Tuy nhiên, thời điểm là khác nhau. Giá trị thương mại của đồng USD chảy qua các vùng biển này là vô cùng lớn. Và các quốc gia trong khu vực không thoải mái trước tình trạng bị các tàu Trung Quốc quấy rối hoặc việc Trung Quốc tuyên bố lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông. Thế “tiến thoái lưỡng nan” đối với Mỹ là làm thế nào để ngăn chặn Trung Quốc tiếp tục xây dựng và cải tạo đất đá ở Biển Đông khi các đá, đá ngầm và đảo ở vùng biển này không thể được nhìn nhận là lợi ích quốc gia của Mỹ. Xây dựng năng lực cho các quốc gia nhỏ hơn trong khu vực có ý nghĩa quan trọng, song có lẽ quan trọng nhất là Trung Quốc và khu vực chứng kiến sự hiện diện của Mỹ tại đây. Điều đó đồng nghĩa với việc các hoạt động hải quân và FONOP sẽ diễn ra với nhịp độ thường xuyên, mà không cần thiết phải phô trương hay cần tình huống nào đó. Kín đáo nhưng thận trọng thể hiện khả năng của Hải quân Mỹ là cách tốt nhất để thực hiện điều này. 

Christopher K. Johnson: Trong nhiều trường hợp, quá dễ dàng để Mỹ tập trung vào các diễn biến mới trên một hòn đảo hay thực thể đất đá cụ thể và không nhận ra rằng tất cả những diễn biến này nên được nhìn nhận trong bối cảnh của một chiến lược biển toàn diện mà Trung Quốc đã thẳng thắn phát đi tín hiệu rằng nước này sẽ thực thi kể từ Đại hội toàn quốc lần thứ 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2012. Sự chuyển hướng của Trung Quốc trở nên quyết đoán hơn trong tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông dường như bắt nguồn từ hai động cơ chính, một mang tính chiến thuật và một mang tính chiến lược hơn. Về chiến thuật, sự tích cực của Bắc Kinh phản ánh đánh giá của Trung Quốc rằng nước này đã để mất cơ sở vững chắc trước các đối thủ tuyên bố chủ quyền trong một quãng thời gian dài (1996-2008) Trung Quốc bối rối xử lý những căng thẳng leo thang giữa hai bờ Eo biển Đài Loan. Mở rộng hơn, cách tiếp cận của Trung Quốc phản ánh sự quan tâm của nước này trong việc phát triển chiều sâu chiến lược hàng hải hơn trong bối cảnh các lợi ích của Trung Quốc đang phát triển ra ngoài phạm vi bờ biển nước này. Về hiệu quả, Trung Quốc coi những hoạt động của mình ở Biển Đông là một phần nỗ lực phát đi tín hiệu tới các nước láng giềng, và cả Mỹ, rằng các lực lượng của Trung Quốc có ý định hoạt động vào những thời điểm mà họ lựa chọn, và có lẽ bên ngoài chuỗi đảo thứ 2 và xa hơn nữa là khu vực Tây Thái Bình Dương. 

Dự báo toàn cầu: Liệu Trung Quốc có là một đồng minh đáng tin cậy trong mong muốn của Mỹ khuyến khích một nước Triều Tiên có thể dự đoán và ổn định hay không? Lực đòn bẩy nào Trung Quốc thật sự đang giữ đối với Triều Tiên và trong những hoàn cảnh nào thì họ sẽ sẵn sàng sử dụng nó? 

Victor Cha: Với bất kỳ tham số nào, tương lai của Trung Quốc trên Bán đảo Triều Tiên là với Hàn Quốc, chứ không phải với Triều Tiên. Hoạt động kinh tế hàng năm của Trung Quốc với Hàn Quốc lớn hơn khoảng 200 lần so với Triều Tiên. Dù Trung Quốc có nhiều lợi ích kinh tế và chính trị từ mối quan hệ với một nền dân chủ công nghiệp hóa tiên tiến tại Hàn Quốc, song Bắc Kinh cũng “ném tiền qua cửa sổ” vào việc hỗ trợ chế độ đồng bóng Kim ở Triều Tiên. Không ít người đã nhiều lần hy vọng rằng Trung Quốc sẽ chọn trút bỏ gánh nặng trên vai này, song cộng đồng quốc tế cũng ngần ấy lần thất vọng. Mỹ nên tiếp tục gây sức ép, thuyết phục và hối thúc Trung Quốc thể hiện một lập trường có trách nhiệm hơn trong mối quan hệ của nước này với Triều Tiên, nhưng Mỹ đồng thời cũng không nên phó mặc chính sách vốn là mối đe dọa nghiệm trọng tới an ninh quốc gia của Mỹ này cho một cường quốc cạnh tranh lớn. 

Christopher K. Johnson: Sẽ là sai lầm nếu xem Trung Quốc là một đồng minh trong nỗ lực đối phó với Triều Tiên. Trung Quốc có thể là một đối tác, một đối tác khá hiệu quả, của Mỹ trong một số lĩnh vực nơi lợi ích của hai bên trên Bán đảo Triều Tiên trùng khớp. Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Dù Trung Quốc có nắm trong tay lực đòn bẩy tuyệt vời đối với Bình Nhưỡng trong các lĩnh vực như lương thực, năng lượng và viện trợ, thì Bắc Kinh vẫn chưa sẵn sàng sử dụng lực đòn bẩy này. Lo sợ của người Trung Quốc về một sự sụp đổ chế độ tại Bình Nhưỡng, điều sẽ tạo ra làn sóng người tị nạn tràn vào miền Đông Bắc Trung Quốc, và những quan niệm được cho là lỗi thời về giá trị chiến lược của Triều Tiên như là một “vùng đệm” trước mối đe dọa từ các lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc, dường như đang khiến Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc không nhận ra rằng những tiến bộ của Bình Nhưỡng trong chương trình tên lửa đạn đạo và hạt nhân đang ảnh hưởng như thế nào tới nhu cầu chiến lược của Mỹ buộc Triều Tiên phải thay đổi. Trên thực tế, việc giới lãnh đạo Trung Quốc không sẵn lòng gây sức ép đối với đồng minh xưa cũ này một phần có lẽ bắt nguồn từ việc không hiểu rõ bản chất của điều thật sự đang diễn ra bên trong Chính quyền Kim. Như vậy, Washington có lẽ phải dựa vào các biện pháp đơn phương để xử lý vấn đề hạt nhân Triều Tiên. 

Dự báo toàn cầu: Theo ông, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình muốn được nhớ tới như thế nào? Đâu là những di sản của ông ấy? Ông có cho rằng quan điểm của Tập Cận Bình về “sự lãnh đạo của Mỹ” giống người Mỹ? 

Christopher K. Johnson: Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khá dứt khoát trong việc đề ra các mục tiêu hàng đầu cho nhiệm kỳ của ông ấy. Các khái niệm như là “Giấc mộng Trung Hoa”, “sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc Trung Hoa” và “các mục tiêu hai thế kỷ” có vẻ nghe như là những khẩu hiệu Marxist trong mắt thế giới phương Tây, song do đây là ngôn từ được ông Tập Cận Bình lựa chọn để truyền tải tới các đồng sự trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, người Mỹ đã liều lĩnh gạt bỏ nó. 

Sự đổi mới của ông Tập Cận Bình với những khái niệm này chính là lập luận của ông cho rằng tập hợp tất cả những thành tố cơ bản trong nghệ thuật lãnh đạo của Trung Quốc là hiện thực hóa một tương lai vào thời điểm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) đến năm 2049 có ý định khôi phục vị thế vượt trội trong khu vực. Không giống các cương lĩnh chính sách của các chính đảng phương Tây, nơi hầu như không có mục tiêu tuyên bố nào cuối cùng sẽ được hoàn thành, Đảng Cộng sản Trung Quốc coi những tuyên bố chính thức của mình là các tiêu chuẩn chiến lược cần phải đạt được nhằm thúc đẩy và duy trì tính hợp pháp của đảng cộng sản Trung Quốc. Như vậy, Mỹ có thể chứng kiến Tập Cận Bình sẵn sàng tung vốn chính trị, cả ở trong nước lẫn trên trường quốc tế, nhằm cố gắng đạt được các mục tiêu của mình. 

Về vấn đề “vai trò lãnh đạo của Mỹ”, dù trong khu vực hay trên phạm vi toàn cầu, Tập Cận Bình sẽ coi sức mạnh của Mỹ là một sự kìm hãm nhỏ hơn đối với việc thực thi ảnh hưởng của Bắc Kinh so với các nhà lãnh đạo trước đây. Trên thực tế, các mối quan hệ với Mỹ, vẫn xứng đáng có một cấp bậc cao trong hệ thống các mối quan hệ đối ngoại của Bắc Kinh, dường như ít gây lo lắng cho Chủ tịch Tập Cận Bình hơn so với các nhà lãnh đạo tiền nhiệm. Thực tế này không đồng nghĩa với việc ông Tập Cận Bình không khao khát các mối quan hệ ổn định và mạnh mẽ với Mỹ. Thay vào đó, ông Tập Cận Bình có vẻ ưa thích một cách tiếp cận tự nhiên hơn trong vai trò người lãnh đạo không có vẻ nhiệt tình và sức lôi cuốn mạnh mẽ, vốn là những nét tiêu biểu trong chính sách của các nhà lãnh đạo tiền nhiệm như Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân. Cái nhìn ít lo sợ hơn về sức mạnh của Mỹ này giúp ông Tập Cận Bình có được sức chịu đựng lớn hơn trước rủi ro và có tác dụng quan trọng là giúp ông có được niềm tin lớn hơn để lôi kéo các đối tác nước ngoài quan trọng khác của Trung Quốc, thay vì chỉ theo đuổi một trọng tâm duy nhất là Mỹ.

Theo Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS), Mỹ. Bài phỏng vấn nằm trong loạt bài Dự báo toàn cầu năm 2017 của CSIS.

Trần Quang (gt)