Trung Quốc đang trở thành một lực lượng quân sự đáng gờm ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Mỹ nên phản ứng như thế nào?

 

35 năm trước đây Đặng Tiểu Bình đã phê phán Quân giải phóng nhân dân (PLA) là “phô trương, kỷ luật lỏng lẻo, tự phụ, hoang phí và trì trệ”. Ngay dù vậy, 3 năm sau, khi ông bắt đầu hiện đại hóa Trung Quốc, ông vẫn đặt PLA vào vị trí ưu tiên cuối cùng, sau nông nghiệp, công nghiệp và khoa học. Và khi vị tư lệnh hải quân vào năm 1982 sắp đặt các kế hoạch nhằm đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc biển của thế giới, ông đã không mong đợi mục tiêu của ông trở thành hiện thực trước năm 2040.

 

Sau đó, công cuộc hiện đại hóa quân đội trở nên còn hơn cả một sự ưu tiên, nhờ vào hai cuộc trình diễn hỏa lực của Mỹ. Lần đầu, việc Mỹ sử dụng các vũ khí chính xác trong chiến dịch Bão táp Sa mạc trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất đã thuyết phục Trung Quốc rằng họ không thể để sự phòng thủ của mình dựa vào số đông nữa. Lần thứ hai, khi PLA uy hiếp Đài Loan bằng các vụ thử tên lửa vào năm 1996, Tổng thống Bill Clinton đã ra lệnh cho hai nhóm tàu sân bay tiến vào khu vực này, một trong số đó do chiến hạm mang tên đầy kích động USS Independence (Độc lập) dẫn đầu. Trung Quốc đã phải chùn bước.

 

Sự sụp đổ của Liên Xô đã thuyết phục các nhà lãnh đạo của Trung Quốc rằng một cuộc chạy đua vũ trang với siêu cường duy nhất của thế giới có thể lãng phí tiền của đủ để gây ra một mối đe dọa đối với sự kiểm soát của đảng. Thay vào đó, Trung Quốc đặt nỗ lực của mình vào các vũ khí “không đối xứng” có thể đáp ứng được.

 

Chiến lược không chính thống này đã làm cho khó đánh giá hơn sự tiến bộ của PLA. Dư luận phương Tây bị chia rẽ sâu sắc. Các nhà phân tích quân sự báo động về cái mà họ xem là mối đe dọa đang gia tăng đối với uy thế trên biển của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Các chuyên gia an ninh của Trung Quốc có xu hướng chế giễu tất cả các tin đồn nhảm. Ai là người đúng?

 

Nổi bật là ba lĩnh vực hiện đại hóa của PLA. Trước hết, Trung Quốc đã tạo ra cái mà Lầu Năm Góc gọi là “chương trình tên lửa đạn đạo và hành trình trên mặt đất năng động nhất trên thế giới”. Lực lượng Pháo binh 2 có khoảng 1.100 tên lửa đạn đạo tầm ngắn chĩa vào Đài Loan và đang mở rộng tầm bắn và cải thiện độ chính xác và trọng tải của chúng. Lực lượng Pháo binh 2 cũng đang cải thiện các tên lửa đạn đạo tầm trung, có thể mang được các đầu đạn thường hoặc đầu đạn hạt nhân. PLA đã triển khai vài trăm tên lửa hành trình tầm xa phóng từ không trung hoặc từ mặt đất. Và họ đang phát triển tên lửa đạn đạo chống tàu chiến đầu tiên của thế giới, gắn vào thiết bị đẩy nhằm tăng thêm độ nguy hiểm.

 

Thứ hai, Trung Quốc đã chuyển đổi và mở rộng hạm đội tàu ngầm của mình, hiện nay có thể thả neo ở một căn cứ mới được hoàn thành trên đảo Hải Nam, ở ngoài khơi bờ biển phía Nam Trung Quốc. Trong 8 năm tính đến năm 2002, Trung Quốc đã mua 12 tàu ngầm lớp Kilo của Nga, một sự cải thiện lớn so với các tàu ngầm tự chế tạo kêu ồn ào lớp Ming và lớp Romeo. Kể từ đó, Hải quân của PLA đã giới thiệu các thiết kế tàu ngầm của Trung Quốc với tầm hoạt động xa hơn và khó lộ hơn, kể cả tàu ngầm lớp Tấn chạy bằng năng lượng hạt nhân mang các tên lửa đạn đạo, và một tàu ngầm tấn công lớp Thượng chạy bằng năng lượng hạt nhân. Trung Quốc có khoảng 66 tàu ngầm so với 71 tàu ngầm của Mỹ, cho dù tàu của Mỹ ưu việt hơn. Theo Kokoda Foundation, một tổ chức tư vấn của Ôxtrâylia, vào năm 2030, Trung Quốc có thể có tới 85-100 tàu ngầm.

 

Và thứ ba, Trung Quốc tập trung vào cái mà họ gọi là “sự thông tin hóa”, một từ khó đọc mà Giang Trạch Dân đã tạo ra vào năm 2002 để miêu tả PLA cần làm thế nào có thể hoạt động với tư cách là lực lượng duy nhất, sử dụng các thiết bị cảm biến, thông tin liên lạc và điện tử và chiến tranh mạng. Trung Quốc hiện nay biết rõ những gì đang diễn ra ở xa tận vùng Thái Bình Dương, nhờ vào sự kết hợp các vệ tinh, các ra đa vượt đường chân trời, các ra đa sóng bề mặt tầm trung, các máy bay thám thính không người lái và các giàn cảm biến dưới nước.

 

Trung Quốc cũng đang chế tạo các vũ khí chống vệ tinh. Các vệ tinh của Mỹ đã bị “làm chói mắt” bởi các tia lade từ mặt đất. Và vào năm 2007, một tên lửa đạn đạo phóng từ Trung tâm vũ trụ Tây Xương ở tỉnh Tứ Xuyên đã làm nổ tung một vệ tinh dự báo thời tiết – một thành tựu nổi bật, cho dù các nước khác tức giận bởi vì việc làm này đã tạo ra hơn 35.000 mảnh rác vũ trụ.

 

Các tin tặc của Trung Quốc cũng bận rộn. Vào tháng 3/2009, các nhà nghiên cứu của Canađa đã phát hiện ra một mạng lưới do thám gồm hơn 1.300 máy tính, nhiều máy trong số đó là ở Trung Quốc, đã xâm nhập các hệ thống của chính phủ. Theo Northrop Grumman, một nhà thầu quốc phòng của Mỹ, các mục tiêu Đài Loan và phương Tây đã phải chịu các cuộc tấn công mạng nghiêm trọng của Trung Quốc ít nhất là 35 lần trong thập kỷ cho đến năm 2009. Lầu Năm Góc thừa nhận rằng họ không chắc chắn rằng PLA đứng đằng sau các vụ tấn công như vậy, nhưng lập luận rằng các nhà phân tích “có thẩm quyền” trong PLA coi chiến tranh mạng là quan trọng.

 

Kho vũ khí mới

 

Việc này chung quy gì? Các chuyên gia quân sự ở Mỹ, Ôxtrâylia và Nhật Bản cho rằng các kho vũ khí mới của Trung Quốc là một mối đe dọa còn lớn hơn các kế hoạch nổi bật hơn như hạ thủy các tàu sân bay vào thập kỷ tới. Alan Dupon thuộc Trường Đại học Sydney ở Ôxtrâylia, nói rằng “các tên lửa và các vũ khí mạng đang trở thành các vũ khí lựa chọn cho những nước thua kém về vũ khí thông thường”.

 

Theo Trung tâm Đánh giá chiến lược và ngân sách (CSBA), một viện nghiên cứu của Mỹ, hỏa lực của Trung Quốc đang đe dọa các căn cứ châu Á của Mỹ, mà cho tới hiện nay vẫn an toàn trước mọi cuộc tấn công trừ cuộc tấn công bằng hạt nhân. Các tên lửa của Lực lượng Pháo binh 2 có thể làm mất tác dụng hệ thống phòng thủ của các căn cứ và phá hủy các đường băng cũng như một số lượng lớn các máy bay chiến đấu và các chiến hạm. Nhật Bản đã nằm trong tầm ngắm của các tên lửa của Trung Quốc, nhiều trong số chúng hiện nay đang chĩa vào Đài Loan. Đảo Guam cũng sẽ sớm trở thành mục tiêu của Trung Quốc.

 

Các tàu ngầm, tên lửa và các tên lửa hành trình chống tàu chiến đe dọa các nhóm tàu sân bay của Mỹ trong vòng 1.000 đến 1.600 hải lý tính từ bờ biển của Trung Quốc. Theo Ross Babbage, một nhà phân tích quốc phòng của Ôxtrâylia và là nhà sáng lập Tổ chức Kokoda Foundation, nếu Trung Quốc có tên lửa đạn đạo chống tàu chiến, bay nhanh và không báo trước nhiều, thì thậm chí còn khó phòng ngự hơn. Các vũ khí không gian và các vũ khí mạng của Trung Quốc có thể phục vụ như cái mà các nhà lập kế hoạch Trung Quốc gọi là “chùy sát thủ” trong một đòn tấn công bất ngờ được hoạch định nhằm đập tan các mạng lưới điện tử tinh vi nhưng mong manh của Mỹ. Điều đó có thể làm cho các lực lượng của Mỹ nửa mù nửa điếc và các căn cứ và các tàu sân bay còn dễ bị tổn hại hơn.

 

Nói tóm lại, các khả năng tấn công của Trung Quốc đã tiến xa hơn là việc tìm cách ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ vào bất cứ cuộc tranh chấp nào trong tương lai giữa Đại lục Trung Quốc và Đài Loan. Ngày nay, Trung Quốc có thể triển khai sức mạnh ra bên ngoài bờ biển của mình vượt quá giới hạn 12 dặm (19km) mà Mỹ đã một thời tiếp cận mà không dè chừng. Ông Okamoto, một chuyên gia an ninh của Nhật Bản, tin rằng chiến lược của Trung Quốc là nhằm có được “sự kiểm soát hoàn toàn” cái mà các nhà lập kế hoạch gọi là Chuỗi đảo thứ nhất. Cuối cùng, dường như Trung Quốc muốn ngăn chặn khả năng của hạm đội Mỹ đảm bảo các lợi ích của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.

 

Các quan chức cấp cao nhất của Mỹ đã lưu ý vấn đề này. Năm 2008, Robert Gates, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, đã đưa ra cảnh báo rằng “các khoản đầu tư (của các nước như Trung Quốc) vào chiến tranh mạng và chiến tranh chống vệ tinh, vũ khí phòng không và chống chiến hạm và các tên lửa đạn đạo có thể đe dọa con đường chính của Mỹ triển khai sức mạnh và giúp các đồng minh ở Thái Bình Dương – đặc biệt là các căn cứ tiền phương và các nhóm tàu sân bay của chúng ta”.

 

Ông Babbage thì thẳng thừng hơn: “Việc lên kế hoạch phòng thủ hiện nay là vô giá trị”. Ông và các nhà phân tích tại CSBA lập luận rằng Mỹ cần phải suy nghĩ lại chiến lược của mình ở Thái Bình Dương. Mỹ cần phải củng cố các căn cứ của mình và có thể phá vỡ các cuộc tấn công của Trung Quốc bằng các thiết bị nghi trang và bằng việc phân tán các máy bay và các tàu chiến xung quanh khu vực này. Các lực lượng của Mỹ cần phải có công tác hậu cần tốt hơn và có thể chiến đấu ngay cả khi các mạng lưới thông tin của họ bị suy yếu. Quan trọng nhất là họ phải ở vị thế vô hiệu hóa thiết bị do thám, theo dõi điện tử, và đánh giá tổn thất chiến trường của Trung Quốc, một số trong đó được bảo vệ bởi hệ thống các đường hầm dễ dàng nằm ngoài tầm các vũ khí của Mỹ.

 

Thái Bình Dương chỉ trên danh nghĩa

 

Những người chỉ trích nói rằng các chiến binh thời Chiến tranh Lạnh đang phải chịu “hội chứng mất kẻ thù” tồi tệ. Ngay từ đầu, ấn tượng rằng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc tăng vọt là sai lầm. Một cách rõ ràng, ngân sách của PLA giữ cùng nhịp độ với GDP trong thập kỷ trước, sau 2 thập kỷ phần của nó trong GDP giảm. Các chuyên gia bất đồng ý kiến về quy mô ngân sách quốc phòng của Trung Quốc, mà chỉ được tiết lộ một phần. Sam Perlo Freeman thuộc Viện Nghiên cứu hòa bình thế giới ở Stockhom cho rằng tổng chi tiêu quốc phòng vào năm 2009 là 99 tỷ USD (tính theo tỷ giá USD năm 2008), cho dù một số ước tính cao hơn và con số chính thức chỉ là 70 tỷ USD. Mỹ đang dự định chi 663 tỷ USD. Như một phần của GDP, Trung Quốc chi tiêu chưa đầy 1/2 con số này của Mỹ và ít hơn họ đã chi tiêu vào đầu những năm 1990. Ông PerloFreeman nói: “Không có nhiều lắm bằng chứng cho thấy một cuộc chạy đua vũ trang”.

 

Một số người nghi ngờ về chất lượng của trang thiết bị của Trung Quốc. Một đô đốc hải quân Mỹ đã về hưu nói rằng phần lớn các trang thiết bị mà họ mua từ Nga là “đồ bỏ đi”. Bất chấp sự tiến bộ, Trung Quốc bị tụt hậu về sự chỉ dẫn và kiểm soát, các động cơ tuốcbin, các dụng cụ máy móc, phương tiện chẩn đoán và nhận diện và việc thiết kế và sản xuất có sự hỗ trợ của máy tính. Giáo sư Dupont nói rằng “Trung Quốc đã có bước tiến xa nhanh chóng nhưng việc hiện đại hóa quân đội trở nên khó khăn hơn từ nay về sau”.

 

Một số người cũng hoài nghi về nhân lực của Trung Quốc. PLA hiện nay chuyên nghiệp hơn rất nhiều so với khi nó là một đội quân nông dân, nhưng thiếu kinh nghiệm. Nigel Inkster thuộc Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS), nhớ lại một trong những người sáng lập ra hải quân Trung Quốc đã từng nói với ông: “Không phải là tôi không thạo lái tàu mà là tôi chưa bao giờ được nhìn thấy biển”.

 

Các vấn đề phức tạp như chiến tranh tàu ngầm phải mất nhiều năm để có thể nắm vững. Christian Le Mière thuộc IISS nói: “Nếu bạn chiến đấu, sẽ có những lỗ hổng. Và cho tới khi bạn thực sự chiến đấu bạn sẽ không biết được chúng ở đâu”. Vị đô đốc hải quân đã về hưu cho rằng các lực lượng của Trung Quốc thiếu tin tưởng, điều có thể làm họ phản ứng chậm lại trong trận chiến. Ông nói: “Chúng ta trao cho người của chúng ta trách nhiệm và sự chủ động. Đối với họ thì đó là một sự nguyền rủa”.

 

Robert Ross, một giáo sư tại Harvard, lập luận rằng những người bi quan đánh giá quá cao mối đe dọa của Trung Quốc và đánh giá thấp sức mạnh của Mỹ. Mỹ có thể theo dõi các tàu ngầm của đối phương một cách tốt hơn; vượt trội hơn về chiến tranh mạng và ít bị tổn hại hơn Trung Quốc trong không gian – chỉ vì Mỹ thu gọn kết cấu. Trung Quốc sẽ gặp khó khăn để phát hiện và thâm nhập các biện pháp trả đũa và thiết bị ngụy trang điện tử bảo vệ các con tàu của Mỹ. Carlyle Thayer thuộc Học viện lực lượng quốc phòng của Ôxtrâylia lưu ý rằng Mỹ đã triển khai 31 trong số 53 tàu ngầm tấn công thần tốc và 3 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Ohio đến Thái Bình Dương.

 

Mặc dù những điều không chắc chắn trong cuộc tranh cãi này, có 3 điều không cần tranh cãi. Trước hết, Trung Quốc đã buộc các tàu của Mỹ phải suy tính về làm thế nào và khi nào có thể tiếp cận bờ biển của Trung Quốc. Các tàu của Mỹ càng đến gần thì họ càng phải đối mặt với nhiều tên lửa và tàu ngầm và họ càng có ít thời gian để trả đũa một đòn tấn công. Bất cứ ai vận hành một tàu sân bay trị giá 15-20 tỷ USD cùng với một thủy thủ đoàn gồm 6.000 người sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng về việc chấp nhận thêm mạo hiểm. Để phủ nhận quyền sở hữu các biển mà Mỹ đã thống trị trong nhiều thập kỷ, Trung Quốc không cần phải kiểm soát các vùng lãnh hải của mình, họ chỉ phải cần có khả năng đe dọa các tàu của Mỹ ở đó. Hugh White, một quan chức an ninh và quốc phòng của Ôxtrâylia trước đây, dự đoán Tây Thái Bình Dương sẽ trở thành “một khu vực hải quân không được qua lại”.

 

Thứ hai, năng lực triển khai sức mạnh của Trung Quốc đang tiến bộ dần. Các tàu ngầm, máy bay chiến đấu, tên lửa và chiến tranh mạng và chiến tranh điện tử của Trung Quốc đã từng yếu kém, hiện nay trở thành một mối đe dọa. Các vũ khí của Trung Quốc sẽ tiếp tục cải thiện và các lực lượng của nước này sẽ tích lũy thêm kinh nghiệm. Miễn là nền kinh tế không đình trệ, thì ngân sách cũng sẽ tăng, theo mức tuyệt đối và có thể theo tỷ lệ của GDP. Nếu những điều khác như nhau thì Trung Quốc có thể triển khai sức mạnh vào sân sau của mình một cách dễ dàng hơn Mỹ triển khai sức mạnh của họ qua biển Thái Bình Dương. Điều đang bị đe dọa là cái mà ông Gates đã gọi là “nơi lưu trú an toàn cho hoạt động mà hải quân của chúng ta đã có ở Tây Thái Bình Dương trong hầu hết 6 thập kỷ qua”.

 

Thứ ba, mặc dù Mỹ có thể trả đũa Trung Quốc, họ sẽ phải vượt qua trước hết là một số trở ngại. Chi tiêu quân sự của Mỹ ở châu Á bị lấn át bởi sự cần thiết phải cắt giảm toàn bộ chi tiêu chính phủ và bởi các ưu tiên quân sự khác, như Ápganixtan. Jonathan Pollack thuộc Viện Brookings chỉ ra rằng một số ý tưởng, như thay thế các tàu sân bay bằng nhiều tàu ngầm hơn nữa, không thể tránh khỏi sẽ gặp phải sự phản đối từ hải quân và từ các chính trị gia muốn bảo vệ quyền lợi các cử tri của họ. Ông nói: “Đối với nhiều sĩ quan, nét riêng biệt cốt lõi chính thức của hải quân được gắn chặt với các tàu sân bay và nhiệm vụ triển khai sức mạnh mà chúng thực hiện. Việc giảm bớt số lượng chúng sẽ là một quá trình đầy đau đớn”. Hơn hết, những sự thay đổi lớn trong việc đặt kế hoạch quân sự phải mất nhiều thập kỷ: hiện nay, Mỹ cần phải nghĩ về Trung Quốc vào năm 2025.

 

Tất cả những điều này hướng đến một nguyên tắc quan trọng. Việc hoạch định quân sự được hình thành một cách khác so với ngoại giao. Các nhà ngoại giao quan tâm đến những gì họ cho là các nhà nước có ý định thực hiện, nhưng các nhà hoạch định quân sự phải làm việc với những gì mà họ nghĩ rằng nhà nước có thể thực hiện. Các ý định thay đổi và các nhà nước có thể đi sai đường. Nếu anh được giao trách nhiệm bảo vệ quốc gia mình thì anh cần phải có khả năng đối mặt với ngay cả những mối đe dọa khó có thể xảy ra.

 

Lô gích đó cũng phù hợp với Trung Quốc. Mỹ không e ngại tham chiến trong những năm gần đây. Cách đây không lâu, một đô đốc hải quân đã nghỉ hưu của Trung Quốc đã ví Hải quân Mỹ như một kẻ có tiền án “lai vãng ngoài cổng nhà người khác”. Sức mạnh của Mỹ vào những năm 1990 đã làm cho Trung Quốc cảm thấy bất an, chính vì vậy họ đã chuyển đổi PLA nhằm hỗ trợ chính sách của họ về vấn đề Đài Loan và bảo vệ vùng bờ biển sống còn về mặt kinh tế. Tuy nhiên, bằng việc tăng cường an ninh của mình, Trung Quốc đã tước đi an ninh của các nước láng giềng và của Mỹ. Có lẽ Trung Quốc không có ý định sử dụng các vũ khí của mình một cách hung hăng. Nhưng các nhà hoạch định quốc phòng Mỹ không thể dựa vào điều đó, chính vì thế họ phải phản ứng lại.

 

Theo cách này, hai nước chưa bao giờ có ý định xâm hại nhau có thể bắt đầu xem nhau như mối đe dọa ngày càng lớn. Nếu anh không vũ trang thì bản thân anh rất dễ bị tấn công. Nếu anh vũ trang thì anh đe dọa các nước khác. Một sử gia người Anh, Herbert Butterfield đã gọi đây là “một tình thế hoàn toàn nan giải và không thể làm giảm bớt”. Đó là một lý do tại sao các mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ có thể trở nên xấu đi.

Theo Economist

Lê Hưng (gt)

Phần 3: Ít ẩn mình chờ thời hơn