Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới của Trung Quốc là một dự án thương mại đa quốc gia, nó cũng lớn lao như tham vọng của Trung Quốc. Kết hợp giữa “vành đai kinh tế” trên bộ và một tuyến vận tải hàng hải, sáng kiến này nhằm ​​phát triển một mạng lưới thương mại liên kết các quốc gia và lục địa. Các khoản đầu tư tập trung chủ yếu vào cơ sở hạ tầng nhằm thiết lập các trung tâm thương mại mới dọc tuyến liên kết các khu vực thông qua các hệ thống đường sắt, bến cảng, hệ thống vận chuyển năng lượng và công nghệ. Một khái niệm tương đối mới lạ được Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra vào năm 2013, một số dự án liên quan đến Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới - còn được gọi là “Một vành đai, Một con đường” (OBOR hoặc B&R) - đang được lên kế hoạch xây dựng, đang xây dựng hoặc đã được hoàn thành trong thời gian gần đây. Con đường Tơ lụa Mới là một khái niệm mơ hồ ngay từ giai đoạn hình thành, bao gồm nhiều dự án và tất cả các nước được hoan nghênh tham gia. Vì những lý do đó, nó được cho là một dự án trừu tượng hoặc hão huyền. Tuy nhiên, người ta có thể chứng minh được rằng, Con đường Tơ lụa Mới là một thực tế, được hỗ trợ bằng đồng tiền mạnh của Trung Quốc. Do đó, trong khi Washington vẫn loay hoay thảo luận về một chính sách tổng thể đối với châu Á, Bắc Kinh đang mở đường - theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng – trong toàn khu vực và còn xa hơn nữa.

Hiện đại hóa mạng lưới thương mại cổ đại

Con đường Tơ lụa Mới có thể được coi là một sự hồi sinh trong thế giới hiện đại của Con Đường Tơ Lụa vốn được khởi xướng dưới triều đại Tây Hán. Mạng lưới ban đầu đã mở ra nhiều khu vực khác nhau trên bộ và trên biển, cho đến khi những tiến bộ về hàng hải đã khiến cho các tuyến đường bộ không thể cạnh tranh được về mặt kinh tế.

Con đường Tơ lụa xuyên qua các vùng đất gọi là “Tây vực” (xi yu), hay còn gọi là “các vùng đất phía Tây”. Các vùng đất này nằm về phía Tây của Ngọc Môn Quan, bao gồm cả khu vực Tân Cương cũng như Trung Á ngày nay. Cả hai vùng đất này đều có tầm quan trọng chiến lược ít nhất là từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Theo một nghĩa rộng nhất, “Tây vực” còn trải dài hơn nữa về phía Tây, đến tận tiểu lục địa Ấn Độ, Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi.

Giống như đa số các trường hợp được hồi sinh, Con đường Tơ lụa Mới của Trung Quốc kế thừa một số khái niệm nhất định trong phiên bản gốc, đồng thời điều chỉnh cho thích ứng với tình hình hiện nay. Đáng chú ý, sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới tập trung vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng “cứng” (như đường xá, đường sắt và đường ống dẫn năng lượng) và các dự án “mềm” như các dự án thương mại điện tử. Có thể hình dung, xe tải, tàu hỏa và hệ thống đường ống chuyên chở hàng hoá và dầu thô đã thay thế các đoàn lữ hành di chuyển bằng lạc đà chất đầy tơ lụa và hổ phách.

Khía cạnh hiện đại khác của Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới là việc thể chế hóa cơ chế tài chính. Cụ thể là, Bắc Kinh đã thiết lập Quỹ Con đường Tơ lụa trị giá 40 tỷ USD vào tháng 12 năm 2014 để đầu tư vào Con đường Tơ lụa Mới. Số tiền này được huy động từ một số nguồn, trong đó có Cục điều hành ngoại hối quốc gia, Tập đoàn Đầu tư Trung Quốc, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc và Ngân hàng Phát triển Trung Quốc. Bắc Kinh cũng đã thành lập một cơ quan đầu tư đa quốc gia: Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) trị giá 100 tỷ đô-la với sự tham gia của 57 quốc gia trong đó có Đức, Anh, Pháp, và Nga, nhưng không có Mỹ, là một ngân hàng phát triển phân bổ vốn cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đây cũng được coi như một phần của sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới. Tuy nhiên, ngay cả ngân khố quốc gia Trung Quốc cũng không đủ khả năng đáp ứng hơn 1 nghìn tỷ đô la chi phí cho Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới. Để giải quyết phần thiếu hụt, các ngân hàng phát triển khu vực và quốc tế (như Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu, Ngân hàng Phát triển Châu Á và Ngân hàng Thế giới), chính phủ các nước, và các chủ thể tư nhân cũng đang phải hỗ trợ tài chính.

Về nguyên tắc “cùng thắng”

Trung Quốc đang tiếp thị Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới của mình thành một viễn cảnh “cùng thắng” (shuang ying) đối với tất cả các nước tham gia. Đối với Bắc Kinh, lợi ích là thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước thông qua khắc phục tình trạng sản xuất dư thừa trong ngành công nghiệp, đồng thời mở ra các thị trường mới ở nước ngoài. Mô hình tăng trưởng mới của Trung Quốc lấy động lực là sự gia tăng về nhu cầu quốc tế đối với hàng Trung Quốc. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi Trung Quốc đang phải thích ứng với trạng thái “bình thường mới” (new normal) với mức tăng trưởng chỉ 1 con số sau nhiều thập kỷ tăng trưởng luôn ở mức 2 con số. Dự án cũng nhằm đảm bảo an ninh năng lượng cho Trung Quốc bằng cách cung cấp thêm các đường ống dẫn dầu khí bên cạnh các tuyến đường truyền thống mà Trung Quốc đang phải phụ thuộc đi qua eo biển Malacca và Biển Đông. Ngoài ra, mục tiêu cốt lõi của Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới là thu hẹp khoảng cách đầu tư giữa miền Đông và miền Tây Trung Quốc, giảm chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các vùng miền trong cả nước. Tăng trưởng kinh tế được coi là một “phương thuốc” để ngăn chặn chủ nghĩa ly khai sắc tộc tại một số khu vực như Tân Cương. Tất cả những yếu tố nêu trên đều là động lực bên trong của Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới của Trung Quốc. Trong mỗi giai đoạn thực hiện chương trình cải cách to lớn, Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới là một thành tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trên thực tế, Con đường Tơ lụa Mới thuộc quyền điều hành của Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia (NDRC).

Đối với các chính phủ các nước thành viên, Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới giúp phát triển các khu vực hoặc quốc gia có nền kinh tế kém phát triển. Ví dụ, tổng thống Pakistan đã ca ngợi Hành lang Kinh tế Trung Quốc-Pakistan trong dự án Con đường Tơ lụa Mới là “tượng đài của thế kỷ” (Iftikhar 2016) với hàng tỷ người trong khu vực được hưởng lợi từ các tuyến đường mới, tuyến đường sắt dài 1.800 km, đường ống dẫn dầu và một bến cảng trị giá hàng tỷ đô la ở Gwadar.

Con đường Tơ lụa Mới là một dự án lớn, mang lại nguồn lợi cho các nền kinh tế mới nổi cũng như đang phát triển: một ngôi làng xa xôi ở ngoại ô Kyrgyzstan có thể được hưởng lợi ích kinh tế không khác gì một nước thành viên của Liên minh châu Âu. Ví dụ, Đức và Ba Lan đang xây dựng một số cảng cạn và khu công nghiệp liên quan đến Con đường Tơ lụa Mới (Shepard 2016). Do đó, đối với các chính phủ thành viên, Con đường Tơ lụa Mới một mặt tạo ra công ăn việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế, đồng thời trở thành một phần của chuỗi cung ứng toàn cầu. Mặt khác, các khu vực có con Con đường Tơ lụa Mới đi qua cũng có nhiều đỏi hỏi: các công ty Trung Quốc thông thường thích sử dụng lực lượng lao động người Trung Quốc thay vì lao động địa phương, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực tới cơ hội việc làm ở các nước sở tại. Các tiêu chuẩn về môi trường và an toàn cũng là các mối quan tâm đáng kể của các chính phủ sở tại, cũng như việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, khó khăn trong việc tiếp cận thị trường Trung Quốc của các doanh nghiệp nước ngoài cũng là vấn đề rất đáng quan tâm.

Đối với khu vực kinh tế tư nhân, Con đường Tơ lụa Mới cũng tạo ra cơ hội kinh doanh mới. Theo “PricewaterhouseCoopers” (2016), các doanh nghiệp tư nhân được hưởng lợi nhiều nhất gồm các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng, như các nhà cung cấp công nghệ, nguyên liệu thô, thiết bị và linh kiện; cũng như các công ty xây dựng, dịch vụ có thể hợp tác với các công ty Trung Quốc ở các thị trường nước ngoài. Phương thức ưa chuộng của thành phần tư nhân hiện nay là hợp tác dưới hình thức đối tác công-tư (PPPs).[1] Thật vậy, các công ty Trung Quốc ngày càng ưa chuộng quan hệ hợp tác giữa nhà nước với tư nhân trong các dự án cơ sở hạ tầng và đang mang lại những lợi ích to lớn cho thành phần kinh tế nhà nước thông qua Con đường Tơ lụa Mới (PricewaterhouseCoopers 2016).

Với mục tiêu thúc đẩy một kịch bản “cùng thắng” về tăng trưởng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo việc làm, kết nối quốc tế và khu vực, tdự án của Con đường Tơ lụa Mới cần sự hợp tác với các ngân hàng quốc doanh của Trung Quốc, các công ty và các chủ thể nhà nước khác. Tác động của mối quan hệ đối tác này sẽ được thảo luận ở phần tiếp theo.

Sự tham gia của khu vực nhà nước và tư nhân

Bởi vì ra đời muộn, các doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), đã có những bước đi chậm rãi nhưng vững chắc vào các lĩnh vực truyền thống vốn do nhà nước chi phối. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) vẫn chiếm ưu thế về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI) của Trung Quốc (Backaler 2014). Xu thế này sẽ tiếp tục vì chính quyền trung ương chủ trương cho các doanh nghiệp quốc doanh đóng vai trò chủ chốt trong các dự án thuộc Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới. Trên thực tế, vai trò của chính phủ Trung Quốc đối với nguồn vốn FDI đã dần thay đổi từ quản lý, điều tiết sang hỗ trợ, thúc đẩy (KPMG 2015), và các doanh nghiệp quốc doanh là một kênh thương mại mà nhà nước lựa chọn. Do FDI của Trung Quốc chảy vào  các dự án Con đường Tơ lụa Mới ngày một lớn[2] nên sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước sẽ là một thành phần không thể thiếu của sáng kiến ​​này.

Trong các quốc gia theo chủ nghĩa nghiệp đoàn[3], các doanh nghiệp nhà nước có thể cung cấp con đường duy nhất để kinh doanh - ít nhất cho đến khi các công ty tư nhân và/hoặc các nguyên tắc thị trường tự do chiếm tỷ lệ lớn hơn. [4] Cho đến lúc đó, các công ty nhà nước được chính phủ hậu thuẫn có thể đầu tư trong các lĩnh vực đặc thù như năng lượng, viễn thông hoặc quốc phòng.[5]

Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước cũng gặp phải nhiều thách thức và thường bị thua lỗ. Cụ thể, ở Trung Quốc, các doanh nghiệp nhà nước “nợ nhiều hơn và khả năng trả nợ yếu hơn các doanh nghiệp tư nhân, dù được hưởng thời hạn vay lâu hơn do chính phủ hỗ trợ” (Bloomberg 2016).[6] Sự không minh bạch trong các doanh nghiệp nhà nước cũng là một trở ngại, dẫn đến hành vi tìm kiếm đặc lợi, làm tăng nguy cơ tham nhũng, hối lộ, cũng như thông tin không đáng tin cậy về chi phí, doanh thu và hiệu suất hoạt động. Tất cả các yếu tố này làm gia tăng đáng kể các rủi ro khi hợp tác với các doanh nghiệp nhà nước so với hợp tác với các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân. Chất lượng và chi phí của các dự án cơ sở hạ tầng cũng có thể bị ảnh hưởng. Theo một nghiên cứu gần đây của Trường Kinh doanh Said Saar thuộc Đại học Oxford (Ansar và et al. 2016) đã thăm dò 95 dự án đường bộ và đường sắt lớn của Trung Quốc trong 3 thập kỷ gần đây, các dự án đều hoàn thành đúng hoặc trước hạn. Tuy nhiên, chi phí xây dựng thực tế trung bình cao hơn 30,6% so với chi phí ước tính, chi phí của ¾ số dự án giao thông ở Trung Quốc vượt quá ngân sách. Nghiên cứu cho rằng, động lực để các quan chức và nhà thầu Trung Quốc là việc hoàn thành công trình trong khoảng thời gian ngắn nhất là phần thưởng ngay cả khi nảy sinh các vấn đề liên quan đến chi phí, chất lượng, an toàn lao động, tác động đến môi trường, hoặc quá trình tham vấn cộng đồng. 

Các chính phủ và các đối tác tư nhân sở tại thường gặp phải một loạt các khó khăn đặc thù khi hợp tác với các doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc. Trong khi cải cách tổng thể đối với hệ thống doanh nghiệp quốc doanh tại Trung Quốc là giải pháp dài hạn và hiệu quả hơn, thực tế cho thấy các doanh nghiệp này có vai trò chiến lược đối với nhà nước, do đó có khả năng duy trì được vị thế độc quyền đối với ngành công nghiệp, cả trong nước lẫn các dự án đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, Con đường Tơ lụa Mới đem lại cơ hội cùng với những thách thức. 

Ví dụ, sáng kiến ​​đầy tham vọng mang tên Con đường Tơ lụa Mới có thể khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế trong các hoạt động thương mại của họ. Đối với một nước hiện vẫn đang tìm cách thích nghi với các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài như Trung Quốc thì việc thực hiện các tiêu chuẩn thực hành tốt nhất là một bước cần thiết khi hoạt động trong môi trường kinh doanh mới ở nước ngoài. Ví dụ, “Hướng dẫn về công tác quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước” của OECD công bố năm 2005 đã chỉ ra một số vấn đề cụ thể đối với các doan nghiệp nhà nước, đồng thời đưa ra những lời khuyên trong công tác quản trị nhằm tăng cường tính minh bạch và hiệu quả.[7] Tương tự, gần đây Liên hợp quốc công bố tài liệu về Đối tác Toàn cầu vì Giao thông Bền vững nhằm hỗ trợ quá trình thiết lập các tiêu chuẩn thông lệ tốt nhất trong các vấn đề môi trường và an toàn, nhất là đối với ngành giao thông. Đây sẽ là đặc điểm nổi bật của các dự án thuộc Sáng kiến Con đường Lụa Mới. Các hiệp định đa phương hoặc song phương, hợp đồng liên doanh, và/hoặc các hiệp định đối tác tác công-tư cũng đưa ra các phương thức hợp lý để quy định các tiêu chuẩn thực hành tốt nhất đối với sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước vào các dự án thương mại.[8]

Các nước sở tại cũng sẽ gặp vấn đề tương tự. Con đường Tơ lụa Mới sẽ thúc đẩy các chính phủ không những phải chấp nhận các tiêu chuẩn thực hành quốc tế tốt nhất, mà còn cải thiện môi trường đầu tư tổng thể của họ để thu hút FDI từ Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới. Một trường hợp nghiên cứu điển hình là Dự án đường vành đai Almaty (còn được biết đến qua tên viết tắt bằng tiếng Nga là BAKAD) - một phần của đường cao tốc xuyên quốc gia “Tây Trung Quốc - Tây Châu Âu”, đồng thời là dự án đầu tiên được triển khai theo mô hình đối tác công-tư không chỉ ở Kazakhstan mà còn toàn bộ khu vực Trung Á. BAKAD là một dự án thí điểm của Con đường Tơ lụa Mới, là mô hình đối tác công-tư đầu tiên được xây dựng trong khuôn khổ pháp lý mới, được sửa đổi đáng kể đối với bộ luật được xây dựng vào năm 2014, là một phần của chương trình cải cách mới của Kazakhstan, được gọi là “Nurly Zhol”.[9]  Những nỗ lực trong việc ban hành các đạo luật liên quan đến mô hình đối tác công-tư đã tạo ra điều kiện cho phép các nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào BAKAD, trong đó có Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu.

Ví dụ, tháng 5 năm 2015,[10] “Luật về Độc quyền Tự nhiên” của Kazakhstan đã được sửa đổi để tăng tính minh bạch về thuế quan và các hoạt động độc quyền, đơn giản hóa thủ tục thuế, bảo vệ người tiêu dùng, tạo thuận lợi cho việc xử lý hồ sơ bỏ thầu và loại bỏ các chi phí không cần thiết. Trên thực tế, BAKAD có thể là một kế hoạch chi tiết cho mô hình đối tác công-tư trong các lĩnh vực cần thu hút vốn để phục vụ Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới.

Do đó, trong khi vai trò quan trọng của khu vực kinh tế công tạo ra những thách thức, thì Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới có thể mở đường cho việc áp dụng các biện pháp quản trị doanh nghiệp theo định hướng thị trường. Điều này rất quan trọng để các nhà đầu tư tư nhân khi cân nhắc góp vốn vào các dự án tốn kém và dài hạn thuộc Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới.[11]

Hệ lụy đối với thế giới và Mỹ

“Ngoại giao kinh tế” là giải pháp quan trọng của Bắc Kinh nhằm kết nối với cộng đồng quốc tế (Ewert, Poeter và Fermont 2016), và Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới là một cơ chế then chốt để thực hiện chính sách này. Do đó, Bắc Kinh và các nước tham gia đã đặt Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới và AIIB vào vị trí có mức ưu tiên cao.

Theo quan điểm của Bắc Kinh, thúc đẩy chính sách “ngoại giao kinh tế” mềm có lợi hơn so với xuất khẩu “sức mạnh cứng” ra bên ngoài. Bắc Kinh đã coi sự tốn kém và khó lường của xung đột quân sự ngược lại với chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nội địa bền vững [12], coi đó là  điều kiện quan trọng để đảm bảo sự ổn định trong nước và duy trì chế độ.[13]

Do đó, Bắc Kinh luôn nhấn mạnh rằng, Con đường Tơ lụa Mới không phải là một dự án đối ngoại mà là một dự án có đinh hướng kinh tế. Điều này rất quan trọng với Bắc Kinh bởi vì các khu vực mà Con đường Tơ lụa Mới đi qua đều có vị trí quan trọng chiến lược.

Cũng giống Con đường Tơ lụa thời cổ đại, trong Con đường Tơ lụa Mới, khu tự trị Tân Cương (đặc biệt là Urumqi và Kashgar) và khu vực Trung Á đóng vai trò trung tâm. Thực ra, động lực chính của Con đường Tơ lụa Mới là phát triển và kết nối với khu tự trị Tân Cương, từ đó ngăn chặn xu thế ly khai và cực đoan tôn giáo. Nga rất quan ngại vì Trung Á có vai trò quan trọng và trung tâm trong Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới, trong khi khu vực này được cũng được coi là một phần “sân sau” của Nga nên cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt hơn không chỉ do nguồn Ω dự trữ năng lượng dồi dào mà còn vì vị trí chiến lược của khu vực này trong vai trò là một “điểm nối” của “vành đai kinh tế” Con đường Tơ lụa Mới kết nối thương mại giữa phía đông và phía tây. Kazakhstan và Kyrgyzstan cũng là các thành viên của Hiệp hội kinh tế Á-Âu (EEU) cùng với Nga.[14] Vì thế, trừ khi hai bên thúc đẩy  các lĩnh vực hợp tác có lợi ích chung, xung đột tiềm tàng về địa-chính trị giữa Nga và Trung Quốc sẽ luôn thường trực.[15] Đối với các nước Trung Á, lợi ích về thương mại và FDI tại thời điện hiện tại là rất lớn, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang xuống dốc, xuất khẩu dầu mỏ giảm sút, một số hạng mục cấm vận kinh tế được áp dụng đối với Nga đã ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn kiều hối do công nhân các nước Trung Á gửi về.[16] Do đó, các nước khu vực này đang tìm cách đa dạng hóa nền kinh tế, tham gia và thực hiện các hướng dẫn của WTO một cách linh hoạt hơn, đồng thời, cải thiện tổng thể môi trường đầu tư và thương mại[17] để thu hút FDI, thể hiện qua dự án BAKAD và chương trình cải cách lập pháp gần đây ở Kazakhstan.

Tuy nhiên, sự tham gia của nhà nước Trung Quốc thông qua các doanh nghiệp quốc doanh (SOEs) và các doanh nghiệp được chủ thể mà nhà nước hậu thuẫn có thể thách thức khái niệm về dự án Con đường Tơ lụa Mới như là một dự án thương mại thuần túy không có yếu tố chính trị. Nếu Bắc Kinh can thiệp quá mức, hoặc có các hoạt động quân sự có liên quan gì đến Con đường Tơ lụa Mới không, nhận thức quốc tế về Con đường Tơ lụa Mới có thể nhanh chóng thay đổi. Lúc đó, một sáng kiến ​​thương mại và đầu tư sẽ được coi là một dự án xây dựng liên minh và/hoặc bành trướng địa chính trị. Nhận thức như vậy sẽ làm nóng các cuộc tranh luận về chính sách ngoại giao đối với một “Trung Quốc đang trỗi dậy” và mối đe doạ của nó đối với trật tự thế giới.[18] Vì vậy, cộng đồng quốc tế sẽ cố gắng nhìn xa hơn tuyên ngôn “cùng thắng” mà tập trung chú ý đến thực tế.

Đối với Mỹ, một chính sách ngoại giao thực sự đối với Bắc Kinh còn chưa rõ ràng. Trong khi Washington vẫn chưa có động thái đưa ra một cách tiếp cận tổng thể đối với Sáng kiến ​​Con đường Tơ lụa Mới của Trung Quốc, cách tiếp cận hiện nay thiên về bỏ ngỏ, “đối phó” hoặc “ngăn chặn” Sáng kiến ​​Đường Tơ Lụa Mới của Trung Quốc.[19] Quan điểm của Donald Trump về Trung Quốc trong suốt chiến dịch tranh cử Tổng thống của ông đã thể hiện một quan điểm mạnh mẽ về chủ nghĩa bảo hộ và biệt lập về kinh tế, nhưng vẫn chưa rõ liệu quan điểm của ứng cử viên Trump có thể biến thành các chính sách thực tế của Tổng thống Trump hay không. Một cách tiếp cận hợp lý hơn là tìm ra các lĩnh vực có thể hợp tác mà các công ty của Mỹ có thể có lợi từ những dự án của Con đường Tơ lụa Mới.

Kết luận

Cùng với Sáng kiến Con đường ​​Con đường Tơ lụa Mới, Bắc Kinh đang thực hiện một mô hình mới về “ngoại giao kinh tế” nhằm hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước một cách lâu dài và bền vững. Ngoài ra, Sáng kiến ​​Con đường Tơ lụa Mới của Trung Quốc sẽ tạo cơ hội việc làm, thu hút FDI, xây dựng cơ sở hạ tầng và thúc đẩy trao đổi thương mại cho các đối tác khác. Theo Trung Quốc, mục tiêu cuối cùng là thiết lập một kịch bản “cùng thắng” cho tất cả các đối tác tham gia.

Tuy nhiên, dự án đa quốc gia và đầy tham vọng này còn nảy sinh nhiều vấn đề khác như tình hình bất ổn chính trị ở các nước sở tại, các tiêu chuẩn thực tiễn thấp hơn chuẩn quốc tế (bao gồm sự không minh bạch và tham nhũng) và khả năng chính phủ Trung Quốc chính trị hóa các mối quan hệ thương mại thông qua dự tham gia của các doanh nghiệp quốc doanh. Tất cả những yếu tố này có thể cản trở quan hệ thương mại và môi trường đầu tư lành mạnh. Những thách thức như vậy có thể được giảm nhẹ nếu các bên tham gia, nghĩa là các thành phần tư nhân và nhà nước thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ví dụ như tiến hành rà soát đặc biệt đối với các dự án và đối tác, thiết lập các điều khoản rõ ràng trong hợp đồng hoặc hiệp ước về tranh chấp và cơ chế trọng tài, coi trọng việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Đối với các nước thành viên, Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới có thể khuyến khích các chính phủ thực hiện các nguyên tắc về thị trường tự do trong các nền kinh tế của mình để thu hút FDI tốt hơn. Điều này phải bao gồm việc loại bỏ hoặc giảm thuế quan, đơn giản hóa mã số thuế, giảm quan liêu, bảo vệ tài sản cá nhân và tăng cường vai trò của luật pháp.

Con đường Tơ lụa Mới là một dự án chưa hoàn chỉnh trong các giai đoạn xây dựng của nó. Đây là một sáng kiến ​​quy mô lớn trải rộng trên nhiều quốc gia và châu lục và được hỗ trợ bởi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới: nếu được chứng minh là thành công, thì đây sẽ là dự án quan trọng mà không ai có thể “bỏ qua” hoặc “ngăn chặn”. Mỹ nên tiếp cận Sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới một cách thận trọng nhưng mang tính xây dựng và nhìn nhận nó như một dự án tiềm năng tích cực để để thúc đẩy mối quan hệ thương mại cùng có lợi với Trung Quốc và các nước thành viên của Sáng kiên Con đường Tơ lụa Mới.

Christine Guluzian là chuyên gia về chính sách quốc phòng và ngoại giao tại Viện Cato. Bài viết được đăng trên Cato Journal, Tập 37, Số 1, Mùa Đông năm 2017.

Biên dịch: Trần Thanh Vân

Hiệu đính: Đỗ Thanh Hải

Bài dịch thuộc bản quyền Nghiên cứu Biển Đông. Đề nghị chỉ được dẫn đường link, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập.

Tài liệu tham khảo

Allison, G.T (2015) “The ThucydidesTrap: AretheU.S.andChina” (24 tháng 9). Có tại www.theatlantic.com/international/archive/2015/09/united-states-china-war-thucydides-trap / 406756.

Ansar, A ; Flyvbjerg, B; Budzier, A ; Lunn, D. (2016) “Đầu tư cơ sở hạ tầng có làm tăng hay giảm tăng trưởng kinh tế? Bằng chứng từ Trung Quốc”. Oxford Review of Economic Policy 32 (3): 360-90.

Backaler, J. (2014) “Bàn về những thách thức kinh tế của Hoa Kỳ - Trung Quốc: Các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc và những thách thức và cạnh tranh phi thị trường”. Điều trần trước Ủy ban Duyệt Xét Kinh tế và An ninh Hoa Kỳ (21 tháng 2).

Bloomberg. (2016) “Các tỉnh của Trung Quốc can thiệp vào ngân hàng để cứu vãn các công ty” Bloomberg.com. Có tại www.bloomberg.com/news/articles/2016-07-07/china-province-meddle-in.

Ewert, I; Poeter, J. P .; Fermont, M. (2016) “Kinh tế, Luật pháp và Chính trị: Câu hỏi về tình trạng kinh tế thị trường của Trung Quốc.” Nhà quan sát EU-Trung Quốc 1 (16): 4-8.

Iftikhar, M. (2016) “CPEC: Tượng đài của thế kỷ” The Nation (ngày 21 tháng 8). Có tại nation.com.pk/business/21-Aug -2016/cpec-a-monument-of-century.

KPMG. (2015) “Tầm nhìn Trung Quốc 2015.” Có tại www.kpmg.com / ES / es / Internacionalizacion-KPMG / Documents / China-Outlook -2015.pdf.

Ledeneva, A. V. (2008) “Blat” và “Guanxi”: Thực tiễn ở Nga và Trung Quốc. “ComparativeStudiesinSocietyandHistory50 (1): 118-44.

Li, S. (2014) “Tình trạng tiến thoái lưỡng nan của Trung Quốc và các biện pháp đối phó” S. Binhong (ed.), Thế giới đến năm 2020: Các nhà hoạch định chính sách đối ngoại Trung Quốc: thảo luận các xu hướng mới nổi trong chính trị quốc tế, 51-68. Leiden: Brill.

Mearsheimer, J. J. (2006) “Sự phát triển của Trung Quốc.” 105 (690): 160-62.

________ (2010) “The Gathering Storm: Thách thức của Trung Quốc đối với sức mạnh của Mỹ tại Châu Á” ChineseJournalofInternationalPolitics3 (4): 381-96.

PricewaterhouseCoopers (2016) “Trung Quốc mới: Con đường dài và đầy giông bão” (Tháng Hai). Có tại www.pwc.com/gx/en/growth-markets-center/assets/pdf/china-new-silk-route.pdf.

Schmitter, P. C. (1974) “Vẫn còn thế kỷ của chủ nghĩa tập thể?” Bản đánh giá chính trị 36 (1): 85-131.

Shepard, W. (2016) “Con đường Tơ lụa Mới không phải chỉ là Trung Quốc mà là thế giới.” Forbes (ngày 14 tháng 10). Có tại www.forbes.com / sites / wadeshepard / 2016/10/14-chinese / # 76405ef67289.

The Economist. (2016) “Quy tắc của chúng tôi.” (2 tháng 7). Có tại www.economist.com/news/china/21701505-chinas-foreign-policy-can-reshape-good-part-world-economy -our-bulldozers.

Wang, Y., Zhang, D. (2014) “Báo cáo thường niên của APSA năm 2014”. Có tại ssrn.com / abstract = 2453289.



[1] Trên thực tế, ngày 23 tháng 9 năm 2014, Bộ Tài chính Trung Quốc đã ra thông báo về việc thúc đẩy đối tác công-tư để khuyến khích đầu tư vốn vào cơ sở hạ tầng. Theo Ngân hàng Thế giới, không có một định nghĩa được công nhận rộng rãi về quan hệ đối tác công-tư. Ngày càng nhiều quốc gia đưa ra định nghĩa và những quy định cụ thể về các đặc thù cơ bản của mối quan hệ này. Phòng Thực nghiệm Tri thức PPP xác định, quan hệ đối tác công-tư là “một hợp đồng dài hạn giữa một bên là tư nhân với một bên là cơ quan của chính phủ trong lĩnh vực cung cấp tài sản hoặc dịch vụ công, trong đó phía tư nhân phải chịu nhiều trách nhiệm về rủi ro và quản lý. Tham khảo tại: ppp.worldbank.org/public-private-partnership/overview/what-are-public-private-partnership.

[2] Theo The Economist (2016), các dự báo chính thức cho thấy, vào năm 2015, FDI của Trung Quốc tại các quốc gia tham gia Con đường Tơ lụa Mới đã tăng gấp đôi so với mức tăng tổng số FDI. 44% các dự án kỹ thuật mới của Trung Quốc đã được ký kết với các quốc gia tham gia Con đường Tơ lụa Mới và 52% trong 5 tháng đầu năm 2016.

[3] Vai trò quan trọng của các doanh nghiệp nhà nước trong các hoạt động thương mại trong nước và quốc tế tại Trung Quốc có thể so sánh với mô hình “chủ nghĩa nghiệp đoàn nhà nước” ở Nga, nơi các nhà đầu tư trong nước được hậu thuẫn mạnh mẽ của nhà nước và có vị trí đặc quyền trong các dự án FDI tại nước ngoài. Schmitter (1974) mô tả “chủ nghĩa nghiệp đoàn nhà nước” là “nếu không phải là cấu trúc cần thiết, thì là một yếu tố xác định của một nhà tư bản theo chủ nghĩa hoài nghi”. Một nhà lý luận khác theo chủ nghĩa nghiệp đoàn, Mihail Manoilesco (Schmitter 1974), đã phân biệt các nội dung của chủ nghĩa kinh tế: corporatism pur, trong đó “Tính hợp pháp và chức năng của nhà nước phụ thuộc chủ yếu hoặc hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động của các tập đoàn đại diện, không cạnh tranh và không có thứ bậc” và corporatisme subordonne theo đó các doanh nghiệp được “tạo ra và đóng vai trò là cơ quan trực thuộc của nhà nước, có thể tự tạo ra các tính năng hợp pháp và chức năng hiệu quả”.

[4] Theo Backaler (2014), liên quan đến khả năng các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hưởng cơ hội tiếp cận thêm môi trường kinh doanh, Hội nghị Trung ương 3 của Khóa 18 (tháng 11 năm 2013) đã thể hiện ý định của Chính quyền mới tại Trung Quốc trong việc xây dựng một sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân.

[5] Đặc biệt là trong khi thực hiện các hoạt động thương mại tại các quốc gia “quá độ”, nơi các cấu trúc kinh tế xã hội phi chính thức thường cạnh tranh với các cơ quan nhà nước. Ví dụ, ở Trung Quốc, có giả định cho rằng, các mối liên hệ xã hội (guan xi), và đặc biệt là các mối quan hệ cá nhân với các cơ quan chính trị, là điều kiện không thể thiếu đối với rất nhiều hoạt động, trong đó có kinh doanh, toà án nhằm bảo vệ danh tiếng của công ty và bảo đảm các khoản vay ngân hàng (Wang, Zhang 2014). Một khái niệm tương tự là “blat” cũng phổ biến ở Nga. Để so sánh thực tiễn ở Trung Quốc và Nga, xem Ledeneva (2008).

[6] Theo The Economist (2016), nhiều doanh nghiệp nhà nước (SOEs) thậm chí có một bộ phận được thành lập chỉ để phục vụ sáng kiến Con đường Tơ lụa Mới “giá mà chỉ với hy vọng kiếm tiền cho các dự án của họ”.

[7] Có tại www.oecd.org/daf/ca/OECD-Guidelines-Corporate-Governance -SOEs-2015.pdf. Có thể tam khảo Nguyên tắc Quản trị Doanh nghiệp năm 2015 “G20/OECD” tại www.oecd-ilibrary.org/docserver/download/2615021epdf? 1478208852 & id = id & accname = guest&checksum = 58BA07C3D057A719 F3828ED51DEA76DE.

[8] Ví dụ, một số quốc gia tham gia vào sáng kiến “Một vành đai, một con đường” cũng tham gia Hiệp ước Đặc quyền về Năng lượng, đưa ra các quy định về giải quyết tranh chấp, các điều kiện không phân biệt đối xử trong thương mại đối với các loại nguyên liệu năng lượng, bảo hộ đầu tư nước ngoài và thúc đẩy sử dụng hiệu quả năng lượng.

[9] Chính sách kinh tế mới của Kazakhstan, “Nurly Zhol” hoặc “Con đường sáng” đã được Tổng thống Nursultan Nazarbayevin công bố vào tháng 11 năm 2014 để hỗ trợ kế hoạch phát triển của sáng kiến Con đường Tơ Lụa.

[10] Tháng 5 năm 2015, Chủ tịch Kazakhstan Nazarbayevals đã đưa ra kế hoạch “100 Bước cụ thể” nhằm thực hiện 5 cuộc cải cách thể chế sáng kiến “Nurly Zhol”, bao gồm: (1) tạo ra một dịch vụ dân sự hiện đại và chuyên nghiệp, (2) đảm bảo pháp quyền , (3) công nghiệp hóa, (4) tăng trưởng kinh tế, và (5) sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của nhà nước.

[11] Các bước tiếp theo mà các bên tham gia vào khu vực tư nhân có thể thực hiện để đảm bảo các tiêu chuẩn thực hành tốt nhất và/hoặc giúp giảm thiểu mọt số rủi ro, bao gồm: tiến hành rà soát toàn bộ các đối tác tiềm năng, xem xét bảo hiểm về rủi ro chính trị, thiết lập các cơ chế giải quyết tranh chấp/giải quyết tranh chấp ngay từ đầu, và đảm bảo các hợp đồng và/hoặc các hiệp ước phân định rõ ràng giữa các quyền của nhà nước và quyền của nhà đầu tư.

[12] Liệu sự tuân thủ của Trung Quốc đối với mô hình nhà nước-nghiệp đoàn có là một biện pháp hiệu quả để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững hay không là một chủ đề riêng biệt để tranh luận.

[13] Đối với Bắc Kinh, tăng trưởng kinh tế vượt lên trên các cuộc đối đầu quân sự, trừ khi liên quan đến các lợi ích kinh tế chiến lược hoặc các vấn đề lãnh thổ. Shaojun Li, Giáo sư tại Viện Kinh tế Thế giới và Chính trị, Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (một tổ chức trực thuộc Hội đồng Nhà nước và được coi là tổ chức nghiên cứu học thuật cao cấp nhất Trung Quốc về khoa học xã hội) cho rằng: Nếu không có trật tự trong quan hệ đối ngoại, xây dựng kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. Để đảm bảo một môi trường trật tự và hòa bình, Trung Quốc cần phải tham gia vào các cơ chế hòa bình như một biện pháp ưu tiên để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ. . .  Tập trung vào các mục tiêu phát triển mà không phải là dựa vào tham vọng bá quyền để hoạch định chính sách quân sự của Trung Quốc. Mục đích xây dựng quân đội của Trung Quốc là để phục vụ cho sự phát triển. Tuy nhiên, khi sự sức mạnh quân sự vượt quá giới hạn tự vệ, nó sẽ không chỉ làm tổn hại nguồn lực trong nước mà còn tạo ra những căng thẳng không cần thiết trong quan hệ với nước ngoài. Theo đó, khi Trung Quốc thay đổi phương thức phát triển và mở rộng nhu cầu trong nước, sẽ không chuyển đổi phát triển kinh tế thành sức mạnh quân sự [Li 2014: 66]..

[14] Các quốc gia thành viên khác của EEU bao gồm Belarus và Armenia.

[15] Mối quan hệ giữa con đường tơ lụa mới và Liên minh Kinh tế Âu Á sẽ được tác giả đưa ra trong một Phân tích chính sách Cato sắp tới.

[16] Theo Báo cáo Phát triển về Di cư và Phát triển năm 2016 của Ngân hàng Thế giới, trong khu vực Châu Âu và Trung Á, tỷ lệ kiều hối kiều hối giảm vào năm 2015 là lớn nhất trong số các nước Trung Á: 47% ở cả Turkmenistan và Uzbekistan, 25% ở Nga, 24% ở Tajikistan và 23% ở Kazakhstan. Có tại pubdocs.worldbank.org/en/661301460400427908 /MigrationandDevelopmentBrief26.pdf.

[17] Mặc dù các biện pháp này không áp dụng được cho tất cả các quốc gia Trung Á.

[18] Trình bày quan điểm này có Mearsheimer (2006, 2010) và Allison (2015).

[19] Tác giả sẽ tiếp tục phân tích những cách tiếp cận này và đề xuất các khuyến nghị về chính sách tại Viện Phân tích Chính sách Cato.