Xi_Apec_2014.jpg

Chương trình nghị sự chính sách của Tập Cận Bình tiếp tục được đặc trưng bởi nhiều thành phần mâu thuẫn. Sự trấn áp hệ tư tưởng, những khát vọng nước lớn và sự tuyên truyền của nhà lãnh đạo tối cao tồn tại song hành với một chiến dịch chống tham nhũng đang diễn ra và các biện pháp cải cách kinh tế quan trọng. Một số học giả lập luận rằng những yếu tố mâu thuẫn này có thể được giải thích bằng một cách thức đơn giản nào đó: Tập Cận Bình “thực sự” là một nhà cải cách, hoặc thực sự là một người phái tả hay thực sự chỉ là một kẻ độc tài. Những đường hướng đơn giản quá mức này hẳn nên bị phớt lờ. Những người đưa ra các đường hướng này đơn thuần là đang tạo ra những câu chuyện hợp lý nhằm hòa giải những mâu thuẫn không thể chối cãi được. Mặc dù tất cả những đặc điểm đơn giản này của Tập Cận Bình có thể chứa đựng các yếu tố sự thật, không có cách thức đơn giản nào tiến gần tới việc lý giải những yếu tố khác nhau, dễ thay đổi và thỉnh thoảng hết sức mâu thuẫn trong chương trình nghị sự của Tập Cận Bình. Hiện đã đến lúc chúng ta có thể miêu tả rõ ràng các yếu tố trong chương trình nghị sự của Tập Cận Bình, và có lẽ là đánh giá ảnh hưởng tương đối và quỹ đạo có thể xảy ra của một số yếu tố này.

Trên thực tế, trong mớ bòng bong các yếu tố chính sách hỗn tạp thuộc chương trình nghị sự của Tập Cận Bình, trong nửa cuối năm 2014 có một sự thay đổi đáng kể, tầm quan trọng của các cải cách kinh tế đã tăng lên một cách rõ ràng khi lần đầu tiên, Tập Cận Bình đã bắt đầu đặt sức mạnh chính trị đáng kể sau các thành phần cụ thể của chương trình nghị sự cải cách kinh tế. Chương trình cải cách kinh tế hiện đã vượt ra khỏi những giai đoạn chuẩn bị và thành lập các thể chế chuyên môn hóa nhằm quản lý quá trình cải cách. Các đánh giá trước đây, ngay cả khi tích cực thì chắc chắn cũng đã rất cẩn trọng vì việc thi hành đã rất chậm chạp, so với những tuyên bố táo bạo và rõ ràng tại Hội nghị trung ương 3 vào tháng 11/2013. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta có thể bắt đầu nhìn thấy những khu vực quan trọng mà các cải cách kinh tế đã vượt ra khỏi những lời nói suông để trở thành những nỗ lực quan trọng nhằm thực hiện trên thực tế. Điều này không nhất thiết để nói rằng Tập Cận Bình đã tìm ra một “mô hình” cải cách hiệu quả hay hợp lý, nhưng nó chắc chắn làm thay đổi những ngôn từ trong cuộc đối thoại mà chúng ta hẳn đang có về chính sách kinh tế. Các cải cách kinh tế của Tập Cận Bình hiện rất nghiêm túc và thực tế, và xứng đáng nhận được sự chú ý nghiêm túc và cẩn trọng. Kỳ lạ là, cho đến nay các biện pháp quan trọng được thảo luận tại đây đã được bộc lộ theo cách có phần dè dặt trên báo chí Trung Quốc, và hầu như không nhận được sự chú ý nào của báo chí bên ngoài Trung Quốc. Sự thiếu sót này nên được sửa chữa càng sớm càng tốt.

Dưới đây, tác giả khảo sát ba nhân tố cải cách kinh tế chính mà đã được thực hiện nghiêm túc trong khoảng thời gian từ tháng 10-11/2014. Mỗi yếu tố trong ba nhân tố này rất phức tạp, và một bài phân tích toàn diện, hay thậm chí là một bản mô tả trọn vẹn thực sự là không thể đạt được trong khuôn khổ bài viết ngắn gọn này. Mục đầu tiên liệt kê toàn bộ 3 lĩnh vực chính sách. Các mục 2 đến 4 mô tả nội dung chính sách cho mỗi biện pháp. Trong mục 5, tác giả đưa ra một loạt nhận xét hết sức sơ bộ về bản chất của “mô hình Tập Cận Bình” về cải cách kinh tế đang nổi lên.

Ba biện pháp chính sách

Trong khoảng một vài tháng, và hầu như không có báo hiệu nào, các nhà hoạch định chính sách của Bắc Kinh đã đưa ra 3 gói chính sách cải cách kinh tế sau:
a) Một chương trình đã được thông qua nhằm tách tài chính của chính quyền địa phương khỏi “các thực hiện tài trợ tập thể của chính quyền địa phương” vốn đã chồng chất nợ nần kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính sách này bao gồm việc đặt hạn mức cho số nợ của địa phương, tái phân loại và tái cấu trúc nợ thành nợ công (về bản chất là “trái phiếu đô thị”) và nợ doanh nghiệp (kể cả đối với các công ty sản xuất các dịch vụ công). Đây là một chương trình táo bạo và hăng hái nhằm tìm cách thay đổi về cơ bản mối quan hệ giữa các chính quyền địa phương và các thị trường nợ. Đồng thời, nó sẽ dẫn tới một sự cắt giảm lớn trong ngắn hạn các nguồn tài chính của chính quyền địa phương.

b) Một hệ thống các quyền sở hữu mới đã được đưa ra đối với đất nông nghiệp cung cấp sự bảo vệ cho các nông dân và một hệ thống rõ ràng nhằm hỗ trợ việc thuê, cho thuê và thế chấp đất đai.

c) Tại Hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo APEC ở Bắc Kinh (ngày 9-12/11/2014), Trung Quốc đã đưa ra những cam kết mới trong một loạt cuộc đàm phán quốc tế, về thực chất là hoàn thành các hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc và Australia và tiến tới các hiệp định với Mỹ. Trong khi không có bước tiến đơn lẻ nào là một yếu tố làm thay đổi cuộc chơi, thì tích lũy lại những động thái này giống như một sự thay đổi quan trọng hướng tới một chế độ kinh tế mở cửa hơn, đặc biệt là từ khi các biện pháp bổ sung về chính sách đối nội cũng đã được thực hiện.

Mỗi sáng kiến chính sách này giải quyết những khía cạnh cơ bản của hệ thống kinh tế. Trong một số trường hợp – chẳng hạn như các quyền về đất đai – các biện pháp mới giải quyết các vấn đề lý thuyết hay chính trị gây tranh cãi mà đã đánh bại những nỗ lực tìm ra giải pháp trong khoảng hơn 1 thập niên. Mỗi sáng kiến chính sách đều vấp phải sự phản đối, vì vậy ban lãnh đạo chính trị tối cao hẳn đã phải sử dụng vốn liếng chính trị, hoặc là vào việc lấn át các đối thủ, hoặc vào việc tiến hành các thỏa thuận chính trị mà sẽ khiến các sáng kiến đó được chấp nhận. Chúng ta hãy xem xét lần lượt từng sáng kiến này.

Các cải cách tài khóa: Giải quyết tài chính và nợ nần của chính quyền địa phương

Vào ngày 2/10, Quốc vụ viện đã ban hành một văn kiện quan trọng, Số 43 năm 2014, có tên là “Các quan điểm về tăng cường quản lý nợ của chính quyền địa phương”. Được diễn đạt một cách chung chung, tuy nhiên văn kiện này đã đánh dấu một bước ngoặt đầy ấn tượng hướng tới một nỗ lực tỉ mỉ và cơ bản hơn nhằm giải quyết nợ của chính quyền địa phương. Các độc giả của số trước của tạp chí này sẽ nhớ lại rằng các cải cách tài khóa đã nóng lên. Tiểu ban Chỉ đạo Cải cách Toàn diện, do Tập Cận Bình chủ trì, tại cuộc họp thứ 3 vào ngày 6/6/2014 đã thông qua một chương trình cải cách tài khóa (mà đã không được ban hành). Bộ trưởng Tài chính Lâu Kế Vỹ khi đó đã vạch ra một chương trình cải cách đầy tham vọng gồm 3 giai đoạn trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng 7/2014, và vào cuối tháng 8, Luật Ngân sách Quốc gia đã được sửa đổi về một số khía cạnh quan trọng, rõ ràng nhất là luật này sẽ trao cho các chính quyền địa phương quyền phát hành trái phiếu chính phủ. Giai đoạn cải cách đầu tiên của Bộ trưởng Lâu, bắt đầu ngay lúc đó, đã nhắm vào “hệ thống quản lý ngân sách”, bao gồm các thủ tục nhằm minh bạch ngân sách, cơ sở pháp lý tốt hơn và sự giám sát của Quốc hội, và các hệ thống để quản lý nợ của chính quyền địa phương. Điều còn chưa rõ ràng vào thời điểm đó, nhưng đã nhanh chóng trở nên rõ ràng sau khi ban hành Văn kiện Số 43 của Quốc vụ viện, là hệ thống quản lý nợ của chính quyền địa phương được cải thiện sẽ đi kèm với một nỗ lực đầy tham vọng trước mắt nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề nợ của chính quyền địa phương, và nỗ lực kiểm soát nó một cách dứt khoát.
Văn kiện Số 43 của Quốc vụ viện, chỉ dài 4 trang, đã giải quyết toàn bộ các vấn đề chính một cách trực diện, nhưng theo một cách khá chung chung. Văn kiện này đã tuyên bố một “chính sách không cứu trợ tài chính” về phía chính quyền trung ương. Điều này ngay lập tức đã gây ra sự thiếu chắc chắn trên thị trường trái phiếu, vì các nhà đầu tư không có gì đương nhiên sẽ quan ngại về giá trị của các khoản đầu tư của họ. Dù quan trọng, nhưng sự thiếu chắc chắn về các giá trị trái phiếu hẳn đã làm xao nhãng sự chú ý khỏi các khía cạnh khác của sự thay đổi chính sách quan trọng này. Quốc vụ viện cũng đã thông báo rằng các thực thể tài trợ của chính quyền địa phương (các tập đoàn đầu tư được các chính quyền thành lập để tiến hành các dự án đầu tư của họ) nên được biến đổi thành các tập đoàn được tách rời rõ ràng khỏi các chính quyền địa phương, nếu không sẽ bị loại bỏ. Văn kiện này kêu gọi các chính quyền địa phương tập trung trách nhiệm đối với nợ địa phương ở cấp tỉnh, kiểm kê tổng nợ địa phương, sàng lọc và phân loại nợ theo khả năng hoàn trả của các tài sản được tạo ra. Điều này rõ ràng đã đánh dấu sự khởi đầu của một sáng kiến chủ chốt mới nhằm hạn chế và kiểm soát vấn đề nợ của địa phương.

Gây ấn tượng giống như nội dung của Văn kiện Số 43, hầu hết các biện pháp này cũng là lặp lại những chính sách đã được nỗ lực thực hiện trong vài năm qua, mà không có ảnh hưởng lớn nào. Tuy nhiên, khi chương trình của Bộ Tài Chính nhằm thi hành Văn bản Số 43 có tiến triển, dần trở nên rõ ràng rằng đây là một nỗ lực tham vọng hơn nhiều so với bất cứ điều gì đã được cố gắng làm kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Bộ Tài chính đã yêu cầu các chính quyền địa phương phải làm các việc sau:

1. Mỗi tỉnh phải kiểm kê toàn bộ nợ của chính quyền địa phương, đặc biệt là nợ ngân hàng, kể từ tháng 12/2014, và báo cáo cho Bộ này vào ngày 5/1/2015. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành một cuộc kiểm toán toàn diện nợ địa phương đến hết ngày 30/6/2013, và các hồ sơ tài khóa đã được sử dụng để cập nhật các hồ sơ này cho đến cuối năm 2014. Cuộc kiểm toán trước đó đã bao gồm 7.170 thực thể tài trợ của chính quyền địa phương, và tổng nợ cùng với các nghĩa vụ nợ tiềm tàng trị giá 30 nghìn tỷ NDT.

2. Khi số liệu của tỉnh được báo cáo cho Bộ này và được Quốc vụ viện thông qua, nó phải được luôn được đặt hạn mức. Tức là, tổng nợ của tỉnh không thể tăng, mặc dù tỉnh đó vẫn sẽ có quyền tự do nào đó để thay đổi tổng hạn mức nợ của nó giữa các chính quyền dưới cấp tỉnh (khi một số chính quyền địa phương trả hết nợ của họ).

3. Tất cả các dự án đã hoàn thành được cấp vốn có các khoản nợ được chia làm 3 loại. (a) Các dự án không có doanh thu nên được xem là trách nhiệm của chính quyền địa phương và được ghi vào bảng cân đối kế toán của chính quyền địa phương. Các khoản nợ phát sinh khi tạo ra những dự án này vì thế nên trở thành các nghĩa vụ trực tiếp của chính quyền. Các chính quyền địa phương có thể không cấp vốn cho những dự án này thông qua các khoản vay ngân hàng, và phải phát hành trái phiếu chính phủ để trả hết khoản nợ ngân hàng tồn đọng. (b) Các dự án có đủ doanh thu để trả lãi cho khoản nợ nên được chuyển đổi thành doanh nghiệp. Các khoản nợ cụ thể gắn với việc tạo ra một dự án đã định nên được phân ranh giới rõ ràng, và doanh thu từ doanh nghiệp mới nên được dành cho việc trả lãi khoản nợ đó. (c) Các dự án thuộc loại trung gian – với các khoản doanh thu khả quan đáng kể nhưng không đủ để trả lãi và hoàn trả khoản nợ có liên quan – nên được tái cơ cấu thành các doanh nghiệp mới mà chính quyền địa phương cung cấp một khoản trợ cấp hàng năm hay sự hỗ trợ cố định theo giao kèo khác. Tốt nhất công ty mới này là một đối tác công-tư (PPP), đường hướng thịnh hành hiện nay đối với các doanh nghiệp dịch vụ công gắn với sự thúc đẩy hướng tới “quyền sở hữu hỗn hợp” đối với các công ty thuộc sở hữu nhà nước. Khi sự phân loại này hoàn tất, các chính quyền địa phương sẽ hoàn toàn bị cấm vay tiền từ các ngân hàng. Tất cả nợ công sẽ phải được cơ cấu thành trái phiếu đô thị, và được công bố trong ngân sách vốn của chính quyền địa phương mà phải được thảo ra và ban bố cùng với doanh thu vãng lai và ngân sách chi tiêu thường xuyên.

4. Các hợp đồng cho vay hiện có đối với các dự án đang thực hiện sẽ tiếp tục được tuân thủ, miễn là chúng được phê duyệt đầy đủ trước ngày 30/9/2014. Các hợp đồng cho vay sẽ không được ký lại sau khi hoàn thành, và vào cuối năm 2015, tất cả các dự án công phải được cấp vốn bởi trái phiếu đô thị của chính quyền địa phương. Sau khi kết thúc năm 2015, các thực thể tài trợ của chính quyền địa phương sẽ không được vay tiền từ các ngân hàng nữa.
5. Giá của khoản nợ của doanh nghiệp hay của tỉnh nên được xác định bởi thị trường. Các chính quyền địa phương không nên bảo lãnh cho khoản nợ của các chính quyền cấp dưới. Các hệ thống trách nhiệm giải trình và đánh giá việc thực hiện sẽ được giới thiệu cho các quan chức của chính quyền, đặc biệt là ở cấp tỉnh.

Đây là một đề án táo bạo và thấu đáo một cách đáng chú ý. Quả thực, có những rủi ro lớn khi thực hiện vì đề án này có thể đòi hỏi quá khắt khe về mặt tuân thủ, và có phần gây rắc rối về tác động kinh tế của nó. Các chính quyền địa phương vào tháng 10 đã được yêu cầu kiểm kê các khoản nợ của họ tính đến cuối năm và báo cáo chúng trước ngày 5/1. Việc tuân thủ lịch trình này không thực sự thực tế, và chỉ có duy nhất một tỉnh, Hải Nam, đã được phê duyệt để công bố các số liệu nợ của tỉnh này vào cuối tháng 2. Trong trường hợp này, các nhà bình luận cho rằng các con số của Hải Nam đã được chấp thuận để công khai không phải vì chúng chính xác, mà vì chúng không thể hiện bất cứ sự thiếu sót lớn nào: tổng nợ không lớn so với GDP của tỉnh, và tỷ lệ tăng trưởng nợ là chấp nhận được. Hải Nam đã báo cáo rằng nợ địa phương của tỉnh này tăng 22% từ giữa năm 2013 đến cuối năm 2014, và 84% số nợ thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương, với việc chính quyền sở hữu nhiều cấp độ nợ tiềm ẩn khác nhau đối với 16% còn lại. Không có phần nào trong số nợ này có thể được chuyển đổi thành nợ doanh nghiệp trong ngắn hạn. Sự công bố những số liệu về nợ nần của tỉnh này do vậy mang tính phát hiện đáng kể. Những sự chậm trễ cho thấy rằng các chính quyền địa phương đang chịu áp lực lớn về thời gian, và quả thực có thể đang cố tình lần chần thực hiện một biện pháp mà chắc chắn là không phục vụ các lợi ích của họ. Ngoài ra, thực tế rằng mức tăng trưởng nhanh chóng 22% của nợ chính quyền Hải Nam đã được xem là ở chừng mực chấp nhận được cho thấy rằng các chính quyền địa phương có động cơ để đưa ra một con số lớn tới mức có thể về số nợ mà họ thừa nhận. Nếu họ phải chấp nhận một mức trần nợ mới, nó phải càng cao càng tốt, và các chính quyền địa phương có lẽ có thể giả định rằng Bộ Tài chính sẽ hợp tác trong việc giúp đỡ họ tái cơ cấu và liệt khoản nợ này vào ngân sách vốn của chính quyền địa phương. Bộ Tài chính do vậy đang đấu tranh nhằm áp đặt các giới hạn đối với khoản nợ mới của chính quyền địa phương mà không thừa nhận – và chấp nhận trên thực tế – các cấp độ cao quá mức của khoản nợ hiện có.

Các quyền về đất đai nông nghiệp

Các quyền sở hữu đối với đất đai rất phức tạp tại Trung Quốc, nhất là vì các quyền sở hữu được chia thành hai chế độ hoàn toàn khác nhau tại các khu vực thành thị và nông thôn. Có nhiều khía cạnh trong đó sự thay đổi trong hệ thống đất đai chậm hơn mong đợi từ Hội nghị trung ương 3, đặc biệt là trong các thủ tục chuyển đổi đất đai nông thôn thành đất đai gắn với các quyền phát triển đô thị. Tuy nhiên, trong một khía cạnh đã có một bước đột phá lớn. Vào ngày 20/11/2014, Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) và Quốc vụ viện đã phối hợp ban hành một văn bản về chính sách đất đai nông thôn. Điều cốt lõi của chính sách này là nhằm chỉ rõ rằng đất đai nông nghiệp có 3 cấp độ quyền sở hữu: quyền sở hữu tập thể cơ bản, chưa từng thay đổi; các quyền hợp đồng đất đai, tồn tại từ việc phân bổ đất đai cho các hộ gia đình vào đầu những năm 1980; và các quyền quản lý đất đai. Các quyền hợp đồng đất đai thuộc về các hộ gia đình riêng lẻ và mang tính ổn định và dài hạn (có nghĩa là các ngôi làng không nên phân bổ lại các quyền hợp đồng hay tước chúng khỏi những người di cư ra bên ngoài). Trái lại, các quyền quản lý đất đai có thể chuyển giao được. Chúng có thể và nên được thuê hay cho thuê, mà không phương hại đến các quyền hợp đồng cơ bản của nông dân. Ngoài ra, các quyền sử dụng đất đai có thể được đóng góp với tư cách là một sự góp vốn vào một tập đoàn nông nghiệp. Sự định rõ đầy mới mẻ các quyền hợp đồng và sử dụng này nên được hiểu trong mối liên hệ với công việc khảo sát và phân loại toàn bộ đất đai – hiện đã được thực hiện tốt ở nhiều khu vực – mà sẽ được hoàn thành trên khắp cả nước trong vòng 5 năm.

Tác động cơ bản của chính sách này là nhằm tạo ra một hệ thống các quyền sở hữu bảo đảm và có thể chuyển giao về đất đai nông nghiệp trên khắp cả nước. Như Zheng Fengtian thuộc Đại học Nhân dân giải thích: “Ngay từ lúc bắt đầu cải cách, bên cạnh quyền sở hữu tập thể mang tính căn bản đối với đất đai nông thôn, các quyền hợp đồng đất đai và các quyền sử dụng đất đai đã thường được gộp lại thành một quyền duy nhất, đó là “các quyền hợp đồng và sử dụng đất”. Nhưng với sự thiết lập ba cấp độ quyền sở hữu, nông dân có thể thoải mái chuyển giao các quyền sử dụng đất của họ, nhận tiền thuê, và không phải lo lắng về việc mất các quyền hợp đồng của họ đối với đất đai”. Sự thay đổi quan trọng này xuất hiện trong Văn kiện Số 1 năm 2015 của Đảng, mà theo truyền thống là dành cho chính sách nông thôn. Văn bản dài dòng này bao gồm nhiều chủ đề về lợi ích, và đề cập đến chính sách quyền sở hữu mới một cách gián tiếp nhưng không thể nhầm lẫn. Mục 22, có tên là “cải cách hệ thống các quyền sở hữu trong các tập thể nông thôn” nói rõ rằng trọng tâm nên đặt vào “kiên quyết và thực sự tiến hành việc xác định các quyền, đăng ký và phát hành chứng nhận (tức là giấy tờ xác nhận quyền) đối với các quyền hợp đồng và quản lý” đất đai và các dạng vốn tài nguyên thiên nhiên khác. Điều này nên được đọc song song với Mục 28 về pháp trị, nói rằng “sửa đổi các luật về hợp đồng đất đai nông thôn nhằm chỉ rõ một cách cụ thể rằng các quan hệ hợp đồng đất đai hiện có là ổn định, lâu dài và bất biến; nhằm phân định rõ mối quan hệ 3 chiều giữa quyền sở hữu tập thể, các quyền hợp đồng của hộ gia đình nông thôn và các quyền quản lý đất đai; và nhằm bảo đảm và bảo vệ các quyền của phụ nữ nông thôn đối với những lợi ích từ việc hợp đồng đất đai”.

Do đây là một sự thay đổi chính sách quan trọng, sự hiện diện của nó trong văn kiện Số 1, và trong sự tuyên truyền của Chính phủ Trung Quốc nói chung kém nổi bật. Bằng chứng ở đó rất rõ ràng, nhưng độc giả thông thường sẽ không chú ý đến sự thay đổi này. Dường như không hề có bất cứ bài bình luận nào trên báo chí tiếng Anh. Tại sao sự thay đổi chính sách này lại được đề cập một cách dè dặt? Câu trả lời có thể nằm ở thực tế rằng việc cải thiện các quyền sở hữu đất đai nông thôn từ lâu đã là một vấn đề gây tranh cãi rất nhiều tại Trung Quốc, và các nhà cải cách có thể thích né tránh cuộc tranh luận này hơn. Hầu hết các nhà kinh tế theo định hướng thị trường ủng hộ mạnh mẽ việc tăng cường các quyền đất đai, vì điều này sẽ mang lại cho nông dân khả năng sử dụng các quyền đất đai của họ theo các cách đa dạng (bao gồm cho thuê, thế chấp và sử dụng để ký quỹ) và sẽ đem lại các động cơ thích đáng để tái cấu trúc nông nghiệp theo các hướng hiệu quả hơn. “Những người cánh tả” phản đối mạnh mẽ quyền sở hữu đất đai tư nhân, lập luận rằng nó vi phạm một trong những thỏa ước trung tâm của chủ nghĩa xã hội. Quan trọng hơn, sự tư nhân hóa các quyền đất đai từ lâu đã bị phản đối bởi Chen Xiwen, nhà kinh tế học về chính sách nông thôn có ảnh hưởng nhất. Chen có uy tín cá nhân cao với tư cách là người hiểu rõ nền kinh tế nông thôn và đã dành cuộc đời của ông để giải quyết các vấn đề về chính sách nông thôn. Ngoài ra, ông giữ vị trí cán bộ/cố vấn chủ chốt với tư cách là chánh văn phòng Tiểu ban Chỉ đạo Công tác Nông thôn của Đảng (và kiêm phó chánh văn phòng Tiểu Ban Chỉ đạo Tài chính và Kinh tế). Chen Xiwen từ lâu đã lo ngại rằng với sự tư hữu hóa đất đai, tư bản thương mại sẽ mua hết đất đai và nhiều nông dân nghèo sẽ mất đi sự bảo vệ quyền sở hữu đất đai, đại diện cho “an sinh xã hội” cơ bản của họ.

Chính sách hiện hành rõ ràng là một sự thỏa hiệp, nhưng là một sự thỏa hiệp mà đã thành công mang Chen Xiwen gia nhập phe ủng hộ thị trường, cho phép ông ủng hộ một chính sách mà thực sự chú ý đến các quyền sử dụng đất đai có thể chuyển đổi. Dấu hiệu không thể nhầm lẫn của sự thỏa hiệp chính sách này là cam kết để một giai tầng có “các quyền hợp đồng” về cơ bản không thể thay đổi, điều sẽ trở thành một dạng quyền sở hữu ngầm mà các nông dân khó thờ ơ. Trong dài hạn, điều này có thể là một điều khoản khá rắc rối: liệu sẽ có một giai cấp cố định gồm những người trước đây là nông dân mà nhận các phiếu trợ cấp, thu lợi từ những nông trại họ đã từ bỏ hàng thế hệ trước đó không? Trong bất cứ trường hợp nào, các điều kiện ở các khu vực nông thôn của Trung Quốc đang thay đổi một cách nhanh chóng và các chính sách mới chắc chắn là không thể bị hoãn lại lâu hơn. Hầu hết các nông dân trẻ tuổi đã rời bỏ đất đai, và hầu hết thu nhập của nông thôn không còn xuất phát từ nghề nông nữa. Các thể chế phải bắt kịp với thực tế đã thay đổi của nông thôn, và chính sách mới này đã tạo ra chỗ trống để thỏa hiệp cho phép sự đồng thuận giữa các giới tinh hoa chính sách. Dĩ nhiên là, phe cánh tả phản đối cải cách định hướng thị trường sẽ tiếp tục phản đối những biện pháp như vậy. 
Hội nghị APEC ở Bắc Kinh: bệ phóng cho một loạt biện pháp cải cách thương mại

Trung Quốc là chủ nhà của Hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo APEC từ ngày 9-12/11/2014. Sự kiện được sắp đặt vô cùng cẩn thận này đã tạo ra nhiều kết quả đáng đưa lên mặt báo, bao gồm cả những khoảng trời đẹp đẽ một cách giả tạo “APEC Blue”, một cái bắt tay giữa Tập Cận Bình và Shinzo Abe, và thỏa thuận giữa Trung Quốc và Mỹ để cùng nhau ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong những lời phát biểu khai mạc của ông, Tập Cận Bình đã đưa ra một tuyên bố rõ ràng rằng “mở cửa mang đến tiến bộ, đóng cửa dẫn tới trì trệ”. Rõ ràng là trong một hoàn cảnh được lên sẵn kịch bản như vậy, chúng ta nên thận trọng khi diễn giải các hiệp định kinh tế và các sáng kiến chính sách đa dạng vốn được sắp đặt để đưa ra tin tức tích cực khi sự chú ý của thế giới tập trung vào Trung Quốc và đặc biệt là vào Tập Cận Bình. Ngay cả vậy, những sáng kiến hướng ngoại được công bố vào thời điểm Hội nghị thượng đỉnh APEC có tầm quan trọng lũy tích và cho thấy một gói cải cách lớn.
Vị trí cao quý nên dành cho hai hiệp định thương mại tự do (FTA) mà đã nhận được sự thúc đẩy cuối cùng hướng tới sự hoàn thiện quanh thời điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh này (và kể từ đó đã được ký tắt và chờ phê chuẩn). Phải thừa nhận là FTA Hàn-Trung là một FTA tương đối “cấp thấp”, có nghĩa là nhiều sản phẩm bị loại trừ và thời gian tiến hành là tương đối dài (trong một số trường hợp là 20 năm). Tuy nhiên, do những tương tác mật thiết giữa hai nền kinh tế này, nó sẽ vẫn có tác động quan trọng. FTA Australia-Trung có thể được cho là có tầm quan trọng thậm chí còn lớn hơn trong dài hạn. Nó là một FTA “cấp cao hơn” có nghĩa là nó mở rộng sang nhiều lĩnh vực dịch vụ hơn, và bao gồm những điều khoản quan trọng đối với sự hài hòa về quản lý và giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, Trung Quốc đã trao cho Australia vị thế “tối huệ quốc” trong hiệp định này, có nghĩa là bất cứ sự nhượng bộ nào hơn nữa được đưa ra trong các hiệp ước thương mại khác sẽ được tự động mở rộng cho các công ty Australia. Quả thực, chính thực tế rằng hai FTA này rất khác biệt có nghĩa là chúng (cùng với các hiệp định với Hong Kong và Đài Loan) sẽ thúc đẩy Trung Quốc hướng tới sự mở cửa rộng hơn. Các lĩnh vực nhạy cảm của Trung Quốc chẳng hạn như tài chính và nông nghiệp sẽ đối mặt với sự cạnh tranh tăng lên. Tầm quan trọng của những hiệp định này đã được nhấn mạnh khi Bộ trưởng Thương mại công bố trong buổi họp báo của ông vào ngày 7/3 tại Quốc hội rằng ưu tiên hàng đầu cho năm 2015 là nâng cấp FTA Trung Quốc-APEC hiện có và sau đó tiếp tục theo đuổi FTA Trung-Hàn-Nhật, mà gần đây đã bị gác lại do những căng thẳng chính trị giữa 3 nước.

Vào ngày 17/11/2014, 5 ngày sau khi Hội nghị cấp cao APEC kết thúc, Liên kết Chứng khoán Thượng Hải-Hong Kong đã mở ra. Đây là một chương trình cho phép các nhà đầu tư ở mỗi nơi mua bán các chứng khoán trên thị trường kia thông qua các công ty đăng ký trên thị trường trong nước của họ. Không có sự hạn chế nào đối với những người tham gia tại Hong Kong, vì thế những người nước ngoài có thể tham gia (những người Trung Quốc tham gia phải có tài khoản tối thiểu là 500.000 NDT). Chương trình này thực tế đã tăng gấp đôi hạn ngạch hiện có đối với đầu tư nước ngoài trên thị trường Thượng Hải; về cơ bản hơn, nó có nghĩa là lần đầu tiên một cá nhân nước ngoài có thể mua bán các chứng khoán riêng lẻ trên thị trường Thượng Hải. Ngoài ra, khi những phê chuẩn về quản lý diễn ra suôn sẻ, nó cho phép việc mua bán trực tiếp các quỹ đầu tư chung, các quỹ hoán đổi danh mục (ETF) và các sản phẩm nhân tạo khác. Nó là một bước quan trọng trong sự mở cửa chậm mà chắc thị trường vốn của Trung Quốc.

Ngay sau Hội nghị cấp cao APEC, một nỗ lực đã được đưa ra nhằm xác định lại và mở rộng Khu thương mại tự do (FTZ) Thượng Hải. Vào tháng 1/2015, người ta đã thông báo rằng tổng cộng 4 FTZ (bao gồm Thượng Hải) sẽ đi vào vận hành vào tháng 3, với nhiều trong số đó được mở rộng về quy mô và phạm vi. FTZ Quảng Đông sẽ bao phủ khoảng 120 km2 trong quận Nam Sa thuộc Quảng Châu, quận Tiền Hải tại Thâm Quyến và quận Hoành Cầm ở Chu Hải. FTZ Phúc Kiến sẽ sử dụng các mối liên hệ thân thiết của nó với Đài Loan để phát triển các quan hệ đối tác thương mại và kinh tế xuyên eo biển trong các ngành dịch vụ sản xuất và các lĩnh vực dịch vụ cao cấp. FTZ Thiên Tân được mong đợi sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự hội nhập kinh tế nhờ hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc. Nó sẽ chú trọng vào sự phát triển trong các ngành công nghiệp đang nổi lên, tài chính và các lĩnh vực dịch vụ cao cấp. Bốn FTZ này sẽ có chung một “danh sách từ chối”, thời hạn đưa ra là giữa năm 2015. 

Về bản chất, mỗi bước trong số những bước này đều bị hạn chế. Trong mỗi lĩnh vực chính sách, có những sự thiếu sót trong đề cương chính sách, và việc thi hành vẫn rất khó khăn. Đặc biệt là, các FTZ đã quá cẩn trọng và đôi khi không gắn kết lắm, và sự bổ sung thêm 3 FTZ mới hầu như không có khả năng thay đổi điều này. Tuy nhiên, các chính sách có chung một mục tiêu cuối cùng và một tác động lũy tích. Mục đích là nhằm mở cửa dần các thị trường cho các khu vực dịch vụ cao cấp. Đường hướng tiệm tiến trong trường hợp này được dự kiến mang lại cho các công ty và các quan chức Trung Quốc kinh nghiệm mà sẽ khiến họ trở nên cạnh tranh hơn. Kinh nghiệm được tìm kiếm thuộc nhiều loại: kinh nghiệm đáp ứng sự cạnh tranh trực tiếp của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài; kinh nghiệm cho các công ty Trung Quốc về việc vận hành một phiên bản nhà kính của thị trường quốc tế trong các FTZ; kinh nghiệm cho các nhà quản lý Trung Quốc trong việc hoạt động theo những cách nhất quán với thực tiễn quốc tế. Hai loại kinh nghiệm đầu tiên chỉ là những sự mở rộng kinh nghiệm của Trung Quốc với WTO: các công ty Trung Quốc đã nhanh chóng học hỏi được rằng họ có thể cạnh tranh với các công ty nước ngoài. Loại kinh nghiệm cuối cùng cho thấy quyết tâm của Trung Quốc muốn xem xét các hiệp định thương mại rộng hơn chẳng hạn như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiện đang trong tiến trình đàm phán giữa Mỹ và nhiều đối tác thương mại của nước này ở Thái Bình Dương. Việc Trung Quốc có tham gia TPP hay không vẫn chưa rõ ràng; tuy nhiên, điều ngày càng có khả năng xảy ra là Trung Quốc sẽ hoặc xem xét TPP hoặc theo đuổi các hiệp ước thương mại cạnh tranh mà cũng bao gồm một số dạng hội nhập sâu, tức là, phối hợp ban hành luật lệ quản lý và các luật lệ trong nước khác. Các biện pháp được thực hiện sau Hội nghị cấp cao APEC tuy vậy không cho thấy một con đường gắn kết dẫn tới mục tiêu này, nhưng chúng rõ ràng chỉ ra khao khát đó, trong khi cũng đưa Trung Quốc tiến thêm một vài bước theo đúng hướng.

Cũng có liên quan, nhưng trong một phạm trù tách biệt, là tiến bộ đạt được tại cuộc họp của APEC về Hiệp định Công nghệ Thông tin (ITA), bao gồm việc nhập khẩu và xuất khẩu miễn thuế phần cứng công nghệ thông tin. Mỹ và Trung Quốc đã công bố một bước đột phá trong mức độ rộng rãi mà Trung Quốc sẵn lòng chấp nhận. Điều này đặc biệt quan trọng, vì đây là một lĩnh vực trong đó các nhóm lợi ích trong nước ở Trung Quốc gắn bó với những những ưu tiên cao nhất của nhà nước về phát triển kinh tế và an ninh quốc gia. Thực tế rằng Chính quyền Tập Cận Bình đã sẵn coi thường một số trong các nhóm lợi ích đó để theo đuổi một hiệp định với Mỹ là một tín hiệu quan trọng về cách Tập Cận Bình xem xét chính sách kỹ thuật-công nghiệp của chính phủ và việc ông sẵn lòng sửa đổi nó. Đồng thời, điều này cũng bộc lộ tính phức tạp và nan giải của một số vấn đề này. Bất chấp hiệp định Mỹ-Trung, tiến trình về ITA vẫn ngừng lại, trớ trêu thay, do những sự phản đối từ Đài Loan và Hàn Quốc về một số điều khoản. Nhìn chung, điều kiện thị trường đối với các công ty công nghệ cao của Mỹ tại Trung Quốc chắc chắn là chưa cải thiện: quả thực những mối nghi ngờ về gián điệp và an ninh mạng đã góp phần làm xấu đi đáng kể các quan hệ và tạo ra những rào cản cao hơn cho các công ty Mỹ trên các thị trường công nghệ của Trung Quốc so với trước đây. Không gì có thể minh họa rõ hơn những nguy cơ của giai đoạn hoạch định chính sách hiện nay. Một mặt, Chính phủ Trung Quốc rõ ràng đã tiến hành các bước để chấp nhận sự mở cửa lớn hơn trong các khu vực dịch vụ cao cấp quan trọng mà sẽ là trọng tâm phát triển kinh tế chính trong tương lai tại Trung Quốc (và trên thế giới). Mặt khác, sự chú trọng tăng lên đối với an ninh quốc gia và những căng thẳng với Mỹ được đẩy lên cao đe dọa làm đảo lộn những bước này và củng cố một sự thúc đẩy chế độ bảo hộ nền công nghiệp trong nước vốn rất mạnh mẽ trong những năm gần đây. 
Có tồn tại một “Mô hình Tập Cận Bình” về cải cách kinh tế không?

Một loạt đặc điểm quan trọng của quá trình cải cách kinh tế dưới thời Tập Cận Bình hiện giờ đang nổi lên. Trong khi có thể quá sớm để gán cho những điều này là một mô hình cải cách của Tập Cận Bình, những đặc điểm này đủ nổi trội, và đủ gây sửng sốt, để biện minh cho một nỗ lực nhằm đề cập chúng tại đây. Việc xác định xem liệu đây có phải là một mô hình cải cách kinh tế tốt hay không phải hoãn lại chờ một nỗ lực sau này. Cho đến nay, những nỗ lực cải cách kinh tế của Tập Cận Bình đã được đặc trưng bởi những đặc điểm sau:

1. Cải cách từ trên xuống dưới và sự hành động theo ý muốn được duy trì ở cấp cao nhất.

Về một ý nghĩa nào đó, toàn bộ những chính sách của Tập Cận Bình liên quan đến việc tập trung quyền lực ở vị trí cao nhất của hệ thống cấp bậc chính trị, và các cải cách kinh tế đang nổi lên không phải là ngoại lệ. Các cải cách kinh tế do đó là phần của một dự án cải cách mang tính độc đoán rộng lớn hơn, được thiết kế để một lần nữa khích lệ các thể chế và tái sinh hệ tư tưởng, nhưng với mục tiêu không nao núng là củng cố hệ thống này, mà được dự định vẫn mang tính độc đoán. Bản chất độc đoán của dự án cải cách chắc chắn là lan sang một số yếu tố cải cách cụ thể. Điều này rõ ràng nhất trong lĩnh vực tài khóa. Với sự ủng hộ của trung ương, Bộ trưởng Tài chính Lâu Kế Vỹ đang theo đuổi một chương trình mà sẽ hạn chế cách cư xử tự do trước đây của các chính quyền địa phương, và có lẽ cuối cùng sẽ cắt giảm đáng kể các nguồn tài chính sẵn có với các chính quyền địa phương. Rõ ràng là, điều này ngụ ý rằng chính quyền trung ương cũng sẽ tiếp quản thêm các trách nhiệm chi tiêu, điều vẫn chưa được vạch ra. Bất chấp lời nói đãi bôi được đưa ra cho sự thử nghiệm của địa phương trong các chương trình như FTZ Thượng Hải, chúng ta đang rất xa rời hình thái trong những ngày đầu của cải cách kinh tế (trong những năm 1970 và 1980) mà trong đó các hành động từ dưới lên trên của các bên tham gia mới được trao quyền ở địa phương là các yếu tố tác động then chốt của quá trình cải cách. Cho đến nay, các chính quyền địa phương ít là các bên tham gia hơn và bị tác động nhiều hơn, cảm thấy ảnh hưởng của cả chiến dịch chống tham nhũng lẫn các cải cách kinh tế được công bố cho đến nay.

2. Không có bản kế hoạch cải cách nào. Thay vào đó, có một loạt thể chế và quá trình do trung ương thiết kế tạo ra các kết quả cải cách.

Điểm thứ 2 này có thể gây nhiều chú ý, do ngay cả trước khi nhậm chức, Tập Cận Bình đã tán thành quan điểm cho rằng nên có một “bản đề cương cấp cao nhất” về cải cách kinh tế, và Hội nghị trung ương 3 đã tuyên bố rằng chương trình cải cách tổng thể của mình sẽ được hoàn tất vào năm 2020. Tuy nhiên, viễn cảnh được hiện thực hóa vào năm 2020 vẫn vô cùng u ám (chẳng hạn, về cải cách doanh nghiệp nhà nước) và các nhóm khác nhau trong xã hội Trung Quốc có các quan niệm rất khác nhau về cái mà nó bao hàm. Trong một chừng mực nhất định, sự thiếu vắng một bản kế hoạch cải cách phát sinh từ bản chất thứ bậc từ cao đến thấp và độc đoán của dự án cải cách. Một bản kế hoạch cải cách rõ ràng sẽ giới hạn các phương án lựa chọn của nhà lãnh đạo, và điều này sẽ không nhất quán với sự chú trọng của Tập Cận Bình vào việc duy trì sáng kiến và hành động theo ý muốn của cấp cao nhất. Thay vì cam kết với một bản kế hoạch, Tập Cận Bình đã thiết lập các tổ chức mới – do ông đứng đầu – mà vẫn giữ lại thẩm quyền thực thi tùy theo ý mình đối với các cải cách. Quan trọng nhất trong số này là Tiểu ban Lãnh đạo (LSG) Cải cách Sâu sắc Toàn diện, được mô tả trong số phát hành trước của tờ Monitor. Tiểu ban này đưa ra một cơ chế mang tính thể chế đảm bảo duy trì sức ép chính trị và thúc đẩy các cải cách trên nhiều mặt trận. Tuy nhiên, tiểu ban lãnh đạo này không ban hành, và có thể cũng không có những mục tiêu rõ ràng đối với tình trạng cuối cùng của cải cách mà họ hình dung. Thay vào đó, các cải cách được thông qua “vì chúng đủ độ chín”, theo các thủ tục và tiêu chí được đặt ra bởi ban lãnh đạo tối cao. Do vậy, trong một lĩnh vực như cải cách doanh nghiệp nhà nước, mà mọi người đều đồng ý là rất quan trọng, nhưng khi không có sự đồng thuận về mục tiêu, mọi dấu hiệu đều cho thấy rằng nó khá làm nản lòng đối với ban lãnh đạo cải cách.

Thực tế rằng không có “đề cương cấp cao nhất” nào cho cải cách, trong khi chính thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng, điều đó cho thấy rằng nó rõ ràng đã được định nghĩa lại. Chẳng hạn như, Han Jun, một chuyên gia về kinh tế nông thôn mới được đưa lên làm phó chánh văn phòng của LSG Cải cách Toàn diện gần đây đã tuyên bố rằng “một loạt chính sách đề cương cấp cao nhất đã lần lượt được công bố”, một khái niệm hoàn toàn phá vỡ ý tưởng ban đầu về việc nhìn chung chỉ có một đề cương cấp cao nhất về cải cách.

3. Các sáng kiến cải cách cụ thể có khả năng thay đổi, bất ngờ, đôi khi hấp tấp và không thể dự đoán.

Tiến bộ trong cải cách có khả năng trọn vẹn và nhanh chóng một cách đáng ngạc nhiên trong các lĩnh vực nhất định, vì hiện đã đặt được nền móng cho sự hành động nhanh chóng. Các thành tựu sẽ nổi lên khi những sự bổ sung giữa các chính sách trở nên rõ ràng (như có khả năng xảy ra với việc mở cửa và cải cách tài chính); khi các nhà kỹ trị được phép giữ vai trò lãnh đạo, việc xây dựng trên cơ sở những thành tựu trước đó; và trong những lĩnh vực mà cam kết chính trị của các lãnh đạo cấp cao, đặc biệt là Tập Cận Bình, tập trung vào một lĩnh vực được xem là quan trọng đối với thanh thế của quốc gia. Ngoài ra, phạm vi kiểm soát của Tập Cận Bình về cơ bản là không bị giới hạn: các quyết định về các vấn đề có tính phức tạp cao đang được trình lên ông hàng ngày để có được sự sắp xếp cuối cùng. Trong tình huống này ông chắc chắn sẽ dành ưu tiên cho các quyết định rõ ràng và nhanh chóng, mà đôi khi sẽ được đưa ra vội vàng. Trái lại, khó dự đoán các cú sốc kinh tế có thể làm rung chuyển cam kết chính sách với cải cách, nếu các cải cách được xem là đầy rủi ro hay đe dọa tới an ninh của Trung Quốc. Tính không thể dự đoán được của cải cách kinh tế bắt nguồn từ thực tế rằng nó chỉ là một yếu tố trong mớ những thay đổi chính sách đầy tham vọng của Tập Cận Bình. Không nghi ngờ gì, trong dài hạn, Trung Quốc không thể hy vọng trở thành một nước lớn mà không thúc đẩy các cải cách kinh tế; tuy nhiên, trong ngắn hạn, Tập Cận Bình có nhiều mục tiêu khác và sẽ liên tục bị cám dỗ hy sinh các cải cách kinh tế cho các mục tiêu cạnh tranh.

4. Các yếu tố quan trọng của chương trình cải cách có khả năng sẽ “không lộ ra”.

Trong 3 lĩnh vực được thảo luận ở đây, 2 lĩnh vực đã bị các nhà hoạch định chính sách xem nhẹ. Chúng không xuất hiện nhiều trong tuyên bố tại Hội nghị trung ương 3, và chúng không gây chú ý nhiều trong giới truyền thông trong nước hay quốc tế. Vì những chính sách này có thể được các nhà kỹ trị thực hiện từ trên xuống dưới, chính quyền này không cần thiết phải vận động sự ủng hộ của người dân đối với chúng, và có thể dễ dàng né tránh tranh cãi và giảm bớt sự phản đối.
5. Mở cửa kinh tế sẽ đóng một vai trò quan trọng trong chương trình cải cách đang nổi lên.

Những tham vọng nước lớn của Tập Cận Bình rõ ràng là một yếu tố tác động lớn đối với những ưu tiên chính sách của ông, và điều này cũng đúng với các cải cách kinh tế. Do vậy, trong một chừng mực nhất định, chương trình nghị sự cải cách là “con tin” của một môi trường kinh tế quốc tế mở cửa vừa phải, và sự hợp tác cũng như sự cạnh tranh giữa các đối thủ. Có một sự mâu thuẫn sâu sắc giữa chủ nghĩa dân tộc kiên định trong đường hướng chính sách của Tập Cận Bình và một sự mở cửa thực sự. Sự mâu thuẫn này rất rõ ràng trên các vũ đài hệ tư tưởng và thương mại, nhưng hiện gay gắt nhất đối với chính sách công nghệ. Không ai có thể dự đoán kết quả cuối cùng của những căng thẳng và mâu thuẫn sâu sắc này, những điều mà có thể dai dẳng trong hàng thập kỷ. Một sự kiện kinh tế hoặc an ninh “từ bên ngoài”, hay một sự tuyệt giao đột ngột của Trung Quốc với các lập trường chính sách đối ngoại mang tính hợp tác hơn gần đây của nước này, có thể đẩy các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc (tức là, Tập Cận Bình) ra khỏi chương trình nghị sự cải cách. Trái lại, một sự cải thiện các điều kiện toàn cầu sẽ làm gia tăng tính hấp dẫn của một chương trình nghị sự cải cách mà cho phép sự hội nhập lớn hơn với nền kinh tế thế giới.

Năm đặc điểm của mô hình Tập Cận Bình đang nổi lên này nên được xem là những đóng góp hết sức sơ bộ cho một sự tranh luận mà sẽ diễn ra trong nhiều năm. Chúng ta chỉ có thể bắt đầu hình dung ra những ảnh hưởng sẽ là gì. Một chế độ độc tài can dự vào một dự án cải cách mạnh mẽ rất khác với một chế độ độc tài không có khả năng tự mình cải cách, nhưng nó cũng rất khác với một xã hội tự tái tạo từ dưới lên trên trong một quá trình cải cách và mở cửa rộng rãi. Cả hai sự khác biệt đó cần phải được tạo ra. Đường hướng của Tập Cận Bình có thể rất hiệu quả đối với việc bắt đầu cải cách, khi sự nhấn mạnh chắc chắn phải đặt vào việc chiến thắng các nhóm lợi ích và tạo ra các phương án thay thế mới. Tuy nhiên, rõ ràng là nó ít giống với một chiến lược nhằm củng cố cải cách hơn, tức là, nhằm tạo ra các thể chế mới giải phóng các lực lượng sản xuất của nền kinh tế, hạn chế một cách chắc chắn bàn tay của chính phủ và đóng góp vào việc thiết lập một xã hội công bằng và sáng tạo./.

Theo Tạp chí China Leadership Monitor

Thùy Anh (gt)