Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc phản đối tàu chiến Mỹ áp sát Hoàng Sa. Tại họp báo thường kỳ ngày 7/1, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng cho biết: “Ngày 7/1, tàu quân sự Mỹ McCampbell chưa được sự cho phép của Trung Quốc tự ý đi vào vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Phía Trung Quốc lập tức cử tàu và máy bay quân sự nhận diện và cảnh cáo xua đuổi theo quy định pháp luật. Trung Quốc đã giao thiệp nghiêm túc với phía Mỹ về việc này. Hành động liên quan của phía Mỹ đã vi phạm pháp luật Trung Quốc và luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền Trung Quốc. Trung Quốc kiên quyết phản đối hành vi của phía Mỹ và hối thúc Mỹ lập tức dừng các hành động khiêu khích như vậy”.

Su-35 của không quân Trung Quốc huấn luyện tại Biển Đông. Ngày 5/1, một Lữ đoàn không quân thuộc Chiến khu miền Nam Trung Quốc đã tiến hành bay huấn luyện với máy bay chiến đấu Su-35 tại Biển Đông. Lãnh đạo Lữ đoàn trên cho biết việc bay huấn luyện tuần tra nhằm thực hiện lệnh động viên huấn luyện năm mới của Quân ủy Trung ương Trung Quốc và tích cực đẩy nhanh nâng cấp năng lực thực chiến của Lữ đoàn sau khi được trang bị Su-35.

Đài Loan bắn tín hiệu ủng hộ Anh lập căn cứ ở Biển Đông. Trả lời câu hỏi của tờ Sunday Telegraph rằng Đài Loan có ủng hộ sự hiện diện của một căn cứ quân sự Anh ở khi vực hay không, Người đứng đầu Chính quyền Đài Loan Thái Anh Văn hôm 5/1 cho hayg Đài Loan hoan nghênh mọi hành động có ích cho việc duy trì hòa bình ở Biển Đông, cũng như duy trì quyền tự do đi lại trong khu vực. Theo bà Thái Anh Văn, nếu việc Anh lập căn cứ quân sự có ích cho hai mục tiêu trên, Đài Loan “sẽ có thái độ cởi mở với sự hiện diện của Anh”. Trong năm 2018, London từng triển khai ba chiến hạm: HMS Sutherland, HMS Albion và HMS Argyll tới Châu Á - Thái Bình Dương.

+ Việt Nam:

Việt Nam lên tiếng việc tàu Mỹ đi qua quần đảo Hoàng Sa. Ngày 9/1, trả lời câu hỏi phóng viên về việc tàu USS McCampbell của Mỹ đã đi qua khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế. Với tư cách là quốc gia thành viên UNCLOS năm 1982 và là quốc gia ven Biển Đông, Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông của các quốc gia, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, cụ thể là UNCLOS năm 1982.”

+ Philippines:

Cựu Ngoại trưởng Philippines đề xuất tham vấn với Việt Nam về COC. Cựu Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã đề xuất một cuộc tham vấn chung giữa Philippines và Việt Nam về những điều khoản chính của bản dự thảo COC ở Biển Đông. Ông Rosario cho rằng đây là cơ hội chia sẻ quan điểm và đánh giá về COC, từ đó dẫn đến một kế hoạch hành động thống nhất có lợi cho cả hai nước lẫn các nước khác trong khu vực. Theo cựu Ngoại trưởng Rosario, các đề xuất của Việt Nam về COC cần được ủng hộ toàn diện, không chỉ từ Philippines, mà phải cả khối ASEAN. Nếu đạt được sự đồng thuận này, ASEAN sẽ cho thế giới thấy tổ chức này sẵn sàng bảo vệ vai trò trung tâm, không để bị bắt nạt hay mua chuộc.

Nghị sĩ Philippines khuyến nghị giám sát dự án khôi phục san hô của Trung Quốc. Hạ nghị sỹ Gary Alejano (Đảng Magdalo) hôm 9/1 cho rằng dự án khôi phục san hô của Trung Quốc có thể là một trong nhiều tính toán nhằm chiếm giữ các thực thể trong khu vực này. Bảo tồn môi trường là mối quan tâm chung và là vấn đề đa phương, Trung Quốc muốn hành động đơn phương cho thấy Trung Quốc rõ ràng không tôn trọng Philippines với tư cách là bên yêu sách chủ quyền lãnh thổ. Hôm 11/1, Hạ Nghị sỹ Gara Alejano cho biết số lượng tàu đánh giá ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông cho thấy cách thức Trung Quốc chiếm đoạt nguồn lợi thủy sản từ người Philippines trên chính lãnh thổ của Philippines.

Philippines “tố” quân đội Trung Quốc ngụy trang thành ngư dân tại Trường Sa. Tờ PhilStar dẫn lời một quan chức quốc phòng Philippines ngày 12/1 cho biết, “Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã cử người và tài trợ tiền cho lực lượng dân quân biển cải trang thành ngư dân trên hàng chục tàu dân sự trong khu vực". Trung Quốc tuyên bố sẽ khôi phục các rạn san hô bị hủy hoại do việc xây đảo nhân tạo của nước này ở Trường Sa. Theo quan chức giấu tên trên, hiện chưa rõ sự hiện diện ngày càng tăng của các tàu Trung Quốc có phải là một phần trong nỗ lực khôi phục của nước này hay không. Trong khi đó, Người Phát ngôn Tổng thống Philippines Panelo ngày 15/1 tuyên bố sự hiện diện của lực lượng dân quân trên biển của Trung Quốc ở Trường Sa theo báo cáo của AMTI chỉ là phỏng đoán. Tuy nhiên, quân đội sẵn sàng phản ứng phù hợp với bất cứ mối đe dọa nào ở khu vực tranh chấp. Khi được hỏi chính quyền Philippines sẽ tiến hành điều tra độc lập về thông tin này, ông Panelo tuyên bố Bộ Quốc phòng Philippines đang làm việc này.

+ Mỹ:

Tàu chiến Mỹ USS McCampbell tiến hành FONOP ở Hoàng Sa. Người Phát ngôn Hạm đội Thái Bình Dương Rachel McMarr cho hay chiến hạm USS McCampbell hôm 7/1 đã tiến hành hoạt động FONOP tại quần đảo Hoàng Sa để “thách thức các yêu sách biển quá mức và bảo vệ quyền tiếp cận các tuyến hải lộ được luật quốc tế quy định”. Tàu USS McCampbell đã tiến vào khu vực 12 hải lý của đảo Cây, Linh Côn và Phú Lâm ở Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam nhưng bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Động thái này diễn ra đúng lúc phái đoàn Mỹ và Trung Quốc bắt đầu cuộc đàm phán hai ngày 7-8/1 ở Bắc Kinh để thảo luận về chiến tranh thương mại giữa hai bên.

+ Nga:

Nga phản ứng trước thông tin Anh định lập căn cứ quân sự ở Đông Nam Á. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga bà Maria Zakharova ngày 11/1 tuyên bố Moscow sẽ có biện pháp đáp trả nếu các căn cứ quân sự mới của Anh ở Đông Nam Á và vùng biển Caribe tạo ra mối đe dọa cho Nga và các đồng minh, “Tất nhiên, như mọi quốc gia khác, Anh có quyền đưa ra kế hoạch phát triển năng lực quân sự của riêng mình. Tuy nhiên, giữa lúc căng thẳng chính trị và quân sự trên thế giới không ngừng gia tăng, tuyên bố về ý định tăng cường sự hiện diện quân sự ở các nước thứ ba là phản tác dụng, gây bất ổn và mang tính khiêu khích”. Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Gavin Williamson cho hay Anh đang lên kế hoạch thiết lập hai căn cứ quân sự mới ở nước ngoài một vài năm tới sau khi rời khỏi Liên minh châu Âu.

Quan hệ các nước

Biên đội tàu chiến Trung Quốc thăm cảng Campuchia 4 ngày. Phó Tư lệnh Hải quân Campuchia Tướng Tea Sokha cho biết 3 tàu chiến Trung Quốc, gồm PLANS WUHU (FFG.529); PLANS HANDA (FFG.579) và PLANS DONGPING LAKE (AOR960) sẽ cập cảng Prek Sihanouk từ ngày 9 - 12/1. Trong thời gian thăm chính thức, nhóm tàu Trung Quốc và tàu Campuchia tại quân cảng sẽ có hoạt động giao lưu thể thao, và huấn luyện chung.

Hội nghị Bộ trưởng “2+2” Pháp - Nhật nhấn mạnh trật tự luật pháp trên biển. Ngày 11/1, Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại giao Pháp - Nhật đã gặp nhau tại Brest, căn cứ hải quân Pháp. Mục đích cuộc họp nhằm thúc đẩy dự án đối tác quân sự đã khởi động cách đây 5 năm. Tuyên bố chung sau hội nghị cho hay bốn bộ trưởng chia sẻ quan điểm rằng cần thúc đẩy hợp tác để duy trì và củng cố khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của trật tự biển dựa trên trên luật pháp, đồng thời phản đối các hành động đơn phương làm gia tăng căng thẳng.

Tàu chiến Mỹ - Anh lần đầu diễn tập ở Biển Đông. Trong một tuyên bố được đưa ra ngày 16/1, quân đội Mỹ cho biết tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS McCampbell và tàu khu trục HMS Argyll của Hải quân Hoàng gia Anh đã tiến hành các hoạt động diễn tập ở Biển Đông từ ngày 11 - 16/1. Sỹ quan chỉ huy lực lượng Mỹ Allison Christy cho biết: "Chúng tôi thường diễn tập với các đồng mình và đối tác khu vực nhưng ít có cơ hội huấn luyện cùng với Hải quân Hoàng gia. Sự tham gia chuyên nghiệp với các đối tác Anh giúp chúng tôi có cơ hội xây dựng quan hệ bền chặt và học hỏi lẫn nhau". Theo phía Mỹ, chưa có hoạt động diễn tập chung như vậy giữa hai bên, ít nhất từ năm 2010.

Phân tích và đánh giá

Tương lai của hải quân Nhật Bản” của David Axe. Chính phủ Nhật Bản ngày 27/11 thông báo kế hoạch nâng cấp 2 tàu khu trục trang bị máy bay trực thăng lớp Izumo thành tàu sân bay để hỗ trợ cho các máy bay tiêm kích tàng hình F-35B. Thông báo này được chính thức đưa ra sau nhiều năm đồn đoán, thậm chí còn trước cả khi tàu khu trục lớp Izumo được đưa vào sử dụng năm 2015. Phát biểu với báo giới, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Takeshi Iwaya nói: "Kể từ khi chúng tôi được trang bị loại tàu này, chúng tôi đã mong muốn sẽ sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau. Chúng tôi muốn đẩy mạnh công tác nghiên cứu và tìm tòi về vấn đề này".

Tokyo được cho là có kế hoạch mua thêm 100 chiếc F-35 để bổ sung cho đơn hàng gồm 42 chiếc máy bay tiêm kích tàng hình đã đặt mua năm 2011. Loạt máy bay F-35 trong đơn hàng đầu tiên của Nhật Bản đều thuộc loại A, cần đường băng thông thường. Lô máy bay mới này sẽ có loại máy bay tàng hình F-35B hạ cánh thẳng đứng, được sử dụng cho các loại tàu chiến với hợp đồng trị giá 8,8 tỷ USD.

Có thể nói, việc nâng cấp 2 tàu khu trục thành tàu sân bay không hề đơn giản. Tàu khu trục lớp Izumo thường quá nhỏ để có thể hoán cải thành tàu sân bay. Hơn nữa, hải quân Nhật không có các hoạt động sử dụng máy bay chiến đấu cất cánh từ tàu chiến kể từ Chiến tranh Thế giới II nên sẽ cần phải đào tạo phi công, nhân viên và những người vận hành để đảm bảo cho hoạt động của tàu sân bay. Tuy nhiên, trên thế giới cũng đã có nhiều nước thành công trong việc cho máy bay cánh cố định hoàn toàn cất cánh từ các tàu chiến nhỏ. Trước hết phải kể tới Italy. Úc đang tranh cãi về việc nâng cấp những tàu khu trục trang bị trực thăng loại nhỏ của họ để có thể cho phép máy bay F-35s cất và hạ cánh.

Hiến pháp Nhật Bản sau chiến tranh cấm quân đội nước này được sở hữu các loại vũ khí mang tính chất tấn công. Trong nhiều thập kỷ qua, lãnh đạo Nhật Bản đều có quan điểm đồng nhất rằng lệnh cấm đó đồng nghĩa với việc lực lượng hải quân không được sở hữu tàu sân bay. Để "né" quy định này, lực lượng hải quân Nhật Bản đã trang bị tàu khu trục mang máy bay trực thăng, trên đó chỉ có nhà chứa máy bay và không có đường băng cất và hạ cánh lớn.

Tàu khu trục lớp Izumo thiếu những loại vũ khí chủ đạo. Đường băng được bố trí từ đầu tàu tới cuối tàu. Trên thực tế, tàu khu trục lớp Izumo và tàu Kaga cùng loại vốn được đưa vào hoạt động từ năm 2017 vẫn chỉ được sử dụng cho máy bay trực thăng. Với chiều dài khoảng 248 m và độ giãn nước khi đầy tải là 27.000 tấn, Izumo và Kaga vẫn là quá nhỏ để nâng cấp thành tàu sân bay khi chỉ có khả năng chứa được 14 máy bay trực thăng. Siêu tàu sân bay của hải quân Mỹ thường có chiều dài hàng nghìn feet và với độ giãn nước lên tới hơn 100.000 tấn. Tàu đổ bộ tấn công của Mỹ vốn được trang bị máy bay trực thăng AV-8B Harrier và F-35s cũng có chiều dài khoảng 850 feet và độ giãn nước lên tới 41.000 tấn.

Tuy nhiên, các tàu chiến của Nhật Bản vẫn chưa phải là loại tàu có trang bị trực thăng bé nhất thế giới. Có thông tin cho rằng "danh hiệu" đó thuộc về chiếc tàu Chakri Naruebet của Thái Lan. Mặc dù chỉ có 600 feet dài và độ giãnnước là 11.500 tấn, song con tàu này được cho là đã được sử dụng hiệu quả cho các loại máy bay trực thăng Harrier cho đến khi chúng "quá tuổi" phải nhập kho năm 2016. Về kích cỡ và khả năng vận hành, tàu khu trục lớp Izumo gần như tương đồng với tàu đô đốc Cavour của Italy với 800 feet dài và độ giãn nước lên tới 30.000 tấn. Tàu Cavour có thể chứa 5 máy bay Harrier cùng với các máy bay lên thẳng. Italy đang mua các loại máy bay F-35B mới để thay thế cho 16 chiếc Harrier. Hãng Lockheed Martin đã thiết kế loại máy bay F-35B để phù hợp với đường băng mà máy bay Harrier đã sử dụng. Trong khi chiếc F-35 chỉ cần một phần đường băng so với Harrier song lại đòi hỏi cao hơn khi động cơ xả nhiệt lớn hơn và đòi hỏi tàu sân bay phải có độ kháng nhiệt đặc biệt cho khu vực cất và hạ cánh.

Thủ tục để cải tạo đường băng của tàu khu trục lớp Izumo là không mấy khó khăn. Vấn đề hóc búa nhất lại là việc cải tạo không gian bên trong con tàu dành cho thủy thủ đoàn, máy móc, nhiên liệu, vũ khí và đặc biệt là nơi đỗ của máy bay F-35. Theo Steve George - chuyên gia của Úc, người đã nghiên cứu về khả năng hoán cái tàu chiến lớp Canberra của Hải quân nước này để sử dụng cho máy bay F-35 (tàu chiến lớp Canberra cũng có chiều dài 760 feet và độ giãn nước 30.000 tấn, kích cỡ tương tự tàu khu trục lớp Izumo của Nhật Bản), khó khăn này vẫn có thể giải quyết được bởi "trong hơn 30 năm qua, Mỹ và Anh (những nước sử dụng máy bay AV-8Bs và Sea Harrier) đã có những thành quả nhất định từ những nền tảng tương tự". Ông nhấn mạnh thêm: "Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, thách thức chủ yếu trong việc thể hiện khả năng không chiến trên biển không phụ thuộc vào trang thiết bị mà phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm chiến đấu".

Điều may mắn đối với Nhật Bản là lực lượng hải quân nước này hiện đang có mối liên minh chặt chẽ với hải quân Mỹ. Ngay khi Tokyo bắt đầu chuẩn bị cho quá trình nâng cấp tàu khu trục lớp Izumo để sử dụng cho máy bay F-35, về lý thuyết, hải quân Nhật Bản có thể gửi phi công, các nhân viên và phi hành đoàn tham gia các khóa huấn luyện cùng với các đối tác Mỹ, vốn đã có kinh nghiệm triển khai hoạt động của máy bay F-35s từ tàu chiến.

Mối quan hệ phức tạp Mỹ-Philippines-Trung Quốc” của Richard Javad Heydarian. Chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Philippines ngày 20-21/11 diễn ra trong bối cảnh khu vực có nhiều bất ổn và mâu thuẫn. Những gì diễn ra tại các hội nghị thượng đỉnh của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đã phản ánh bầu không khí mang hơi hướng chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Trung Quốc. Chuyến thăm Manila của nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không thể tạo ra một liên minh chiến lược như kỳ vọng, mà chỉ phơi bày tham vọng quá hấp tấp của Bắc Kinh trong việc tìm kiếm quyền bá chủ khu vực, một mục tiêu khiến các nước láng giềng lo ngại.

Là đồng minh hiệp ước của Mỹ song cũng là một quốc gia có những do dự nhất định, Philippines nổi lên như một mấu chốt quan trọng trong cuộc cạnh tranh quyền bá chủ khu vực giữa Mỹ và Trung Quốc. Dưới thời Tổng thống Rodrigo Duterte, Philippines đã trở thành công cụ hay tài sản của "nền ngoại giao ngoại biên" của Tập Cận Bình - một chính sách ngoại giao nhằm thu hút các nước láng giềng thông qua các khoản đầu tư lớn. Tuy nhiên, chuyến thăm Philippines lần này của Tập Cận Bình đã không tạo ra bất cứ đột phá lớn nào trong những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm. Thậm chí, tại Philippines còn nổ ra làn sóng phản đối mạnh mẽ ý định thắt chặt quan hệ song phương Trung Quốc-Philippines. Manila đang chơi "nước đôi" một cách thận trọng, và có lẽ sẽ còn lâu mới rơi vào quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc.

Xét trên nhiều khía cạnh, Tập Cận Bình đang phải trả giá cho sự tự tin thái quá. Vài tháng gần đây, ông liên tục hứng chịu sự chỉ trích ở cả trong và ngoài nước về việc từ bỏ đường lối "giấu mình chờ thời" của Đặng Tiểu Bình để thể hiện thái độ quyết đoán tại các diễn đàn quốc tế. Long Vĩnh Đồ, từng là trưởng đoàn đại biểu tham gia các cuộc đàm phán đưa Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thậm chí còn công khai chỉ trích chính quyền Tập Cận Bình không suy nghĩ thấu đáo trong quan hệ với các đối tác quốc tế, đặc biệt là với Mỹ. Một chuyên gia về Trung Quốc nhận định đã có những tín hiệu bất đồng trong giới lãnh đạo Trung Quốc.

Các hành động mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc cũng vấp phải sự phản đối của khu vực. Ngày càng có nhiều quốc gia xem xét lại mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc, chẳng hạn như Maldives, Malaysia, Pakistan và Úc. Sáng kiến "Vành đai và Con đường" mà Tập Cận Bình đưa ra từng được tán dương, nhưng hiện bị nhiều người chỉ trích là “bẫy nợ” của Trung Quốc nhằm giúp Bắc Kinh thâu tóm ảnh hưởng, nhất là sau những gì diễn ra tại Sri Lanka.

"Nền ngoại giao thịnh nộ" của Trung Quốc cũng khiến các quốc gia nhỏ bé xa lánh. Điều này được thể hiện rõ ràng tại hội nghị thượng đỉnh APEC, khi các quan chức ngoại giao của Trung Quốc được cho là cố gắng tìm cách tác động tới nước chủ nhà Papua New Guinea để thay đổi tuyên bố chung của hội nghị. Kết quả cuối cùng là sự đối đầu giữa Washington và Bắc Kinh đã khiến APEC, lần đầu tiên trong lịch sử 2 thập kỷ, không thể đưa ra tuyên bố chung kết thúc hội nghị. Những nỗ lực hết mình của các nước trung gian như Indonesia và Úc đều không thể mang lại sự nhượng bộ giữa hai siêu cường.

Tệ hơn, Trung Quốc đã khiến Chính quyền Trump khôi phục chính sách "trở lại châu Á". Mỹ, cùng các quốc gia khu vực có chung quan điểm, đã đẩy mạnh nỗ lực để kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Mỹ phối hợp với Nhật Bản và Úc triển khai "Sáng kiến Minh bạch Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương" nhằm theo dõi, vạch trần và chống lại "bẫy nợ công" cũng như những hành vi đe dọa tự do hàng hải và hàng không của Trung Quốc trong khu vực. Cùng với Úc, Washington đã quyết định tăng cường quan hệ quốc phòng và chiến lược với các nước Nam Thái Bình Dương nhằm kiểm soát các hoạt động của Trung Quốc. Đây thực sự là những bước đi hướng về châu Á của Mỹ mà nhiều nhà quan sát trước đây vẫn kỳ vọng.

Trước sự phản đối toàn khu vực, Tập Cận Bình rất cần đến một đột phá ngoại giao tại Philippines và ông có lý do để hy vọng bởi chưa từng có nhà lãnh đạo Trung Quốc nào có thể “tách” được một quốc gia Đông Nam Á khỏi vòng ảnh hưởng của Mỹ. Dưới thời Duterte, Manila không chỉ hạn chế nói về xung đột lãnh thổ với Bắc Kinh mà còn giảm quan hệ an ninh với Mỹ. Tổng thống Philippines, người coi Trung Quốc như một đồng minh thiết yếu, đã từ chối yêu cầu của Mỹ về bố trí vũ khí và phương tiện tại những căn cứ quân sự quan trọng gần Biển Đông, đồng thời không cho phép tàu chiến Mỹ sử dụng cảng của Philippines khi thực hiện chiến dịch tự do hàng hải tại khu vực. Kết quả là, Duterte đã làm suy yếu khả năng của Mỹ trong việc ngăn chặn sự quyết đoán của Trung Quốc tại các vùng biển lân cận. Duterte còn trao cho Trung Quốc quyền tiếp cận quân sự chưa từng có tiền lệ đối với các cảng và căn cứ không quân tại Davao, làm dấy lên lo ngại về việc mở rộng hoạt động quân sự của Trung Quốc tại quốc gia này.

Trung Quốc mô tả Duterte là "người bạn quan trọng và đáng trân trọng nhất". Tập Cận Bình tán dương mối quan hệ Trung Quốc-Philippines như "cầu vồng sau cơn mưa" trong một bài viết do hãng tin Tân Hoa Xã đăng tải trước chuyến thăm của ông tới Manila. Trong chuyến thăm, hai nhà lãnh đạo hân hoan nâng cấp quan hệ song phương lên thành đối tác chiến lược, "gửi thông điệp mạnh mẽ tới toàn thế giới rằng hai nước là đối tác trong tìm kiếm sự phát triển chung". Tuy nhiên, thực tế hai bên đã không thể đạt được đột phá nào trong những vấn đề nổi bật.

Dù đã có nhiều thảo luận về thỏa thuận chia sẻ tài nguyên ở Biển Đông, song hai bên chỉ kết thúc bằng việc ký kết bản ghi nhớ mang tính thăm dò về các thỏa thuận khai thác chung trong những khu vực tranh chấp. Nguyên nhân dẫn tới kết quả này có thể là do những bế tắc về đàm phán trong bối cảnh Tổng thống Duterte vấp phải sự phản đối trong nước và ngay trong nội bộ chính quyền.

Giới quân sự Philippines, vốn hoài nghi về Trung Quốc và muốn duy trì quan hệ hợp tác an ninh mạnh mẽ với đồng minh truyền thống như Mỹ, được cho là đã từ chối đề nghị của Trung Quốc về việc thiết lập cơ chế thông tin tại những khu vực tranh chấp. Nếu không có gì thay đổi, năm tới, Philippines và Mỹ sẽ có thêm 20 cuộc tập trận chung (từ 261 lên 281 cuộc), tập trung vào phối hợp về an ninh hàng hải. Điều này nhấn mạnh sự bền bỉ và kiên cường của quan hệ đồng minh Mỹ-Philippines.

Philippines hiện cũng không hài lòng với việc Trung Quốc trì hoãn nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng tại nước này. Giới quan sát bắt đầu hoài nghi về cam kết của Trung Quốc về việc đầu tư 24 tỷ USD trong chuyến thăm của Duterte tới Trung Quốc năm 2016. Tổng thống Duterte đang đối mặt với áp lực ngày càng lớn đòi hỏi phải xem xét lại chiến lược nghiêng về Trung Quốc và cần thể hiện quan điểm cứng rắn hơn ở Biển Đông. Việc thiếu vắng những bước đột phá sẽ khiến mối quan hệ nồng ấm Trung Quốc-Philippines phai nhạt dần. Kết quả hạn chế sau chuyến thăm Manila của Tập Cận Bình cũng chứng tỏ sự mong manh trong tham vọng bá quyền khu vực của Trung Quốc. Những nước nhỏ hơn như Philippines cần thận trọng với các bước đi của mình, và cần phải cùng với các nước có chung quan điểm củng cố trật tự của khu vực trong bối cảnh Mỹ đang thúc đẩy các cam kết của họ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Vành đai và Con đường: Kế hoạch Marshall lộn ngược”. Vào cuối Chiến tranh Thế giới II, phần lớn châu Âu chìm trong hỗn loạn và lục địa này đối mặt với nguy cơ của nạn đói tràn lan cùng những năm kinh tế trì trệ kéo dài. May mắn thay, triển vọng khu vực đã chuyển biến nhờ Chương trình Phục hồi Kinh tế (hay được biết đến nhiều hơn với tên gọi “Kế hoạch Marshall”), một chương trình đầu tư hàng tỷ USD tại Tây Âu, thúc đẩy các chuyến tàu chở lương thực, thực phẩm cùng các mặt hàng chủ lực, thúc đẩy tái thiết cơ sở hạ tầng và cùng với đó là các biện pháp khôi phục sản lượng kinh tế trong khu vực.

Là một chương trình được thiết kế để đem đến ổn định chính trị và phục hồi kinh tế cho châu Âu, Kế hoạch Marshall đề ra các cấu trúc kinh tế và chính trị mà trong đó quyền bá chủ của Mỹ càng được củng cố suốt giai đoạn hậu chiến.

Liệu sáng kiến “Vành đai và Con đường” được của Trung Quốc, một chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng trị giá hàng tỷ USD trải dài qua nhiều nước đang phát triển tại châu Phi và châu Á, có thực sự là “Kế hoạch Marshall thời hiện đại” như một bài báo trên tờ New York Times bình luận gần đây hay không? Câu trả lời là không, thậm chí có thể là ngược lại.

Thay vì thúc đẩy tăng trưởng, BRI đã tạo ra những gánh nặng nợ đối với các quốc gia nghèo đói không đủ khả năng chi trả và hủy hoại tiềm năng phát triển của các quốc gia này, hạn chế khả năng mua hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc (điều từng là một trong những mục tiêu của Kế hoạch Marshall). Hơn thế nữa, chính quyền tại Bắc Kinh lấy tiền đầu tư cho sáng kiến này thông qua các doanh nghiệp nợ nần chồng chất trong bối cảnh bản thân Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức kinh tế xuất phát từ cả bên trong lẫn bên ngoài.

Thay vì tạo dựng một trung tâm tăng trưởng mới với Trung Quốc là cốt lõi, BRI có nguy cơ tạo ra một “Trục Bất ổn Kinh tế” mới cho Bắc Kinh và có thể là nguyên nhân kích động sự sụp đổ trong hệ thống tiền tệ tại chính Trung Quốc: một dự án lệ thuộc quá nhiều vào khả năng cung cấp vô tận đồng nhân dân tệ (NDT) dẫn tới lạm phát leo thang, nhanh chóng rút cạn nguồn dự trữ ngoại hối (bởi giới chức dùng nguồn dự trữ này để kìm hãm đà lao dốc của đồng NDT), và kết quả là tạo ra một vùng trũng bất ổn tài chính trong nền kinh tế toàn cầu.

Ở thời điểm Mỹ ngày càng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ, BRI được ca ngợi là một chương trình đầu tư khổng lồ với điểm nổi bật là các dự án cơ sở hạ tầng do Bắc Kinh đầu tư trên khắp thế giới, là dự án "Con đường Tơ lụa" thời hiện đại nhằm lan tỏa đà tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và thúc đẩy các mối quan hệ địa chính trị trên thế giới. Thực tế BRI chẳng đem lại bất kỳ thành tựu nào như kể trên.

Giáo sư Brahma Chellaney miêu tả chính sách “ngoại giao bẫy nợ” của Trung Quốc: “Những dự án mà Trung Quốc hậu thuẫn thường không nhằm thúc đẩy nền kinh tế địa phương, mà thực chất là hợp lý hóa việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên cho Trung Quốc, hoặc mở cửa thị trường địa phương cho các loại hàng hóa xuất khẩu giá rẻ và hàng chất lượng kém. Thậm chí trong nhiều trường hợp, Trung Quốc còn đưa cả các công nhân xây dựng tới làm việc tại các dự án này, càng làm giảm số việc làm của lao động địa phương… Trung Quốc đang có những bước đi để đảm bảo rằng các quốc gia này không thể thoát khỏi nợ nần. Để đổi lấy tái cơ cấu nợ, Trung Quốc yêu cầu các doanh nghiệp trao cho họ thêm những dự án khác, càng khiến cuộc khủng hoảng nợ kéo dài vô hạn. Ví dụ, tháng 10/2016, Trung Quốc đã xóa khoản nợ trị giá 90 triệu cho Campuchia để đổi lấy những hợp đồng quan trọng mới”.

Chiến lược ngoại giao "bẫy nợ" này khiến nhiều quốc gia không thể trở thành thị trường mới cho hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc, bởi thực tế nền kinh tế của họ ngập trong nợ nần còn các nhà sản xuất địa phương dần bị thay thế bằng lực lượng lao động nhập khẩu từ Trung Quốc, một thực tế càng cản trở tiềm năng tăng trưởng của chính Trung Quốc.

Dù kết quả ban đầu của những dự án này có thể đem đến lợi thế ngắn hạn cho các doanh nghiệp Trung Quốc (cũng như lực lượng lao động nhập khẩu) song Trung Quốc cuối cùng sẽ phải đánh đổi bằng một cái giá không hề nhỏ. Có thể nói BRI đã đẩy Bắc Kinh vào tình thế ngặt nghèo là phải “giải cứu” những doanh nghiệp Trung Quốc chịu trách nhiệm cho những khoản đầu tư vô giá trị này ngay từ ban đầu.

Tất nhiên, không gì có thể ngăn Bắc Kinh đổ thêm tiền để giúp mọi chuyện diễn ra suôn sẻ bởi ngân hàng trung ương có thể in thêm tiền để đáp ứng các yêu cầu về ngân sách trong tương lai. Tuy nhiên, việc làm này sẽ đẩy giới hoạch định chính sách đứng trước hàng loạt lựa chọn rủi ro sau đó, nhất là khi họ phải đối mặt với hệ quả của bong bóng đầu tư vốn ở cả trong nước và ở cả khu vực Á-Âu, với nguy cơ dẫn đến sự sụp đổ của đồng NDT bất kỳ lúc nào.

Một nghiên cứu gần đây của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại chỉ ra rằng sự lao dốc của đồng NDT “có nguy cơ làm trầm trọng hơn gánh nặng nợ của các tập đoàn nhiều ảnh hưởng (tại Trung Quốc), (cũng như tăng) nguy cơ nảy sinh một cuộc khủng hoảng thanh khoản khi Trung Quốc phải vật lộn để thanh toán các hóa đơn nhập khẩu và trả cả gốc lẫn lãi của các khoản nợ nước ngoài”.

Những nguy cơ này buộc chính phủ phải hành động bởi những trì trệ và suy thoái kinh tế thường dẫn đến bất ổn về chính trị. Vì vậy, Bắc Kinh nhiều khả năng vẫn sẽ có thêm các gói cứu trợ, kể cả cho những những doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các sáng kiến như BRI. Sự sụp đổ của đồng NDT có thể đẩy lạm phát lên cao, một nguyên nhân khác dẫn tới những rủi ro chính trị. Không may là việc dùng dự trữ ngoại hối để chống đỡ cho đồng NDT có thể đẩy hệ thống ngân hàng Trung Quốc xuống dưới mức an toàn theo tiêu chuẩn đề xuất của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và càng khiến nhiều thể chế của quốc gia này đối diện với rủi ro lớn hơn.

Trớ trêu thay, sáng kiến của Trung Quốc có thể sẽ trở thành “vành đai siết chặt” và “con đường một chiều” (như miêu tả của Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence) dẫn tới thảm họa kinh tế.

Nhiều nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc dường như đang bị mắc kẹt trong văn phòng của mình, không thể đồng thuận về chính sách trong tương lai và không dám đối diện với thực tế. Trong trường hợp của BRI, họ không có những ý tưởng thực sự về các hệ quả sau cùng của những chính sách mà họ đề ra để giải quyết một loạt cuộc khủng hoảng tiềm tàng.

"Quan điểm Trung Quốc về Biển Đông" của Giáo sư Pankaj Jha. Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường trong chuyến thăm Singapore để dự hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc - ASEAN đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc sẽ tích cực làm việc để đảm bảo Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) trên Biển Đông sẽ được hoàn tất trong vòng ba năm. Trong khi cộng đồng toàn cầu và các chuyên gia chiến lược khu vực đã chờ đợi 16 năm (2003-2018) để có được một dự thảo duy nhất về COC thì việc đợi thêm 3 năm nữa là có thể chấp nhận được.

Tuy nhiên, việc ghi nhận những phản đối của Trung Quốc và hơn nữa là những tranh chấp lịch sử rời rạc có thể sẽ không còn đúng trong các cuộc thảo luận kéo dài. Vấn đề đối với Trung Quốc là mặc dù nước này đã đồng ý về mặt kỹ thuật đối với bản dự thảo duy nhất, song các bảo lưu liên quan đến ứng xử trên thực tế và bản chất không ràng buộc của COC một lần nữa sẽ gây ra nhiều rủi ro không thể lường trước.

Đánh giá những diễn biến liên quan đến Biển Đông, Trung Quốc rõ ràng đã cho thấy việc ký COC không có nghĩa là vấn đề lãnh thổ và chủ quyền liên quan đến khu vực tranh chấp này sẽ được giải quyết. Vì vậy, nếu cộng đồng quốc tế với suy nghĩ không tưởng rằng mọi thứ sẽ yên ả hơn có thể sẽ bị sốc trong tương lai. Trong giai đoạn Tòa trọng tài thường trực (PCA) xem xét đưa ra phán quyết 2013-2016, Trung Quốc đã tuyên bố Biển Đông không yên bình và đã có những sự cố không được phép. Tuy nhiên, giai đoạn hậu phán quyết PCA đã có hòa bình tương đối trong khu vực. Trung Quốc đã tuyên bố rằng với sự can dự của những chủ thể mới bao gồm Mỹ, Anh, Nhật Bản và Úc, vấn đề chủ quyền lãnh thổ và khu vực hàng hải sẽ làm phát sinh các xu hướng mới trong các khu vực tranh chấp.

Cuối cùng, đã có một loạt cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ, và giới học giả Trung Quốc tuyên bố rằng Biển Đông có thể ảnh hưởng đến quan hệ Mỹ-Trung Quốc trong tương lai. Theo các học giả Trung Quốc, Biển Đông có ý nghĩa địa-chính trị và quan trọng hơn bất kỳ lợi thế chiến lược nào liên quan tới sức mạnh trên biển.

Trung Quốc tin rằng nên có sự cân bằng trong tương tác giữa các nước có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông và vai trò của các nước không tuyên bố chủ quyền ở khu vực này. Trong các phát biểu hồi tháng 5/2017 và trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 10/2018, Trung Quốc tuyên bố rằng Nhật Bản cùng các đồng minh khác của Mỹ đã tiến hành các hoạt động gây ra căng thẳng không cần thiết. Trung Quốc tin rằng sự hiện diện của Mỹ làm suy yếu hòa bình và ổn định tại Biển Đông, do các tương tác quân sự của Mỹ với Việt Nam, Indonesia, Singapore và Úc.

Trước đây, Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận quân sự với ASEAN và sẵn sàng xây dựng các cơ chế để giải quyết vấn đề tin cậy và xây dựng lòng tin. Các quốc gia tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông cần phải đưa ra một kế hoạch hợp tác, chẳng hạn như phát triển cơ chế hợp tác chung để thăm dò và phát triển nguồn tài nguyên. Tuy nhiên, khiếm khuyết quan trọng trong đề xuất của Trung Quốc là nước này muốn có một khu vực không có tranh chấp trước khi thực hiện bất kỳ cam kết nào tại Biển Đông. Các học giả Trung Quốc chỉ ra những lý do làm bùng lên căng thẳng ở Biển Đông bao gồm: Các hoạt động của hải quân Mỹ, can thiệp vào tham vấn COC, các cơ sở và hoạt động triển khai quân sự trên Biển Đông của các nước có tuyên bố chủ quyền khác, và hành động đơn phương của các thế lực bên ngoài ở các khu vực có tranh chấp.

Mặc dù cách giải thích của Trung Quốc có vẻ thuyết phục, song vẫn còn nhiều sai sót. Trung Quốc đã thất bại trong việc vạch ra tọa độ địa lý của “Đường 9 đoạn” và “Đường 9 đoạn” có lúc lại là “Đường 11 đoạn”. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã ký một bản ghi nhớ về thăm dò dầu khí với Philippines trong chuyến thăm nước này. Tuy nhiên, Trung Quốc cảm thấy rằng sự phát triển và thậm chí là bất kỳ hoạt động thăm dò dầu khí nào cần được Trung Quốc thông qua vì Trung Quốc là bên tham gia lớn nhất trong tranh chấp tại Biển Đông. Trung Quốc cũng đề xuất nước này và ASEAN nên duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trung Quốc cũng đề xuất phát triển Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) thành một khu vực không có tranh chấp.

Mặc dù vậy, Trung Quốc đã thể hiện rõ rằng COC sẽ không thể giải quyết các vấn đề chủ quyền và lãnh thổ. Tóm lại, Trung Quốc đã cho thấy rõ ràng là nước này sẽ không xác định rõ tọa độ địa lý khu vực họ tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông bởi vì điều này sẽ tạo ra ấn tượng sai lầm rằng Trung Quốc sẽ chiếm đoạt toàn bộ Biển Đông. Thách thức đối với Trung Quốc là họ vẫn chưa nghiên cứu kỹ lưỡng và đang lo ngại về phản ứng của thế giới. Tất nhiên, cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung cũng sẽ ảnh hưởng đến lập trường cứng rắn của Trung Quốc trên Biển Đông.

Sự thật đằng sau viện trợ của Trung Quốc dành cho Philippines” của Bienvenido S Oplas Jr. Khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thực hiện chuyến thăm mang tính bước ngoặt tới Philippines hồi tháng trước, nhiều người đã mong đợi nhà lãnh đạo này thực hiện lời hứa về khoản viện trợ và đầu tư trị giá 24 tỷ USD vào quốc gia này.

Mặc dù đã ký kết được một loạt thỏa thuận mới song chuyến thăm của ông Tập Cận Bình đã không thể hiện thực hóa những cam kết của Trung Quốc hỗ trợ chương trình nghị sự phát triển kinh tế của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte, bao gồm cả kế hoạch đại tu cơ sở hạ tầng “Xây dựng, xây dựng, xây dựng” được quảng cáo rùm beng.

Cho tới tận bây giờ, bất chấp những tuyên bố lạc quan của ông Duterte, Trung Quốc không phải là “nhà tài trợ” lớn của Philippines về lĩnh vực viện trợ nước ngoài và vốn vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Thay vào đó, tính đến tháng 6/2018, Trung Quốc chỉ có một dự án cho vay lớn ở Philippines là dự án xây dựng hệ thống tưới tiêu Chico trị giá 62,1 triệu USD.

Theo số liệu của Cơ quan Phát triển và Kinh tế Quốc gia Philippines (NEDA), tính đến tháng 6/2018, Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 8% trên tổng số vốn ODA trị giá khoảng 13 tỷ USD mà Philippines nhận được. Trong khi đó Nhật Bản chiếm tới 40,3%, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á lần lượt là 20,6% và 17,7%. Trung Quốc cũng đứng sau cả Úc, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu (EU) và Pháp.

Khi Tổng thống Duterte thăm Trung Quốc tháng 10/2016, chính quyền Philippines đã thông tin về một khoản viện trợ và đầu tư lớn từ Bắc Kinh, coi đây là minh chứng cho chuyến đi mà ông tự cho là “thành công” của mình. Khoản đầu tư 24 tỷ USD này được dự kiến phân bổ vào 13 cam kết hợp tác, hỗ trợ tài chính và đầu tư, trong đó 15 tỷ USD là trị giá các hợp đồng thương mại và 9 tỷ USD còn lại là vốn vay ODA. Những dự án được hai nước lên kế hoạch bao gồm cam kết về một biên bản ghi nhớ trị giá 3 tỷ USD với Tập đoàn Cơ sở Hạ tầng Toàn cầu MVP và Tập đoàn Tianjin Suli nhằm sản xuất cáp quang chất lượng cao tại Philippines. Một biên bản ghi nhớ lớn khác với tập đoàn MVP và Tập đoàn Công nghệ Đường sắt Trung Quốc dự kiến sẽ chi khoảng 2,5 tỷ USD đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, còn một biên bản ghi nhớ nữa với Tập đoàn Phát triển Năng lượng Xanh và Công ty PowerChina Guizhou nhằm xây dựng một nhà máy năng lượng trị giá 1 tỷ USD.

Tháng 3/2017, Phó Thủ tướng Trung Quốc Uông Dương đã thăm thành phố Davao, quê hương của ông Duterte, nhằm tái khẳng định những cam kết của Bắc Kinh về việc hỗ trợ tài chính xây dựng tuyến đường sắt phía Nam, dự kiến tiêu tốn khoảng 4 tỷ USD, ở hòn đảo phía Nam này. Tháng 11/2017, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường thăm Manila và hứa hẹn sẽ cho vay vốn thực hiện hai dự án - dự án xây dựng hệ thống tưới tiêu Chico trị giá 62,1 triệu USD với lãi suất 2% và trong vòng 20 năm, và dự án Đập Kaliwa trị giá 374 triệu USD.

Khi Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Manila hồi tháng trước, ông và Tổng thống Duterte đã chính thức hóa và ký kết thêm 29 thỏa thuận mới, bao gồm một biên bản ghi nhớ về thỏa thuận hợp tác liên quan tới Sáng kiến Vành đai và Con đường trị giá 1 nghìn tỷ USD của Trung Quốc và thỏa thuận cùng phát triển khí đốt ở khu vực Biển Đông.

Tuy nhiên, gần như tất cả những khoản ODA và cam kết đầu tư của Trung Quốc giành cho ông Duterte vẫn chưa được cấp vốn. Và rất nhiều những thỏa thuận được đề xuất, cho dù được hiện thực hóa, chỉ ở mức rất khiêm tốn. Tỷ lệ lãi suất những khoản cho vay của Trung Quốc dành cho Philippines trong các dự án được hai nước lên kế hoạch ở mức 2- 3%/năm, trong khi tỷ lệ lãi suất các khoản ODA của Nhật Bản chỉ ở mức 0,25-0,75%/năm.

Hơn nữa, những điều khoản của 29 thỏa thuận mới được hai bên nhất trí trong chuyến thăm của ông Tập Cận Bình tới Malina hồi tháng trước chưa được công bố, làm dấy lên những chỉ trích về sự thiếu minh bạch xung quanh các thỏa thuận này.

Năm ngoái, NEDA đã cho thông qua giai đoạn đầu tiên của dự án đường sắt Mindanao do Trung Quốc hậu thuẫn trị giá 726 triệu USD. Dự án được dự kiến khởi công vào quý 3/2018, tuy nhiên không hiểu vì lý do gì vẫn chưa được thực hiện.

Trước đây, những khoản cho vay ODA của Trung Quốc tại Philippines từng gây nhiều tranh cãi. Ví dụ, dự án tuyến đường sắt phía Bắc do Trung Quốc hỗ trợ đã bị chính quyền tiền nhiệm đình chỉ trước khi khoản vay này bị hủy bỏ sau khi Tòa án Tối cao ra phán quyết rằng đây là một thỏa thuận thương mại chứ không phải thỏa thuận giữa hai chính phủ và do đó cần tiến hành đấu giá cạnh tranh. Chính quyền của cựu Tổng thống Philippines Gloria Macapagal Arroyo từng bị chỉ trích nhiều về dự án hợp tác với Tập đoàn ZTE của Trung Quốc. Dự án này bị hủy bỏ vào năm 2007 do xuất hiện các cáo buộc tham nhũng.

Các khoản vay ODA của Trung Quốc, được thực hiện thông qua Ngân hàng Xuất-Nhập khẩu Trung Quốc, kèm theo điều khoản rằng không dưới 50% tổng các khoản vay phải do các nhà thầu Trung Quốc thực hiện, khiến chi phí tăng lên so với việc sử dụng các nhà thầu địa phương.

Dự án Đập Kaliwa, vốn nhằm cung cấp thêm 600 triệu lít nước mỗi ngày cho Manila và các tỉnh xung quanh và bổ sung thêm cho đập Angat hiện nay - vốn đang cung cấp 4000 lít nước, sẽ tốn kém hơn khi được thực hiện theo các điều kiện của phía Trung Quốc so với các điều kiện mà Nhật Bản đưa ra. Tập đoàn Phát triển dich vụ công toàn cầu (GUDC) của Nhật Bản từng đưa ra đề xuất với phía Philippines để hỗ trợ thực hiện dự án Đập Kaliwa. Theo đề xuất này, công ty Nhật Bản sẽ cung cấp tài chính cho toàn bộ hoạt động xây dựng, vận hành và bảo trì con đập, và như vậy Manila không cần thêm các khoản vay nước ngoài nào khác. Trong khi đó, theo điều kiện mà Trung Quốc đưa ra, các nhà thầu Trung Quốc sẽ thực hiện việc xây dựng, còn hoạt động vận hành và bảo trì sẽ do một công ty địa phương đảm nhiệm.

85% các chi phí xây dựng, không giống như đề xuất từ phía công ty Nhật Bản, sẽ được lấy từ vốn ODA và do đó những người đóng thuế ở Philippines sẽ phải gánh chịu khoản vay này. Chi phí cho dự án Đập Kaliwa do Trung Quốc thực hiện, bao gồm cả việc xử lý nước thải, sẽ tốn khoản 640 triệu USD, trong khi đề nghị mà công ty Nhật Bản đưa ra chỉ khoảng 410 triệu USD và ít gây hại tới môi trường hơn. Hơn nữa, phía Trung Quốc sẽ mất 5 năm để xây dựng đập này trong khi phía Nhật Bản chỉ mất 4 năm.

Trong bối cảnh đó, các cuộc đàm phán để nhận thêm các khoản vay ODA từ Trung Quốc vẫn đang diễn ra, bao gồm cả Dự án Đường sắt Bắc-Nam và dự án đường sắt Subic-Clark. Mặc dù ông Duterte luôn đặt mục tiêu “Xây dựng, xây dựng, xây dựng” để tiến tới “kỷ nguyên vàng của cơ sở hạ tầng”, song không rõ liệu Trung Quốc có phải là nguồn lực tốt nhất và đáng tin cậy nhất hỗ trợ tài chính cho mục tiêu đó hay không./.

Thực hiện: Đinh Anh