Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc triển khai gần trăm tàu áp sát đảo Thị Tứ. Ngày 7/2, Tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) cho biết, “Tàu khu trục Jianghu lớp V của hải quân và tàu tuần tra cao tốc lớp Zhaoduan của cảnh sát biển Trung Quốc hiện diện ngoài khơi ở Thị Tứ hôm 20/12/2018 khi số lượng tàu Trung Quốc lên đến con số 95 tàu.” Lực lượng trên, gồm tàu hải quân, tàu cảnh sát biển, tàu cá được triển khai từ đá Xu Bi cách Thị Tứ khoảng 12 hải lý. Động thái này được cho gây sức ép buộc Philippines ngừng hoạt động xây dựng tại Thị Tứ. Chính quyền Philippines tháng 4/2017 từng thông báo xây dựng một đoạn dốc để thuận tiện trong việc đưa vật liệu xây dựng lên đảo. Ngày 8/2, Bộ trưởng Quốc phòng Lorenzana tuyên bố: “Chúng tôi không thấy ngạc nhiên với lực lượng dân quân biển của Trung Quốc bởi họ đã hiện diện từ năm 2012. Chúng tôi mong các nước khác tôn trọng chủ quyền của Philippines và hành xử một cách văn minh đem lại lợi ích cho cộng đồng toàn cầu. Những sửa chữa theo kế hoạch này là cơ bản, nhưng rất cần thiết cho việc cung cấp các dịch vụ xã hội, cải thiện đời sống cho người dân Philippines trên đảo”.

+ Việt Nam:

Việt Nam và Nga khai thác mỏ dầu mới ở Biển Đông. Theo tờ Nikkei Asian Review hôm 8/2 cho hay, Công ty Vietsovpetro, liên doanh giữa tập đoàn quốc doanh PetroVietnam và Nga, đã bắt đầu sản xuất dầu thô trên một địa điểm mới tại Biển Đông. Mỏ dầu, dự kiến mang lại trên 1 tỉ đô la từ nay đến năm 2032, với trữ lượng khai thác dự kiến 230 thùng một ngày. Địa điểm này nằm gần mỏ dầu lớn nhất Việt Nam là Bạch Hổ cũng do Vietsovpetro khai thác. Vietsovpetro sở hữu 55% mỏ mới này, PetroVietnam 30% và tập đoàn địa ốc Bitexco của Việt Nam chiếm 15%. Đây là mỏ dầu mới nhất của Việt Nam kể từ nhiều năm qua.

+ Philippines:

Nghị sĩ Philippines đề xuất 12/7 là ‘Ngày Chiến Thắng ở Biển Đông’. Thượng nghị sĩ Phillipines Leila De Lima hôm 7/2 cho hay bà đã đệ trình một dự luật đến chính phủ Manila về việc coi ngày 12/7 hàng năm là ‘Ngày Chiến Thắng Biển Đông” để đánh dấu sự kiện Tòa Trọng tài Thường trực Quốc tế PCA bác bỏ yêu sách biển của Trung Quốc. Theo bà De Lima, “Ngày 12/7 phù hợp trở thành một ngày lễ đặc biệt để tôn vinh phán quyết mang tính bước ngoặc ủng hộ Phillipines. Sự kiện này giúp khơi dậy niềm tự hào dân tộc trong người dân và khích lệ chính phủ theo đuổi cũng như thúc đẩy các nghị trình chính sách phù hợp với phán quyết của PCA”.

BTQP Philippines phản đối trung tâm cứu hộ của Trung Quốc ở Biển Đông. Phát biểu trước các phóng viên tại Doanh trại Aguinaldo hôm 4/2, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines ông Delfin Lorenzana cho hay, “Tôi đồng ý với quan điểm của ngoại trưởng (Teodoro Locsin Jr) cho rằng Philippines cần phản đối bởi chúng ta không muốn họ xây dựng ở đó và là công trình hiện hữu lâu dài”. Theo ông Lorenzana, “Philippines cần phản đối để Trung Quốc biết rằng nếu tiếp tục làm như vậy chúng ta sẽ phản đối. Bãi Cỏ Rong, Đá Chữ Thập và các thực thể họ tiến hay xây dựng nằm bên trong vùng EEZ của Philippines”. Malacañang trước đó tuyên bố rằng Philippines “cảm kích” Trung Quốc bởi trung tâm đó sẽ “giúp người đi biển gặp nạn”.

+ Mỹ:

Tư lệnh Hải quân Mỹ kêu gọi tránh va chạm trên Biển Đông. Phát biểu tại một sự kiện do Hội đồng Đại Tây Dương tổ chức hôm 6/2, Tư lệnh Hải quân Mỹ, Đô đốc John Richardson cho rằng tàu chiến Mỹ-Trung cần phải giữ khoảng cách, tránh những hành động có thể khiến va chạm leo thang, "Không nên cản trở, lái tàu chắn trước tàu khắc hay thả chướng ngại vật trước tàu khác. Hãy làm mọi việc trở nên dễ dàng." Đô đốc John Richardson nhấn mạnh Washington nên tìm cách củng cố quy định giúp quản lý các vụ chạm trán của hải quân trên biển, và mở rộng áp dụng cho cảnh sát biển lẫn dân quân. Theo Đô đốc Richardson, bối cảnh Mỹ hiện diện liên tục trong khu vực còn Trung Quốc không ngừng tăng cường sức mạnh hải quân cần có phương thức giảm thiểu nguy cơ tính toán sai lầm giữa tàu chiến hai bên.

+ Canada:

Tàu quân sự Canada dự kiến đi qua Biển Đông. Ba tàu hải quân hoàng gia Canada gồm tàu hộ tống HMCS Ottawa, tàu hộ tống HMCS Regina và tàu tiếp tế MV Asterix ngày 6/2 rời cảng Esquimalt để tham gia các hoạt động tại châu Á-Thái Bình Dương. Ba tàu sẽ đến Trân Châu cảng ở Hawaii, sau đó tàu Ottawa tham dự cuộc tập trận chống ngầm với hải quân Mỹ rồi quay về Esquimalt sau khoảng một tháng. Tàu Regina và Asterix sẽ tiếp tục chuyến triển khai kéo dài 7 tháng và tham gia nhiều hoạt động huấn luyện, tập trận, thăm cảng các đối tác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Trung Đông. Chuẩn đô đốc Bob Auchterlonie, Tư lệnh hải quân Canada tại Thái Bình Dương, nhấn mạnh nhiệm vụ lần này của tàu Regina chứng tỏ sự quan tâm châu Á-Thái Bình Dương của Canada và nước này sẵn sàng ủng hộ các đồng minh, đối tác tại đây.

Phân tích và đánh giá

“Đòn mới của Mỹ đối với Trung Quốc” của Giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc. Ngày 31/12/2018, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký ban hành Đạo luật Sáng kiến Tái bảo đảm châu Á (ARIA). Với mục tiêu yêu cầu chính quyền Trump đề ra một tầm nhìn chiến lược dài hạn và một chính sách đa diện, hoàn chỉnh cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, ARIA đã bổ khuyết - thậm chí là cải tiến - Chiến lược An ninh Quốc gia mà Nhà Trắng công bố hồi cuối năm 2017 và Chiến lược Quốc phòng của Lầu Năm Góc đầu năm 2018. ARIA sẽ đóng một vai trò quan trọng - nếu không muốn nói là quyết định - trong việc định hình chính sách an ninh quốc gia của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương với những tác động tiềm tàng trong các điểm:

Điểm thứ nhất, ARIA công nhận một cách rõ ràng tầm quan trọng thiết yếu của các đồng minh và đối tác tại châu Á đối với an ninh của nước Mỹ, từ các đồng minh như Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan cho đến đối tác chiến lược như Ấn Độ, đối tác an ninh được tăng cường như Indonesia, Malaysia, Singapore và Việt Nam. Riêng đối với Đài Loan, ARIA yêu cầu chính quyền thực hiện các cam kết về “chuyển giao phương tiện quốc phòng” và tăng cường giao lưu cấp cao. Hai cơ chế hợp tác được ARIA nhấn mạnh là Đối tác An ninh 3 bên Mỹ-Nhật-Hàn và Đối thoại An ninh 4 bên (hay còn gọi là “Bộ Tứ”).

Điểm thứ hai liên quan đến 3 thách thức chính nhằm vào hệ thống quốc tế mà Mỹ hậu thuẫn tại châu Á. ARIA yêu cầu chính quyền Mỹ phải đối phó. Hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông là thách thức hàng đầu, với việc “Trung Quốc xây dựng trái phép và quân sự hóa các đảo đá, đồng thời sử dụng biện pháp cưỡng bức kinh tế”. Hai thách thức còn lại là việc “Triều Tiên tăng nhanh kho vũ khí hạt nhân và tên lửa” và “sự hiện diện ở khắp Đông Nam Á của tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) và những tổ chức khủng bố quốc tế khác đe dọa nước Mỹ”. ARIA đặc biệt quan tâm đến việc cung cấp phương tiện cho chính quyền Mỹ để chống lại ảnh hưởng chiến lược của Trung Quốc, nhưng cũng đồng thời mở cánh cửa hợp tác. Đạo luật nêu rõ thái độ “quan ngại trước các hành động của Trung Quốc nhằm bóp nghẹt xã hội dân sự và tôn giáo trong nước, phá hoại trật tự dựa trên luật pháp ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Đạo luật cũng đề ra nhiều lĩnh vực cần hợp tác với Trung Quốc để “khuyến khích Trung Quốc đóng một vai trò xây dựng bằng cách chứng minh họ tôn trọng luật lệ và chuẩn mực quốc tế”.

Điểm thứ ba là ARIA quan tâm, nâng cao tầm quan trọng của các giá trị của Mỹ và chuẩn mực quốc tế trong việc định hình chiến lược ngoại giao của Mỹ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Đó là các giá trị như dân chủ, tự do báo chí, nhân quyền, điều hành tốt, nhà nước pháp quyền. Trong lĩnh vực này, ARIA đặc biệt quan ngại về pháp quyền và quyền tự do ở một số quốc gia, nhấn mạnh tình trạng không thể chấp nhận được ở Myanmar và Trung Quốc.

ARIA yêu cầu chính quyền Mỹ phát huy vai trò của Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tư cách là một thành tố trong cấu trúc giải quyết các vấn đề khu vực. Bên cạnh đó, ARIA hậu thuẫn rõ ràng cho việc Mỹ can dự vào các vấn đề đa phương như tài nguyên, năng lượng, thương mại và đặc biệt ủng hộ Sáng kiến Hạ nguồn Sông Mekong, ủng hộ việc Mỹ tham gia các “hiệp định thương mại đa phương, song phương hay khu vực có khả năng giúp tăng công ăn việc làm và phát triển kinh tế ở Mỹ”. ARIA cũng khuyến nghị việc “đàm phán một khuôn khổ hợp tác kinh tế toàn diện với ASEAN, sử dụng các diễn đàn đa phương như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Thượng đỉnh Đông Á (EAS), G20... cho những mục tiêu kinh tế của Mỹ ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương”. Dù ARIA liên quan đến chính sách chung của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn, song việc Trung Quốc được nêu bật thành một đối tượng của đạo luật đã khiến nhiều chuyên gia cho rằng Mỹ đã luật hóa chính sách đối kháng với Trung Quốc.

“Các thách thức an ninh và động thái răn đe quân sự của Nhật Bản” của Tiến sĩ Subhash Kapila. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe gần đây đánh giá rằng môi trường an ninh của Nhật Bản “đã trở nên khó khăn hơn nhiều trong 5 năm qua”. Có thể hiểu rằng thời gian 5 năm này trùng khớp với thời gian Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lên nắm quyền và Trung Quốc chuyển từ sử dụng chiến lược “sức mạnh mềm” sang chiến lược “sức mạnh cứng”, kết hợp với chính sách quân sự hung hăng “bên miệng hố chiến tranh” và gây sức ép chính trị/quân sự.

Nhận thức về các mối đe dọa của Nhật Bản chủ yếu tập trung vào Trung Quốc, Triều Tiên và các mối đe dọa trên biển, vốn có thể đe dọa tới an ninh quốc gia và sự sống còn của nền kinh tế Nhật Bản. Trên thực tế, nền kinh tế của Nhật Bản đã bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông, và sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương là mối đe dọa không chỉ với Nhật Bản mà còn đối với an ninh toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Chính quyền của Thủ tướng Abe đã nhận thấy môi trường an ninh bất ổn bao quanh Nhật Bản, từ đó có những động thái nhằm củng cố khả năng răn đe của nước này và xây dựng bản Định hướng chương trình quốc phòng quốc gia mới nhằm thay thế cho phiên bản cũ năm 2008.

Việc Trung Quốc thiếp lập sự kiểm soát toàn diện đối với Biển Đông là một mối đe dọa quân sự trực tiếp đối với an ninh quốc gia của Nhật Bản và sự sống còn của nền kinh tế nước này bởi những con đường biển vận chuyển năng lượng và thương mại của Nhật Bản chủ yếu đi qua Biển Đông. Nếu kiểm soát được Biển Đông, Trung Quốc sẽ có thể “bót nghẹt” các tuyến đường biển quan trọng này của Nhật Bản.

Bên cạnh tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Trung Quốc tại biển Hoa Đông, những động thái của Trung Quốc tại vùng biển này nhằm vào quần đảo Senkaku/Điếu Ngư cùng với việc liên tục thực hiện các hoạt động quyết đoán trên biển và các cuộc tuần tra chiến đấu trên không tại các vùng lân cận biển Hoa Đông là những động thái mang tính khiêu khích. Các tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc cũng lảng vảng xung quanh các vùng biển của Nhật Bản. Những động thái nói trên của Trung Quốc đều là sự thể hiện rõ nét của “mối đe dọa Trung Quốc” đối với Nhật Bản và sâu xa hơn là sự hiện diện của Mỹ tại Tây Thái Bình Dương, mà trung tâm là ở Nhật Bản và Hàn Quốc.

Mối đe dọa Triều Tiên đối với an ninh quốc gia Nhật Bản không phải là mối đe dọa quân sự trực tiếp từ các lực lượng quân sự của Triều Tiên, mà trên thực tế là các cuộc thử tên lửa bay qua lãnh thổ của Nhật Bản. Trung Quốc sử dụng kho tên lửa tầm xa của Triều Tiên, vốn được nước này hỗ trợ phát triển, làm công cụ khiêu khích mà không cần trực tiếp thực hiện động thái nào nhằm vào Nhật Bản. Trong bối cảnh đối mặt với hàng loạt mối đe dọa quân sự tiềm tàng, Nhật Bản đang tính tới việc chuyển đổi từ việc củng cố toàn diện các khả năng răn đe truyền thống sang xây dựng các khả năng quân sự đa phương diện nhằm đối phó với những mối đe dọa đang nổi lên. Tokyo cũng đang lưu ý tới việc Trung Quốc đang ngày càng tập trung vào tăng cường khả năng đối phó với chiến tranh mạng và chiến tranh trong không gian.

Sự thay đổi rõ nét trong động thái quân sự của Nhật Bản đó là hiện nay nước này đã tăng cường triển khai sức mạnh quân sự hướng sang phía Nam để đối phó với mối đe dọa Trung Quốc, thay vì hướng sang phía Bắc như trước đây nhằm đối phó với mối đe dọa Xô Viết. Trong lĩnh vực học thuyết quân sự, Nhật Bản thể hiện rằng họ đã sẵn sàng tăng tần suất và phạm vi triển khai sức mạnh hải quân, tới tận cực xa nhất của Ấn Độ Dương là vịnh Aden - đối diện với căn cứ quân sự mới của Trung Quốc ở Djibouti. Lực lượng phòng vệ trên biển Nhật Bản (MSDF) đã tiến hành các cuộc tập trận chung với hải quân các nước trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và quan trọng hơn cả là với Hải quân Ấn Độ ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương.

Nhật Bản cũng đã thành lập Lực lượng triển khai nhanh và Lữ đoàn triển khai đổ bộ nhanh. Cả hai đơn vị này đều được cho là để thực hiện các chiến dịch nhằm giành lại quyền kiểm soát đối với các quần đảo hẻo lánh của Nhật Bản bị các lực lượng thù địch chiếm đóng bằng vũ lực. Mặc dù tuyên bố là vì mục đích phòng vệ, song những lực lượng mới được thành lập này sẽ giúp Nhật Bản tăng cường khả năng triển khai sức mạnh.

Trong bối cảnh đối mặt với những mối đe dọa trên biển, Nhật Bản đã tập trung vào việc tăng cường các khả năng của MSDF, bằng cách tăng số lượng cả tàu khu trục và tàu ngầm. Nhật Bản hiện đang sử dụng hai tàu sân bay chở các máy bay trực thăng. Hai tàu sân bay này, cùng với những máy bay chiến đấu F-35 có khả năng cất cánh và hạ cánh thẳng đứng, sẽ trở thành các tàu sân bay chính thức. Về mặt chất lượng, MSDF của Nhật Bản hoàn toàn có thể áp đảo được Hải quân Trung Quốc. Nhật Bản còn có một lực lượng hải quân thứ hai là Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản - lực lượng sở hữu những con tàu lớn, và nếu được trang bị các hệ thống vũ khí hiện đại có thể dễ dàng chuyển đổi thành các tàu khu trục thực sự.

Lực lượng phòng vệ trên không của Nhật Bản đang trong giai đoạn thay thế các máy bay chiến đấu bằng những “chim sắt” F-35 thế hệ thứ 5 của Mỹ. Ngoài Nhật Bản, chỉ có Israel là nước được Mỹ đồng ý bán các chiến đấu cơ F-35. Điều này sẽ giúp Lực lượng phòng vệ trên không của Nhật Bản tăng cường sức mạnh đáng kể. Lực lượng phòng vệ mặt đất của Nhật Bản đang tìm cách sở hữu những tên lửa chống tăng hiện đại và nhiều loại vũ khí khác, cùng với hệ thống giám sát cảm biến. Có vẻ như Nhật Bản đang muốn sở hữu hệ thống vũ khí có khả năng gây ra thiệt hại lớn đối với bất kỳ nỗ lực nào của các lực lượng thù địch nhằm đổ bộ vào lãnh thổ Nhật Bản.

Tóm lại, Nhật Bản, cùng với Ấn Độ, là một trụ cột quan trọng của an ninh châu Á và sự ổn định tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nhận thức được trách nhiệm của mình, Nhật Bản đang tìm cách thay đổi định hướng chương trình quốc phòng quốc gia và tăng cường các khả năng quân sự nhằm đáp trả lại những đe dọa ngày càng lớn đối với an ninh Nhật Bản. Việc Nhật Bản đạt được tiến bộ theo chiều hướng này là lý do giải thích tại sao Trung Quốc gần đây mời Thủ tướng Abe tới Bắc Kinh - 7 năm sau lần cuối cùng một thủ tướng Nhật Bản tới Trung Quốc. Cùng với đó, giọng điệu chống Nhật Bản tại Trung Quốc cũng có chiều hướng lắng dịu hơn.

“Lý do Philippines muốn xét lại hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ” của Premesha Saha. Trong cuộc họp báo hồi cuối tháng 12/2018 tại Trại Aguinaldo, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana đã nói đến sự cần thiết của việc xem xét lại Hiệp ước Phòng thủ Chung 1951 (MDT) với Mỹ trong bối cảnh các lo ngại an ninh tại Biển Đông ngày càng gia tăng. Theo lời người đứng đầu ngành quốc phòng Philippines, trước thái độ không rõ ràng của Mỹ đối với các tuyên bố chủ quyền của Philippines tại Biển Đông, “Manila có 3 lựa chọn sau khi xem xét: duy trì, củng cố hoặc hủy bỏ hiệp ước”. MDT giữa Philippines và Mỹ được ký vào ngày 30/8/1951 tại thủ đô Washington D.C của Mỹ. Sau khi Mỹ rút khỏi Manila vào năm 1992, quan hệ song phương đã gia tăng đáng kể trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng và an ninh. Dù vậy, yếu tố khích lệ quan hệ an ninh vẫn là MDT 1951.

Theo nhiều nhà phân tích Philippines như Richard Heydarian, Philippines đang đối mặt với mối đe dọa từ bên ngoài lớn nhất từ trước tới nay, cụ thể là một Trung Quốc với chủ trương mở rộng lãnh thổ ở Biển Đông. Năm 2016, Tòa Trọng tài ở La Hay đã ra phán quyết công nhận chủ quyền của Philippines và xác lập quyền hạn của Manila đối với 3 thực thể ở quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, Trung Quốc hoàn toàn phớt lờ phán quyết và thậm chí còn xây các hòn đảo nhân tạo kiên cố ở Biển Đông, trong đó có Đá Vành khăn. Lực lượng Vũ trang Philippines (AFP) đã liệt tranh chấp lãnh thổ vào danh sách các mối đe dọa chính từ bên ngoài.

Điều này buộc Manila yêu cầu Mỹ phải có lập trường mạnh mẽ hơn trong vấn đề Biển Đông theo hướng có lợi cho đồng minh hiệp ước của mình. Dù vẫn tiến hành các chuyến tuần tra bằng tàu chiến và máy bay tại Biển Đông song Washington chưa hề cam kết rõ ràng về việc họ có bảo vệ Philippines trong trường hợp quốc gia này bị tấn công vũ trang hay không. Trong quá khứ, Mỹ từng “án binh bất động” khi Trung Quốc đánh chiếm Đá Vành khăn vào năm 1995 và chiếm Bãi cạn Scarborough vào năm 2012. Cách hành xử này của Mỹ không nhận được sự đồng tình của giới an ninh quốc phòng và quan trọng hơn là phần lớn người dân Philippines.

Dưới thời Donald Trump, chính sách châu Á của Mỹ trở nên mạo hiểm hơn. Tuy nhiên, vào ngày 31/12/2018, Mỹ đã công bố Đạo luật Sáng kiến Trấn an châu Á (ARIA) với nội dung tập trung vào việc thúc đẩy các lợi ích của Mỹ, cụ thể là trong khía cạnh quan hệ đối tác an ninh và quốc phòng, tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Trong ARIA, Mỹ “thúc đẩy một chiến lược ngoại giao Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tại các vùng biển châu Á thông qua các hoạt động hàng hải chung tại Biển Hoa Đông và Biển Đông”. Mỹ cũng tái khẳng định các cam kết hiệp ước với các quốc gia như Thái Lan và Philippines, nhắc lại khoản tài trợ trị giá 150 triệu USD/tài khóa dành cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương từ 2019-2023. Tuy nhiên, cùng lúc đó, Mỹ cũng tuyên bố cắt giảm viện trợ tài chính cho một số quốc gia như Campuchia, Myanmar và đồng minh an ninh gần gũi nhất tại ASEAN là Philippines do các vấn đề nhân quyền.

Theo một số học giả như Gregory Poling và Eric Sayers, “việc Philippines rút khỏi MDT có thể là thiệt hại nghiêm trọng đối với các lợi ích của Mỹ tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Thực tế những diễn biến trong khu vực thời gian gần đây phản ánh mong muốn của các quốc gia nhỏ bé về một vai trò chủ động hơn trong việc định đoạt các lợi ích của mình trước những cường quốc lớn như Mỹ. Mong muốn này đem đến cả thách thức và cơ hội cho các nước lớn.

Trong bối cảnh hiện nay, thậm chí cả những quốc gia như Mỹ cũng đang tìm cách cân bằng quan hệ với Bắc Kinh, bất chấp cuộc chiến thương mại mà hai bên đang vướng vào. Mong muốn của Philippines trong việc củng cố MDT đang đặt ra nhiều thách thức khó khăn cho Mỹ. Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng Tăng cường (EDCA) ký năm 2014 giữa Mỹ và Philippines thực tế phụ thuộc khá nhiều vào MDT. Thỏa thuận này cho phép Mỹ xây dựng các cơ sở và triển khai khí tài quốc phòng và hậu cần cũng như đưa quân đồn trú luân phiên tại các căn cứ quân sự của Philippines. Trong bối cảnh Philippines “thay đổi cách nhìn” trong mối quan hệ với Trung Quốc và theo đuổi một chiến lược nước đôi, giới phân tích cho rằng việc “tiếp tục hiệp ước phòng thủ chung (Mỹ-Philippines) và EDCA là điều đặc biệt quan trọng với chính các lợi ích của Mỹ trong khu vực” chứ không chỉ là nhằm kiềm tỏa mối quan hệ đảo chiều giữa Manila và Bắc Kinh.

“Cách thức Trung Quốc tránh chiến tranh ở Biển Đông” của Nicolai Fogth Gjøde Nielsen, thạc sĩ quan hệ quốc tế Khoa nghiên cứu châu Âu thuộc Đại học Aalborg, Đan Mạch. Trung Quốc hiện đang trong quá trình hiện đại hóa lực lượng vũ trang, một phần trong kế hoạch trẻ hóa quốc gia của chính phủ. Xét về lực lượng thông thường, Trung Quốc có lực lượng vũ trang lớn nhất thế giới tính về số lượng, với số lính tại ngũ và lính dự bị gần gấp đôi so với quân số của Mỹ. Trung Quốc cũng có năng lực hạt nhân, với ước tính khoảng 260 đầu đạn hạt nhân. Mặc dù kho dự trữ của Bắc Kinh có quy mô nhỏ hơn nhiều so với của Mỹ hay Nga, nhưng nó đang phát triển dần dần. Chẳng hạn, tình báo Mỹ ước tính rằng trong số 260 đầu đạn (hạt nhân) của Trung Quốc, 100 đầu đạn có thể gắn vào tên lửa tầm xa vào năm 2020, và có khả năng vươn tới Mỹ. Tuy nhiên, so với khoảng 6.500-7.000 đầu đạn của Nga và Mỹ, con số của Trung Quốc xem ra quá khiêm tốn.

Khi năng lực quân sự của Trung Quốc gia tăng, sự tự tin của Trung Quốc trong hành xử với các quốc gia láng giềng cũng tăng theo. Chẳng hạn như chiến thuật cưỡng ép của Trung Quốc với việc sử dụng lực lượng chấp pháp ở Biển Đông tiếp tục diễn ra. Một ví dụ trong số này là Bãi cạn Scarborough, nơi Trung Quốc đã tăng cường hoạt động sau vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan hồi năm 2010. Ngân sách quân sự được công bố chính thức của Trung Quốc tăng trung bình 8,5%/năm trong giai đoạn 2007-2016 và các nhà lãnh đạo chính phủ rất sốt sắng với đường lối tăng chi tiêu quân sự liên tục này trong tương lai. Điều này khiến cho đánh giá tiêu cực về Trung Quốc của nhiều quốc gia láng giềng Đông Á trở nên tồi tệ hơn.

Trong Báo cáo thường niên đánh giá tình hình Trung Quốc năm 2018 trình Quốc hội Mỹ, Lầu Năm Góc tuyên bố "Mỹ sẽ điều chỉnh các lực lượng, thái độ, đầu tư và các khái niệm hoạt động của mình để đảm bảo duy trì khả năng bảo vệ Tổ quốc, ngăn chặn sự xâm lược, bảo vệ các đồng minh và các đối tác của Mỹ, và gìn giữ hòa bình, thịnh vượng và tự do của khu vực". Báo cáo này cho thấy mối quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh không được xây dựng trên sự tin tưởng lẫn nhau, bất chấp mức độ trao đổi thương mại cao. Hơn nữa, báo cáo nêu rõ việc hiện đại hóa các lực lượng vũ trang Trung Quốc, và sự quyết đoán và vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc bên ngoài khu vực gần sát họ là những yếu tố làm gia tăng mối lo ngại trong các nước láng giềng Đông Á. Theo báo cáo, việc Bắc Kinh tăng cường tập trung vào năng lực quân sự có nghĩa là lợi ích của Trung Quốc ngày càng vượt xa khỏi lục địa Trung Quốc. Điều này chứng tỏ Trung Quốc đang tập trung vào khả năng phô diễn sức mạnh, vốn rất quan trọng trong việc giành vị thế bá chủ khu vực. Điều này có ý nghĩa khi các cường quốc cần có khả năng nắm giữ và kiểm soát các nhà nước vệ tinh và bảo vệ toàn bộ phạm vi ảnh hưởng của họ.

Hơn nữa, một vụ kiện pháp lý gần đây giữa Trung Quốc và Philippines đã dẫn đến việc Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ra phán quyết chống Trung Quốc trên tất cả 15 điểm được nêu trong đơn kiện. Các yêu sách của Trung Quốc về quyền lịch sử đối với Biển Đông trong phạm vi "Đường 9 đoạn" đã bị bác bỏ vì PCA nhận thấy Trung Quốc chưa bao giờ kiểm soát độc quyền đối với các khu vực nằm trong "Đường 9 đoạn".

Tác giả nhắc lại rằng lập trường của Trung Quốc trong suốt vụ kiện này là từ chối tham gia quá trình xét xử trọng tài. Ngày 22/1/2013, khi vụ kiện bắt đầu, Philippines đã trao cho phía Trung Quốc một bản ghi nhớ (một loại tài liệu ngoại giao bày tỏ sự phản đối hoặc bất đồng). Tuy nhiên, Trung Quốc đã từ chối và trả lại văn bản này vào ngày 19/2 cùng năm, đồng thời ra một thông cáo báo chí của chính phủ nêu rõ "Chính phủ Trung Quốc nhắc lại rằng họ sẽ không chấp nhận cũng như không tham gia vụ phân xử do Philippines khởi xướng".

Trung Quốc đã có thể tránh được một cuộc xung đột toàn diện trong khu vực bằng cách chỉ thực hiện những hành động nhỏ không có khả năng gây ra phản ứng bất lợi nào từ các nước láng giềng. Chiến lược "dưới ngưỡng xung đột" này cho phép Trung Quốc chiếm được các khu vực chiến lược bất chấp những phản ứng rất tiêu cực từ các nước láng giềng. Bất chấp phán quyết của Tòa Trọng tài, kết quả cuối cùng vẫn có lợi cho Trung Quốc, vì một thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và Philippines cho phép Trung Quốc giữ lại các hòn đảo được xây dựng nhân tạo. Người ta có thể cho rằng đây là một lợi ích lâu dài đối với Bắc Kinh vì Trung Quốc đã xây dựng các đảo nhân tạo ở các khu vực tranh chấp và hạn chế việc ra vào vùng biển này đối với ngư dân Philippines cũng như các tàu thăm dò dầu khí thậm chí ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.

Trung Quốc đang cố tích lũy đủ ảnh hưởng trong khu vực để thách thức và đẩy Mỹ hoàn toàn ra khỏi Biển Đông. Bắc Kinh không muốn kích động chiến tranh với các nước láng giềng vì sẽ quá tốn kém và phản tác dụng, đặc biệt còn là do những lợi ích từ những lãnh thổ giành được có thể mang lại không đáng so với chi phí cho một cuộc chiến tranh với Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở Đông Á. Thay vào đó, Trung Quốc đang hành động dựa trên tính toán cân nhắc tới hậu quả.

“Bốn trụ cột để củng cố COC” của Aaron Rabena. Tuyên bố về Văn bản Đàm phán Dự thảo Duy nhất cho Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) được ASEAN và Trung Quốc đưa ra hồi tháng 8/2018 dấy lên những hy vọng rằng bộ quy tắc này sẽ góp phần đảm bảo hòa bình và ổn định lâu bền tại Biển Đông.

Nội dung chi tiết của văn bản chưa được công bố chính thức, song theo một vài nguồn thạo tin, dự thảo bao gồm 5 vấn đề chính được nêu lên trong đàm phán, cụ thể là "phạm vi địa lý", "giải quyết tranh chấp", "trách nhiệm hợp tác", "vai trò của các bên thứ ba" và "địa vị pháp lý". Xét tới những nội dung này, có thể thấy bộ quy tắc đã vượt xa bản Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được ký năm 2002 vốn chỉ đề cập tới vấn đề giải quyết tranh chấp và trách nhiệm hợp tác. Các đề xuất giải quyết tranh chấp trong nội dung văn bản mới bao gồm những giải pháp như hòa giải, trung gian và vai trò của Hội đồng Tối cao về Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC).

Về khía cạnh trách nhiệm hợp tác, cụ thể là hợp tác biển, 5 lĩnh vực thuộc phạm vi hợp tác an ninh phi truyền thống được nhắc đến trong tuyên bố đã được mở rộng và bao trùm cả các nội dung như đánh bắt cá trái phép, kết nối biển, hợp tác về việc quản lý và khai thác nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt. Tuy nhiên, Trung Quốc cho rằng các quốc gia bên ngoài khu vực không nên được xem là đối tượng trong các hợp tác liên quan đến nền kinh tế biển.

Liên quan đến các biện pháp xây dựng lòng tin, bên cạnh trao đổi quân sự, cứu trợ nhân đạo và tự nguyện thông báo trước về các cuộc diễn tập, dự thảo quy tắc nhấn mạnh rằng mọi hoạt động trao đổi thông tin, thăm viếng tàu quân sự, cùng các hoạt động tuần tra và diễn tập quân sự chung sẽ được tiến hành trên cơ sở thường xuyên. Trung Quốc đang tìm cách đưa vào nội dung dự thảo quyền phủ quyết đối với các hoạt động quân sự giữa một bên ký kết với các quốc gia bên ngoài khu vực.

Philippines cho rằng dự thảo COC nên đảm bảo quyền đánh bắt truyền thống và quyền tiếp cận các thực thể cũng như ngư trường, trong khi Việt Nam đề xuất cấm mọi hoạt động xây cất trên các hòn đảo nhân tạo, quân sự hóa các thực thể, các hành vi chặn các tàu bè, tuyên bố thiết lập Vùng Nhận dạng Phòng không. Những kêu gọi này là điều cần thiết bởi việc thiếu vắng những quy định chi tiết có thể dẫn đến những cách hành xử khó lường và gây bất ổn khu vực. Đó là lý do vì sao dù đã có nhiều vòng thảo luận và đối thoại về hợp tác an ninh phi truyền thống, các va chạm vẫn diễn ra, và các biện pháp xây dựng lòng tin như các cuộc tập trận hàng hải/hải quân, thiết lập đường dây nóng và cả Bộ Quy tắc ứng xử về các vụ chạm trán tình cờ trên biển (CUES) cho đến nay chủ yếu mới chỉ được xem là mang tính hình thức.

Vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất là những nội dung liên quan đến phương diện phạm vi địa lý, hợp tác, vai trò của bên thứ ba và địa vị pháp lý.

Thứ nhất, phạm vi bao trùm COC phải mở rộng ra cả Hoàng Sa, Bãi cạn Scarborough và Trường Sa bởi đây là các khu vực thường xuyên diễn ra xung đột và căng thẳng, thậm chí tới mức khủng hoảng.

Thứ hai, trong nội dung về trách nhiệm hợp tác, COC cần phải có quy định việc thiết lập các khu vực biển bảo vệ chung, một tổ chức đánh bắt cá khu vực và một chương trình du lịch chung tại Trường Sa. Các hòn đảo nhân tạo của Trung Quốc, với hạ tầng hàng hải tân tiến, có thể trở thành trung tâm phát triển hợp tác an ninh phi truyền thống như các đơn vị nghiên cứu khoa học, ngăn ngừa và giảm thiểu thảm họa, hỗ trợ nhân đạo cũng như cứu trợ thiên tai. Với việc khuyến khích Trung Quốc tham gia các nỗ lực thúc đẩy lợi ích công cộng và thể hiện thái độ tôn trọng luật pháp môi trường quốc tế, người ta hoàn toàn có thể giải quyết mối đe dọa và lo ngại liên quan đến mục đích quân sự của các hòn đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng ở Biển Đông.

Bên cạnh đó, trong COC cần có quy định cấm việc triển khai đơn phương các giàn khoan và các hạ tầng khai thác năng lượng, tránh dùng đến các từ ngữ mang tính khiêu khích khi cảnh báo qua radio với máy bay nước ngoài, kiên quyết xử lý các hành vi đánh bắt cá trái phép, và không dùng các tàu biển quân-dân sự để trấn áp ngư dân phạm luật. Ngoài ra, khái niệm “quân sự hóa” cần được định nghĩa một cách rõ ràng hơn vì một số thiết bị và hạ tầng như “các trạm quan trắc thời tiết” vốn có thể được sử dụng cho cả mục đích quân sự và dân sự.

Thứ ba, ngoài Trung Quốc, các quốc gia khác như Úc, Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ, Anh và Mỹ đều có lợi ích địa chính trị tại Biển Đông bởi sự hiện diện tại vùng biển này góp phần đáng kể vào việc thể hiện sức mạnh quân sự, cũng như vận dụng sức mạnh chính trị thông qua ảnh hưởng đối với thương mại hàng hải và duy trì trật tự quốc tế tự do.

Thứ tư, để bộ quy tắc này thực sự ràng buộc về mặt pháp lý, nội dung phải bao gồm các điều khoản về án phạt trong trường hợp các quốc gia có tuyên bố chủ quyền vi phạm hoặc không tuân thủ cam kết đã đề ra.

Đối với ASEAN, bộ quy tắc là cần thiết trong việc thể hiện năng lực và vai trò trung tâm của khối. Đối với Trung Quốc, đây là cơ hội để hạn chế và hóa giải những tai tiếng đã có liên quan đến hoạt động xây dựng và quân sự hóa các hòn đảo nhân tạo. Nếu COC thất bại, uy tín của cả ASEAN và Trung Quốc trong việc đảm bảo các vấn đề an ninh khu vực chắc chắn sẽ bị tổn hại nghiêm trọng./.

Thực hiện: Đinh Anh