Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc mời Nga tham gia nghiên cứu băng cháy ở Biển Đông. Trao đổi với phóng viên TASS ngày 26/3, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Nga (RAS) Alexander Sergeev cho biết, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc đã mời các nhà khoa học Nga tham gia nghiên cứu khí hydrat, còn gọi là băng cháy, “Phía Trung Quốc mời chúng tôi tham gia vào hoạt động thăm dò, sẽ bắt đầu vào khoảng tháng 7”. Theo ông Sergeev, Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến các dự án như vậy do không có khí đốt tự nhiên. Trung Quốc hiện đẩy mạnh việc thăm dò khí hydrat. Năm 2017, nước này lần đầu tiên thu được khí đốt băng ở đáy Biển Đông.

Bộ Quốc phòng Trung Quốc phản đối máy bay Mỹ bay qua Biển Đông. Tại cuộc họp báo thường kỳ ngày 28/3, về việc Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ cho hay 2 máy bay B-52H giữa tháng 3 bay qua Biển Đông và trở về căn cứ sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đây cũng là lần thứ 2 trong vòng 10 ngày máy bay quân sự Mỹ bay vào Biển Đông, Người Phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Ngô Khiêm khẳng định: “Trung Quốc kiên quyết phản đối các hành động khiêu khích của quân đội Mỹ ở Biển Đông và sẽ có những biện pháp đối phó hiệu quả với các hoạt động này. Các hành động thường lặp lại này chứng tỏ Mỹ thực sự là bên thúc đẩy quân sự hóa ở Biển Đông.

+ Việt Nam:

Việt Nam phản đối hoạt động của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa. Trong cuộc họp báo thường kỳ chiều 28/3, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Việc Trung Quốc tiến hành diễn tập bắn đạn ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ ngày 22 - 24/3 và có kế hoạch xây dựng các đảo Phú Lâm, đảo Cây và đảo Duy Mộng trở thành thành phố và căn cứ dịch vụ hậu cần đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo này, đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc; vi phạm tinh thần DOC, gây phức tạp tình hình, không có lợi cho quá trình đàm phán hiện nay giữa Trung Quốc và ASEAN về COC ở Biển Đông. Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt và không để tái diễn các hoạt động tương tự, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không có hoạt động gây gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình ở khu vực”.

+ Philippines:

Trung Quốc vẫn ngăn cản ngư dân Philippines tiếp cận Bãi cạn Scarborough. Về đoạn video phỏng vấn ngư dân Philippines bị tàu Trung Quốc hăm họa khi cố gắng tiếp cận Bãi Scarborough, người phát ngôn Tổng thống Philippines Panelo hôm 25/3 cho biết: “Chúng ta chỉ có thể phản đối như bất kỳ nước nào đang tranh chấp chủ quyền. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm, hoặc các anh muốn chúng ta phải tuyên bố chiến tranh?". Theo ông Panelo, chính quyền Duterte giải quyết vấn đề Biển Đông với Trung Quốc thông qua đàm phán. Hai bên đã tiến hành một số cuộc gặp trong “cơ chế tham vấn song phương” về Biển Đông. Nếu chứng minh Trung Quốc vi phạm thỏa thuận khi ngăn cản ngư dân Philippines tiếp cận Bãi Scarborough, Trung Quốc cần phải điều chỉnh.

Philippines không tuyên bố bãi Cỏ Rong là tài sản di sản. Trong buổi họp báo ngày 26/3, khi được hỏi về việc Thẩm phán tối cao Tòa án Carpio cho rằng Chính phủ Philipines có thể lấy bãi Cỏ Rong làm vật thế chấp trong trường hợp không trả được khoản nợ 62 triệu USD cho Trung Quốc, Người Phát ngôn Tổng thống Salvador Panelo cho biết: “Chúng tôi sẽ không làm điều đó. Tại sao Tổng thống phải làm điều đó. Mục đích là gì khi tuyên bố điều đó. Điều mà ông Carpio đề cập đến là không thể bởi vì sẽ không có tuyên bố Bãi Cỏ Rong là tài sản di sản. Theo Hiến pháp, nếu đó là tài sản công, bạn không thể cho đi. Bạn không thể bán. Bạn chỉ có thể cho thuê nếu tài sản thuộc di sản. Một tài sản công chỉ có thể trở thành tài sản di sản nếu luật pháp có hiệu lực cho phép hoặc có tuyên bố của Tổng thống. Hiện tại không có luật hay tuyên bố của Tổng thống về việc bãi Cỏ Rong là tài sản thuộc di sản”.

Quân đội Philippines mua nhiều khí tài Trung Quốc sản xuất. Ngày 27/3, Quân đội Philippines tiếp nhận nhiều thiết bị công binh hạng nặng trị giá 1,5 tỷ Peso từ Trung Quốc nhằm phục vụ cho chương trình hiện đại hóa. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Philippines Gardozo Luna cho biết việc mua sắm thiết bị này trên cơ sở MOU về Hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước năm 2004, “MOU sẽ giúp tăng cường quan hệ thân thiện giữa hai nước và thúc đẩy trao đổi song phương trong lĩnh vực quốc phòng và các lĩnh vực khác”. Trang thiết bị này sẽ được sử dụng cho hoạt động hỗ trợ nhân đạo, giảm nhẹ thiên tai và các chương trình phát triển của chính phủ, kể cả hoạt động khôi phục Marawi.

+ Indonesia:

Indonesia phản đối sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp. Phát biểu với phóng viên hôm 27/3, Bộ trưởng điều phối các vấn đề Biển Indonesia Luhut Binsar Pandjaitan cho hay, “Như tôi thường đề cập trong nhiều diễn đàn quốc tế, Indonesia là một nước lớn. Và chúng tôi quá lớn để dựa vào một cường quốc nào. Indonesia sẽ không chấp nhận việc giải quyết tranh chấp bằng vũ lực. Ngoài ra, Indonesia sẽ luôn đóng vai trò tích cực và hòa bình dựa trên hiến pháp.” Khi được hỏi về tầm nhìn chung Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương Indonesia và Ấn Độ đưa ra năm ngoái, ông Luhut khẳng định hợp tác giữa hai bên vì lợi ích chung, đem lại lợi ích cho cả hai bên. Indonesia hướng tới tăng cường hợp tác với Ấn Độ trong nhiều lĩnh vực, từ lĩnh vực hạ tầng cơ sở tới quốc phòng và chống khủng bố.

+ Mỹ:

Lục quân Mỹ diễn tập các kịch bản ở Biển Đông trong năm 2020. Tư lệnh lục quân Mỹ tại Thái Bình Dương Tướng Robert Brown khẳng định điều này trong cuộc phỏng vấn hôm 26/3. Hiện lục quân Mỹ có 85.000 binh sĩ đồn trú ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và thường tiến hành các cuộc diễn tập với đồng minh và đối tác nhằm tăng cường khả năng triển khai nhanh từ lục địa Mỹ đến Thái Bình Dương. Tướng Brown cho biết lục quân Mỹ có kế hoạch triển khai một đại bản doanh sư đoàn và nhiều lữ đoàn cùng đội ngũ hỗ trợ tới Thái Bình Dương trong 30-45 ngày, "Chúng tôi đối mặt với nhiều thách thức ở Thái Bình Dương. Chúng tôi sẽ không tập trung vào bán đảo Triều Tiên mà sẽ tập trung vào kịch bản Biển Đông và Hoa Đông. Cuộc diễn tập bao gồm nhiều hoạt động mà lục quân Mỹ chưa từng thực hiện ở quy mô như vậy.”

Động thái đa phương

Đối thoại ASEAN-Canada lần thứ 16 tại Canada. Trong 2 ngày 25-26/3, ASEAN và Canada chia sẻ về những tiến triển đạt được trong quan hệ hai bên, khẳng định tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trên cả 3 trụ cột. Canada nhấn mạnh là đối tác tin cậy, lâu đời của ASEAN, luôn coi trọng và mong muốn nâng cấp quan hệ với ASEAN. Về Biển Đông, Canada ủng hộ lập trường nguyên tắc của ASEAN về tầm quan trọng của việc duy trì hoà bình, ổn định, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông, nhấn mạnh ủng hộ đối thoại và xây dựng lòng tin, kiềm chế, không quân sự hoá, phản đối các hành động đơn phương gây căng thẳng tại Biển Đông, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nghiêm túc thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC và tích cực xây dựng COC hiệu quả.

Đối thoại Mỹ-ASEAN lần thứ 32 tại Mỹ. Đối thoại hôm 28/3 được đồng chủ trì bởi Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương ông W. Patrick Murphy và Thứ trưởng Ngoại giao Lào Thongphane Savanphet. Các đại biểu nhấn mạnh hợp tác sâu rộng quan của Mỹ-ASEAN trên các trụ cột chính trị, kinh tế và xã hội cũng như tầm quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược trong việc đảm bảo một khu vực Ấn độ-Thái bình dương mở và tự do. Hai bên tái khẳng định sự cần thiết của giải quyết tranh chấp hòa bình theo luật pháp quốc tế, bao gồm vấn đề Biển Đông. Mỹ bày tỏ sự ủng hộ một Bộ Quy tắc ứng xử ý nghĩa và hiệu quả cho Biển Đông, tôn trọng các quyền của bên thứ ba và tuân thủ luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS năm 1982. Hội nghị Bộ trưởng Mỹ-ASEAN sẽ được tổ chức vào tháng 8 và Thượng đỉnh Mỹ-ASEAN sẽ diễn ra vào tháng 11 tại Bangkok, Thái Lan.

Việt Nam – Brunei nhấn mạnh cần tránh làm phức tạp tình hình Biển Đông. Trong chuyến thăm Việt Nam (từ ngày 26 - 28/3), Quốc vương Brunei Darussalam Haji Hassanal Bolkiah đã hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Tuyên bố chung sau cuộc gặp khẳng định, “Lãnh đạo hai nước tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông; nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường lòng tin và tin cậy lẫn nhau, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS năm 1982. Lãnh đạo hai nước nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các nước có yêu sách và tất cả các nước khác phi quân sự hóa, tự kiềm chế khi thực hiện các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình và làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông”.

Phân tích và đánh giá

Cách thức để Trung Quốc cải thiện cái nhìn về Hải quân PLA?” của Collin Koh. Đến nay, theo đánh giá về năng lực quân sự và kinh tế quốc phòng toàn cầu năm 2019 của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, 51 trong tổng số 59 tàu ngầm của Trung Quốc được xem rất hiện đại. Trong khi đó, 67 trong tổng số 86 tàu khu trục và tàu chiến của nước nay - phần lớn được đưa vào sử dụng trong những năm gần đây - là các tàu tối tân nhất. Hải quân Trung Quốc cũng có một tàu sân bay mang tên Liêu Ninh, chủ yếu đóng vai trò huấn luyện và kiểm thử kể từ năm 2012.

Một điều đáng chú ý ở đây là Hải quân PLA đang ngày một trở nên “phô trương”, đặc biệt kể từ khi họ bắt đầu sứ mệnh chống hải tặc ở Vịnh Aden hồi tháng 12/2008. Một thập kỷ kể từ đó, Hải quân PLA giờ đây triển khai căn cứ đầu tiên ở nước ngoài tại Djibouti phía Đông châu Phi. Bắc Kinh hiện vẫn im lặng về triển vọng thiết lập thêm các căn cứ như vậy ở nước ngoài.

Công cuộc củng cố lực lượng của Hải quân PLA là rất ấn tượng, chủ yếu tập trung vào số lượng và hiện đại hóa các đơn vị. Họ giờ đã trở thành một hạm đội cân bằng hơn, có khả năng tiến hành các chiến dịch trong phạm vi gần bờ và xa bờ như Ấn Độ Dương và phía Tây Thái Bình Dương. Các chính phủ và các nhà quan sát nước ngoài có thể rất kinh ngạc về sự phát triển nhanh chóng này.

Trong thập kỷ gần đây, Hải quân PLA cũng trở thành công cụ để Bắc Kinh thể hiện “quyền lực mềm” - ví dụ như việc tham gia di tản người dân trong cuộc chiến ở Yemen năm 2015 và thực hiện “Sứ mệnh Hài hòa” với tàu Peace Ark để tiếp viện thuốc miễn phí cho người dân ở các cảng nước ngoài.

Trong lúc Hải quân PLA duy trì được hình ảnh tích cực tại các khu vực xa xôi nơi Bắc Kinh đang thúc đẩy các lợi ích kinh tế chiến lược và không có bất kỳ tranh chấp địa chính trị lớn nào, thì họ lại có hình ảnh tiêu cực tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nơi tồn tại nhiều tranh chấp lãnh thổ. Cuộc đấu tranh để duy trì cái nhìn tích cực bắt đầu ở chính vùng biển gần bờ của Trung Quốc.

Đặc biệt Biển Đông là nơi Trung Quốc có thể cải thiện cái nhìn của bên ngoài. Việc Hải quân PLA củng cố lực lượng không gây quan ngại nhiều bằng việc Bắc Kinh đang làm gì tại các vùng biển đang tranh chấp, đặc biệt là các nỗ lực quân sự hóa của họ.

Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) đang được đàm phán giữa Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vẫn chưa thể giúp xoa dịu các quan ngại đó. Và cuộc tập trận hải quân ASEAN-Trung Quốc được tổ chức hồi tháng 8/2018 cũng chủ yếu mang tính biểu tượng.

Giải pháp ở đây không phải là việc giảm nhịp độ hiện đại hóa hải quân, đặc biệt bởi sự linh hoạt của hạm đội hải quân được coi là công cụ chính sách đối ngoại. Thay vào đó, giải pháp dài hạn sẽ phải là giải pháp mang tính chính trị. Thách thức về “cái nhìn tiêu cực từ bên ngoài” là điều khó có thể vượt qua trong đợt kỷ niệm 70 năm thành lập Hải quân PLA lần này. Trên thực tế, nó có thể gia tăng sự cảnh giác trong khu vực.

Lý do Ấn Độ nỗ lực phát triển cảng nước sâu đầu tiên ở Indonesia”. Ấn Độ đang nỗ lực phát triển cảng nước sâu đầu tiên của nước này ở Sabang, Indonesia, cách quần đảo có vị trí chiến lược Andaman và Nicobar (của Ấn Độ) không xa, trong bối cảnh Trung Quốc đang tìm cách tăng cường ảnh hưởng trong khu vực thông qua Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI).

Bất chấp chính sách Hướng Đông từ thời Thủ tướng Narasimha Rao, quan hệ của Ấn Độ với các nước ASEAN chủ yếu mang định hướng thương mại. Tuy nhiên, sự nổi lên của Trung Quốc ở các vùng biển thuộc Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cũng như ảnh hưởng kinh tế gia tăng của Bắc Kinh, đòi hỏi New Delhi phải áp dụng một cách tiếp cận mới đối với khu vực này. Đó chính là lý do chính phủ của Thủ tướng Narendra Modi nâng cấp chính sách trên thành Hành động Hướng Đông.

Nhưng việc chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực là điều "nói dễ hơn làm". Thứ nhất, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. Kim ngạch thương mại hai chiều đã tăng từ 192 tỷ USD năm 2008 lên 515 tỷ USD năm 2018. Tiếp đến là Sáng kiến BRI mà thông qua đó Bắc Kinh đã chi ra khoảng 400 tỷ USD. Trung Quốc đang muốn "dồn lực" vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nhằm đánh bật Mỹ khỏi khu vực này, nơi Washington đang hiện diện vững chắc thông qua những căn cứ quân sự như ở Guam, Diego Garcia (Ấn Độ Dương) và Darwin (Úc). Các mối quan hệ kinh tế bền chặt của Trung Quốc với khu vực này đang đảm bảo một vị thế vượt trội của Bắc Kinh.

Việc ngăn chặn Trung Quốc sẽ mang đến những rủi ro cho Ấn Độ, nếu xét đến bản chất của mối quan hệ giữa Bắc Kinh và New Delhi. Bởi vậy, đây là lúc các mối quan hệ đối tác chiến lược của Ấn Độ với các quốc gia Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương phát huy tác dụng.

Trong chuyến thăm Indonesia của Thủ tướng Modi hồi tháng 5 năm ngoái, hai nước đã nhất trí "một tầm nhìn chung về hợp tác hàng hải ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương". Theo đó, hai bên sẽ làm sâu sắc các hoạt động trao đổi kinh tế và giao lưu nhân dân, trong đó kết nối với cảng Sabang thuộc tỉnh Aceh của Indonesia được xác định là lĩnh vực ưu tiên chính của tầm nhìn này.

Kể từ đó, Ấn Độ và Indonesia đã thực hiện một loạt bước đi nhằm triển khai tầm nhìn. Hai nước đã khởi động một sáng kiến chung để phát triển cảng nước sâu Sabang nhằm tăng cường kết nối biển như một phần của các chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương riêng rẽ của mỗi nước. Ấn Độ và Indonesia đang tìm cách bổ sung cho nhau thông qua các dự án về kết nối và cơ sở hạ tầng trong khu vực.

Tháng 7/2018, tàu Hải quân Ấn Độ INS Sumitra đã cập cảng Sabang lần đầu tiên. Mới đây, tàu Vijit đã trở thành tàu đầu tiên thuộc lực lượng bảo vệ bờ biển Ấn Độ thăm cảng này từ ngày 17-20/3. Các chuyến thăm viếng này nêu bật mối quan hệ hàng hải gần gũi giữa hai nước cũng như sự hợp tác ngày càng gia tăng trong lĩnh vực an toàn và an ninh biển.

Tháng 11 năm ngoái, hải quân Ấn Độ và Indonesia đã tiến hành cuộc diễn tập hải quân song phương đầu tiên có tên “Samudra Shakti” thuộc biển Java. Mục đích diễn tập nhằm tăng cường quan hệ song phương, mở rộng hợp tác trên biển và nâng cao khả năng phối hợp tác chiến cũng như trao đổi kinh nghiệm kỹ năng chuyên môn. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến đáng kể trong việc phối hợp hoạt động giữa hải quân 2 nước sau các cuộc diễn tập tuần tra chung Corpat từ năm 2002. Trong khi đó, tại quần đảo chiến lược Andaman và Nicobar, Ấn Độ cũng đang tăng cường các lực lượng của mình. Gần đây, Hải quân Ấn Độ đã đưa vào sử dụng căn cứ Không quân thứ 3 trên quần đảo này.

Giai đoạn quân sự hóa mới của Trung Quốc ở Biển Đông”. Hành động quyết đoán của Trung Quốc trong phạm vi gần 3,5 triệu km vuông ở Biển Đông cùng hoạt động quân sự hóa khu vực này trong vài năm qua đã tạo ra một môi trường an ninh phức tạp. Giai đoạn tiếp theo này là kết quả của việc Trung Quốc củng cố những lợi ích ở Biển Đông thông qua sức mạnh quân sự và chính trị.

Mặc dù hoạt động cải tạo các thực thể ở Biển Đông đang ở giai đoạn yên ắng tạm thời nhưng cách hành xử của Trung Quốc ở vùng biển này là ví dụ điển hình cho mục tiêu về bá quyền. Tuy nhiên, Bắc Kinh chưa đạt được mức độ kiểm soát mong muốn đối với vùng biển có tính chiến lược này. Ở vùng biển 5 nước 6 bên khác cùng có tuyên bố chủ quyền, lập trường của Trung Quốc vẫn chịu sức ép và những gì nước này yêu sách cũng bị thách thức chưa có hồi kết.

Với chiến dịch cải tạo đảo đất của Trung Quốc kéo dài gần 10 năm, giai đoạn tiếp theo sẽ là hợp nhất và củng cố sức mạnh quân sự ở những thực thể mà nước này tuyên bố chủ quyền. Ví dụ, Bắc Kinh sẽ tăng cường bố trí binh sĩ tại nhiều đảo đá nhỏ được cho là không có người ở, trong đó có Bãi Cạn Scarborough, nằm cách đảo Luzon của Philippines 140 dặm về phía Tây. Việc thiết lập các căn cứ quân sự sẽ đạt được cấp độ cao nhất trong việc thiết lập “tam giác chiến lược” của Trung Quốc.

Trong vài năm qua, Trung Quốc đã mở rộng diện tích của các đảo đá và san hô hiện có lên hàng nghìn héc ta, song sự hiện diện quân sự và tính chất sẵn sàng đối phó vẫn chưa đạt mức độ đủ để tuyên bố kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Quá trình này có thể sẽ kéo dài hơn so với mong muốn của Bắc Kinh. Việc chiếm đóng và cải tạo các đảo nhỏ không khiến các nước khác giảm bớt yêu sách ở Biển Đông, cũng không làm những yêu sách này mất đi trong tương lai. Sự kết hợp của 3 yếu tố sau đây sẽ làm gia tăng theo cấp số nhân nguy cơ xảy ra hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông: Đó là việc mở rộng trong quá khứ và tiếp tục củng cố của Trung Quốc; Mỹ tuyên bố nguyên tắc tự do hàng hải theo luật pháp quốc tế cần được bảo vệ và việc Bắc Kinh không giữ những cam kết trước đây không xây dựng và cải tạo đảo ở Biển Đông.

Các vấn đề khác cũng giúp Trung Quốc thời gian thiết lập sự hiện diện quân sự mạnh mẽ hơn tại các thực thể nước này chiếm đóng ở Biển Đông, không đơn thuần chỉ tìm cách mở rộng và theo đuổi kế hoạch cải tạo đất đá. Gần đây, Trung Quốc đã tìm phương thức khác thể hiện yêu sách ở vùng biển phía Nam với việc Brunei phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc thông qua các thỏa thuận thương mại và tài chính. Dưới sức mạnh của “cây đũa thần chính trị”, Bắc Kinh không chỉ bảo đảm được lợi ích của mình mà còn đạt được cả lợi ích của Brunei, đồng thời lôi kéo được một đồng minh rất cần thiết ở Biển Đông.

Philippines đã xích lại gần Trung Quốc sau với những hứa hẹn chiến lược “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc đem lại. Chiến lược này là một công cụ chính trị hơn là công cụ kinh tế để Bắc Kinh tăng cường tầm ảnh hưởng đường hướng chính sách đối với các nước yêu sách khác ở Biển Đông. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn kiên định trong chính sách ở Biển Đông.

Trung Quốc sử dụng nhiều cách thức giúp nước này tiến xa hơn ở Biển Đông và mở rộng sự kiểm soát trên thực tế. Việc rút khỏi các cuộc đàm phán chính thức và lôi kéo các nước láng giềng chỉ là 2 chiến thuật dễ thực hiện. 4 năm sau khi Nga sáp nhập Crimea từ Ukraine, Moskva đã và tiếp tục thực hiện những chiến thuật tương tự để thắt chặt sự kiểm soát đồng thời ngày càng củng cố lực lượng ở bán đảo Biển Đen. Tương tự, Trung Quốc sẽ duy trì sự hiện diện của mình ở nhiều thực thể thuộc Biển Đông và tăng cường sự hiện diện quân sự nhằm chứng tỏ rằng quyền kiểm soát của Bắc Kinh không thể dễ dàng bị chối bỏ, đặc biệt là sau những nỗ lực đã giúp Bắc Kinh gia tăng thêm đáng kể sự hiện diện quân sự ở Biển Đông cũng như nhanh chóng nâng cao vị thế.

Trung Quốc đang mất dần vị thế ở Biển Đông? Quân đội Mỹ tuần trước đã triển khai các máy bay ném bom có năng lực hạt nhân B-52 Stratofortress trên khu vực Biển Đông nơi họ vẫn “tiến hành các cuộc diễn tập thường lệ”. Mặc dù Trung Quốc đã củng cố sự hiện diện quân sự trong và xung quanh Biển Đông, vị thế của họ vẫn chưa thể sánh được với sự hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nơi Lầu Năm Góc đã triển khai được số lượng vượt trội là 279 căn cứ. Và Mỹ vẫn luôn tích cực củng cố sự hiện diện này: Chiếc B-52 vừa được triển khai tới khu vực chỉ là một hoạt động diễn tập quân sự bổ sung vào hàng loạt hoạt động khác đều nhằm công khai khiêu chiến với chính sách của Trung Quốc.

Trong một tuyên bố với báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, người phát ngôn của hạm đội Không lực Thái Bình Dương cho biết “hai máy bay ném bom B-52H Stratofortress đã cất cánh từ Căn cứ Không quân Andersen, Guam, và tiến hành diễn tập thường kỳ tại khu vực lân cận Biển Đông hôm 13/3, trước khi quay trở về căn cứ”. Người phát ngôn nói thêm rằng hoạt động này không có gì đặc biệt so với thông lệ, và “máy bay chiến đấu Mỹ vẫn thường xuyên hoạt động ở Biển Đông nhằm hỗ trợ các đồng minh, đối tác và một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở”. Đồng hành với chuyến bay của các máy bay B-52 hôm 13/3 còn có tàu chỉ huy USS Blue Ridge của Hạm đội 7.

Cuộc phô diễn của quân đội Mỹ diễn ra chỉ một ngày sau khi Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo chỉ trích Bắc Kinh về cái mà ông gọi là “xây dựng đảo trái phép tại tuyến hàng hải quốc tế” với chủ đích cản trở các bên yêu sách khác ở Biển Đông “tiếp cận với nguồn tài nguyên năng lượng trị giá hơn 2,5 nghìn tỷ USD”. Đáp trả những bình luận này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng ngày 13/3 tuyên bố “Các nước khu vực có lợi ích trong việc quản lý và giải quyết được những tranh chấp theo cách riêng và cùng nhau gây dựng hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng cho khu vực”, đồng thời còn nhấn mạnh thêm rằng “một quốc gia nào đó không thuộc khu vực này đã liên tiếp gây khó khăn và phá vỡ sự yên bình ở khu vực. Đối với cá nước trong khu vực, những mưu toan như vậy là không thể chấp nhận được”.

Hoạt động diễn tập quân sự của Mỹ diễn ra chỉ khoảng một tuần sau khi hai máy bay B-52 khác bay qua các hòn đảo ở Biển Đông trong khuôn khổ cuộc tập trận COPE North 2019. COPE là một “cuộc tập trận lâu đời được triển khai nhằm củng cố các chiến dịch trên không đa phương giữa Quân đội Mỹ, Lực lượng Phòng không Nhật Bản và Không quân Hoàng gia Úc ".

Trong vấn đề Biển Đông, một điều mà Mỹ và Trung Quốc chắc chắn có nhận thức chung, đó là giá trị địa chính trị quan trọng. Theo một báo cáo đưa ra hồi tháng 2/2013 của Hãng Thông tin Môi trường Mỹ, “Biển Đông có trữ lượng khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên tại các mỏ đã được khai thác”. Trong khi đó, theo báo cáo cũng đưa ra năm 2013, Công ty Dầu mỏ Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc “ ước tính khu vực này chứa đựng khoảng 125 tỷ thùng dầu và 500 nghìn tỷ feet khối khí đốt tại các mỏ chưa được phát hiện”. Với những con số này, một điều chắc chắn chủ đề Biển Đông không sớm phai nhạt trên các trang nhất.

Cơn ác mộng của châu Á: Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan như thế nào?” Nhiều nguồn tin từ nội bộ chính phủ Trung Quốc cho rằng nền dân chủ Đài Loan không còn nhiều thời gian. Họ ám chỉ rằng Chủ tịch Tập Cận Bình đang "mất kiên nhẫn" và có thể ra lệnh xâm chiếm Đài Loan vào đầu những năm 2020. Điểm nóng nguy hiểm nhất của thế giới này có thể phải chứng kiến một cuộc đổ bộ chớp nhoáng, có thể là trước tháng 7/2021 khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) kỷ niệm 100 năm thành lập.

Đó chỉ là đồn đoán. Thực tế là Trung Quốc có thể sẽ không tấn công Đài Loan theo cách quyết liệt và rủi ro cao như vậy. Tập Cận Bình và các tướng lĩnh quân đội hàng đầu của ông nhiều khả năng sẽ lên kế hoạch và leo thang một cuộc chiến cân não xuyên eo biển Đài Loan. Họ sẽ tiếp tục sử dụng việc tung tin tức giả để đánh lạc hướng cùng nhiều kỹ thuật khác nhằm khiến Washington dần mất đi sự tự tin rằng Đài Loan có thể được bảo vệ, trong khi tăng cường các hoạt động nhằm làm xói mòn sự tự tin và sức mạnh ý chí của hòn đảo này.

Ông Tập Cận Bình sẽ chờ cơ hội tốt và hy vọng rằng chính phủ Đài Loan sẽ đổ vỡ dưới sức ép không ngừng gia tăng, giúp ông đạt được mục tiêu với cái giá rẻ hơn. Trong khi đó, các tướng lĩnh quân sự của ông sẽ tiếp tục lên kế hoạch và chuẩn bị thực hiện sứ mệnh "cao cả" của họ. Hành động ép buộc có thể dễ dàng thất bại, do đó xâm lược trở thành một lựa chọn hấp dẫn - đặc biệt trong bối cảnh cân bằng sức mạnh có lợi cho Bắc Kinh hơn hiện nay.

Đánh giá mối đe dọa

Môi trường an ninh và chính trị căng thẳng ở hai bờ Eo biển Đài Loan đòi hỏi phải có một sự đánh giá chính xác về khả năng, sức mạnh và điểm yếu của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA).

Có thể dễ dàng nhận thấy sức mạnh của PLA hơn là điểm yếu của quân đội này. Sức mạnh quân sự của Trung Quốc thường được giới truyền thông, ở cả Bắc Kinh và trên thế giới, nhấn mạnh và thổi phồng. Không nghi ngờ gì rằng các tên lửa đạn đạo, khả năng chiến tranh mạng và các vũ khí chống vệ tinh trong không gian của Trung Quốc khiến nước này trở thành một lực lượng đáng gờm. Có thể, điều còn nguy hiểm hơn là các hoạt động do thám và lén lút của Trung Quốc ở nước ngoài nhằm tác động tới việc hoạch định chính sách của các nước đó.

Tuy nhiên, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Trong cuốn sách mới xuất bản gần đây với tựa đề "Hoạt động xây dựng tàu hải quân của Trung Quốc", tác giả Andrew Erickson - giáo sư nổi tiếng của Trường Chiến tranh Hải quân khẳng định rằng mặc dù các hạm đội của Bắc Kinh đang phát triển với tốc độ rất đáng kể, song lực lượng hải quân của PLA chưa thể sẵn sàng tham gia hỗ trợ một cuộc xâm lược Đài Loan. Hải quân Trung Quốc vẫn thiếu các tàu sân bay và khả năng phòng thủ trên không. Tuy nhiên, tình hình ngày mai chắc chắn sẽ khác ngày hôm nay.

Dennis Blasko, tác giả cuốn "Quân đội Trung Quốc ngày nay", đánh giá rằng các lực lượng trên bộ của Trung Quốc, cũng giống như Hải quân, chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến như vậy. Để xâm chiếm trở thành một lựa chọn có khả thi, Trung Quốc phải có thêm nhiều trực thăng, lính nhảy dù, các lực lượng đặc biệt, các sư đoàn đổ bộ được cơ giới hóa và lính thủy đánh bộ. Ngoài ra, PLA cũng cần tăng cường công tác huấn luyện những người đứng đầu đơn vị từ trên xuống dưới. Phần lớn công việc này đã bắt đầu được thực hiện và sẽ đem lại kết quả trong thập kỷ tới.

Chiến lược chống xâm lược của Đài Loan

Vậy các chuyên gia quân sự của Đài Loan lên kế hoạch như thế nào để bảo vệ hòn đảo Đài Loan trước một cuộc tấn công, và Mỹ sẽ trợ giúp ra sao?

Đài Loan đang ở giai đoạn cuối của sự chuyển giao từ một lực lượng quân sự dựa trên chế độ tòng quân bắt buộc sang một quân đội hoàn toàn tự nguyện. Xây dựng một lực lượng ưu tú bao gồm những bính sỹ chuyên nghiệp là một điều tốt. Điều này sẽ giúp Đài Loan có một lợi thế cạnh tranh. Phần lớn quân đội của Trung Quốc phải dựa vào lính nghĩa vụ ngắn hạn.

Theo báo cáo gần đây của RAND, Đài Loan có thể củng cố quân đội tình nguyện của mình bằng các lực lượng dự trữ, giúp tăng cường hơn nữa khả năng chống lại các mối đe dọa từ Trung Quốc. Các lực lượng vũ trang của Đài Loan cũng có thể được lợi từ những cơ hội huấn luyện mới. Các cuộc tập trận huấn luyện song phương và các sứ mệnh nhân đạo chung với quân đội Mỹ là "liều thuốc" mà Đài Loan đang rất cần.

Các cuộc chiến hiện đại ngày càng được quyết định không phải bởi sức mạnh, mà bằng sức mạnh trí tuệ. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua hoạt động huấn luyện. Một trong những mục tiêu phòng thủ quan trọng của Đài Loan là giúp hòn đảo này chuẩn bị trước cú sốc là một cuộc chiến tranh chớp nhoáng từ PLA. Để làm được điều đó, Đài Loan cần nhân lực có động cơ hành động cao, những người có tổ chức, được huấn luyện và trang bị để đối phó với một chiến dịch xâm lược.

Sự bất cân đối về quy mô và sức mạnh kinh tế ở hai bờ Eo biển Đài Loan khiến các nhà hoạch định chính sách quốc phòng tại Đài Loan phải tìm cách tận dụng mọi sức mạnh họ có. Chiến lược phòng thủ tổng lực của Đài Loan kêu gọi điều động toàn bộ hòn đảo này, vận động sự ủng hộ của tất cả người dân trong một chiến dịch chống xâm lược. Lauren Dickey, làm việc tại Kings College London, cho biết Cơ quan Phòng vệ của Đài Loan (MND) liên tục tìm cách tăng cường khả năng đẩy lùi cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Hàng năm, MND đều tiến hành các cuộc tập trận quân sự nhằm kiểm tra và củng cố các kế hoạch bảo vệ hòn đảo Đài Loan trong trường hợp bị kẻ thù xâm nhập.

Theo ước tính, Đài Loan sẽ nhận được cảnh báo trước 4 tuần về một cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Do Trung Quốc nổi tiếng là nhiều "mưu kế", Đài Loan cũng không thể tin tưởng hoàn toàn vào sự ước tính này. Tuy nhiên, với quy mô to lớn của các chiến dịch đổ bộ (nếu xảy ra) của PLA, chắc chắn những ý định tấn công sẽ được báo hiệu trước.

Các dấu hiệu cảnh báo có thể bao gồm di chuyển quân đội, điều động quân dự phòng, dự trữ công nghiệp, tập trận quân sự, những tín hiệu trên truyền thông, các thông điệp ngoại giao và các hoạt động phá hoại ngầm chống lại Đài Loan. Dấu hiệu rõ ràng và đáng lo ngại nhất sẽ là việc tập trung các hạm đội lớn bao gồm cả tàu hải quân và tàu dân sự tại các khu vực tập kết ở phía Đông Nam Trung Quốc.

Nếu điều đó xảy ra, lãnh đạo Đài Loan - bà Thái Anh Văn - và các nhân vật cấp cao sẽ cùng hội ý và tìm ra cách thức đáp trả. Họ có thể sẽ cân nhắc những tin tức tình báo thu nhận được từ hệ thống rada, vệ tinh, các điểm nghe ngóng hoạt động của địch, và các điệp viên hoạt động ở Trung Quốc. Lựa chọn nhiều khả năng xảy ra nhất sẽ là tăng cường mức độ sẵn sàng và điều động toàn bộ hòn đảo để đánh bại một cuộc tấn công từ kẻ thù.

Con đường phía trước

Lầu Năm Góc đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Đài Loan phát triển tối đa khả năng tham chiến. Với sự giúp đỡ của Mỹ, Đài Loan có thể chắc chắn rằng những đầu tư vào lĩnh vực phòng vệ của hòn đảo này sẽ đều được tính đến trong những tính toán của Bắc Kinh, và hy vọng rằng điều đó sẽ giúp ngăn chặn một cuộc xâm lược ngay từ khi nó chỉ là ý định.

Báo cáo của RAND đề xuất thành lập một nhóm làm việc chung, đứng đầu phía Mỹ sẽ là một trợ lý bộ trưởng quốc phòng. Thực tế, các lực lượng của Đài Loan sẽ được lợi từ các hình thức đào tạo quân sự và huấn luyện kỹ thuật chuyên nghiệp tại Mỹ. Các cố vấn Mỹ có thể hỗ trợ Đài Loan trong việc tiếp tục chuyển đổi sang một lực lượng tình nguyện hoạt động hiệu quả, và giúp hòn đảo này tạo ra một lực lượng dự trữ chiến lược.

Quân đội Đài Loan cũng cần các hợp đồng mua bán vũ khí thường xuyên và đáng tin cậy - điều mà chính quyền của hai cựu Tổng thống George W. Bush và Barack Obama đã từ chối. Đối với Đài Loan, hiệu quả chiến thuật và tích cực của các hệ thống vũ khí Mỹ là điều không phải tranh cãi. Chính quyền của Tổng thống Donald Trump nên bán cho Đài Loan những loại vũ khí tương tự như những gì họ bán cho Nhật Bản và Hàn Quốc, bao gồm các máy bay tàng hình, cụm pháo phòng thủ tên lửa và các tàu khu trục mới.

Ngoài ra, Washington cũng nên tháo "xích" cho các công ty của Mỹ, cho phép họ tiếp cận hoàn toàn với chương trình phát triển tàu ngầm phòng thủ do chính Đài Loan sản xuất. Điều quan trọng hơn hỏa lực là tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, được tăng thêm nhờ vào hiệu quả của sự hỗ trợ đến từ Mỹ, và dấu hiệu rõ ràng về mục tiêu và quyết tâm mà Đài Loan muốn gửi tới Trung Quốc./.

Thực hiện: Đinh Anh