Zhang Yunling là Giáo sư kinh tế quốc tế và Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu Á-Thái Bình Dương và Viện Nghiên cứu Nhật Bản thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (CASS), Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách APEC, CASS; Thành viên của Hội đồng Tư vấn quốc tế, APEC; chuyên gia xuất sắc cấp quốc gia, được Hội đồng Nhà nước vinh danh vào năm 1992, Phó chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu Châu Á-Thái Bình Dương của Trung Quốc, Ủy viên Ban Thường vụ Trung Quốc tại Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC), thành viên của Hội đồng Hợp tác an ninh ở Châu Á Thái Bình Dương (CSCAP); Thành viên của Uỷ ban Quốc gia về Khoa học xã hội.

 

Người phỏng vấn: Ouyang Bin 

Người dịch: Iacob Koch-Weser

Harvard Asia Quarterly (HAQ): Liệu việc tranh chấp quần đảo Điếu Ngư có thể trở thành trở ngại chính đối với hội nhập khu vực ở Đông Bắc Á?

Zhang Yunling (ZYL): Những vấn đề này đã tồn tại một thời gian. Đây không phải là tranh chấp mới. Nhưng khi các nước phát triển, vấn đề cũng trở nên khá phức tạp. Ví dụ, trong trường hợp quan hệ giữa Nhật Bản và Hản Quốc, do sự phát triển của Hàn Quốc và do sự lớn mạnh của chủ nghĩa dân tộc, vấn đề đã trở nên nghiêm trọng.

Vụ đảo Điếu Ngư là trường hợp tương tự. Khi quan hệ Trung Quốc-Nhật Bản được bình thường hóa vào năm 1978, bạn có thể nói rằng lúc đó đã có sự đồng thuận là vấn đề này cần được hoãn lại, mặc dù không có hiệp ước chính thức nào được ký kết, lãnh đạo (cả hai nước)  đã thảo luận về vấn đề này. Đặng Tiểu Bình nói nên giải quyết vấn đề trong tương lai và phía Nhật không phản đối. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của Trung Quốc, phía Nhật ngày càng cảm thấy cứ để yên vấn đề này thì không ổn.

Khi Mỹ chuyển giao quyền tài phán đối với quần đảo Điếu Ngư cho Nhật Bản vào đầu những năm 1970, Mỹ đã nói rõ rằng chỉ trao cho Nhật Bản “quyền tài phán (guanxia quan)” – vấn đề chủ quyền sẽ phải do Trung Quốc và Nhật Bản giải quyết. Sau việc chuyển giao cho Nhật Bản, chính phủ Trung Quốc đã lên tiếng phản đối về động thái này. Do quần đảo này đã thuộc quyền tài phán của Nhật Bản từ rất lâu, và Trung Quốc cũng đã không phản đối, điều này đã gây ra sự hiểu nhầm rằng quần đảo thuộc về Nhật Bản. Trong thực tế, ở Trung Quốc cũng như ở Đài Loan, phong trào “gìn giữ Điếu Ngư (bao diao)” chưa bao giờ lắng xuống cả.

Khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên, áp lực từ trong nước về giải quyết vụ tranh chấp ngày càng tăng. Trong những năm gần đây, Nhật Bản cho rằng không hề có sự tranh chấp nào cả, cũng như không quan tâm đến sự tăng trưởng của Trung Quốc. Nhật Bản khẳng định rằng, do Điếu Ngư vẫn luôn luôn là lãnh thổ Nhật Bản, nên không có xung đột lợi ích. Hầu như tất cả các các chính trị gia Nhật Bản đều chọn lập trường này.

Một thời gian ngắn trước đây đã xảy ra sự cố Nhật Bản bắt giữ một tàu đánh cá của Trung Quốc. Lần đầu tiên, Nhật sử dụng pháp luật trong nước để buộc tội thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc, với lý do rằng ông ta đã cản trở các tàu của Nhật Bản thực hiện nhiệm vụ của mình. Đây là một vấn đề khá nghiêm trọng. Nếu Trung Quốc đồng ý với việc sử dụng pháp luật trong nước của Nhật Bản để đối phó với những tranh chấp lãnh thổ, thì tương đương với việc Trung Quốc thừa nhận quyền sở hữu của Nhật Bản tại Điếu Ngư. Nhật Bản không nên làm vậy, và Trung Quốc luôn phản đối điều này. Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) đã bị đuổi kịp số phiếu trong cuộc tranh cử giữa nhiệm kỳ, do đó, các chính trị gia của họ có thể đã chọn lập trường cố chấp này [để làm an lòng cử tri]. Điều này đã đẩy vấn đề tới bờ vực. Tất nhiên, những hành động này làm tổn hại đến mối quan hệ Trung Quốc-Nhật Bản vốn chỉ mới bắt đầu cải thiện gần đây.

Một vấn đề tương tự tồn tại trong trường hợp của các đảo ở biển Đông. Tranh chấp [lãnh thổ] trong khu vực đã diễn ra trong một thời gian dài. Nhưng lập trường của Trung Quốc về vấn đề này không thay đổi nhiều. Ban đầu Đặng Tiểu Bình đề xuất rằng: “Chủ quyền là của chúng ta, nhưng chúng ta có thể cùng phát triển khu vực với những nước khác (zhuquan guiwo, lianhe kaifa)”. Về cơ bản ông nói rằng chúng ta nên để yên vấn đề, trong khi chờ đợi, chúng ta cùng khai thác chung tài nguyên của khu vực. Khi điều kiện chín muồi, vấn đề chủ quyền có thể được đàm phán và giải quyết. Tuy nhiên, việc Trung Quốc lớn mạnh hơn làm các nước khác lo lắng rằng việc trì hoãn giải quyết vấn đề sẽ có lợi cho Trung Quốc. Điều này đã thổi bùng lại tranh chấp cũ.

Tôi không nghĩ rằng bất kỳ tranh chấp nói trên nào có thể được giải quyết trong thời gian ngắn. Chỉ có ba cách để làm điều đó. Một cách là chiếm đoạt bằng vũ lực. Liệu Trung Quốc có đủ sức mạnh để làm điều đó trong tương lai? Trung Quốc sẽ làm được, nhưng làm như vậy sẽ làm thay đổi xu hướng địa chính trị của khu vực. Nó sẽ gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, chưa kể rằng nhiều hòn đảo có thể chiếm giữ được, nhưng không giữ được. Vì vậy, tôi không nghĩ là Trung Quốc sẽ dùng các biện pháp như vậy mà không cân nhắc kỹ lưỡng. Không nước nào có thể giải quyết các vấn đề về chủ quyền một cách đơn giản cả.

Cách thứ hai là thương lượng. Nhưng tình hình bây giờ đúng là khá phức tạp. Các đảo Điếu Ngư đã thuộc quyền tài phán của Nhật Bản trong một thời gian dài. Các quốc gia khác nhau chiếm các đảo ở Biển Đông, và gần như không có đảo nào vô chủ. Trong những trường hợp này, chẳng nước nào khi đã chiếm đóng một hòn đảo sẽ từ bỏ chủ quyền của mình ở đó. Vì vậy, tôi e rằng các cuộc đàm phán cũng là một biện pháp không thỏa đáng. Giải pháp cuối cùng là mang ra các Tòa án quốc tế.

Vì vậy, xét tổng thể, tôi cảm thấy cả ba cách giải quyết tranh chấp trên đều không khả thi. Điều duy nhất có thể làm là trì hoãn quá trình vô thời hạn. Nhưng sự trì hoãn này bản thân nó cũng có thể là một vấn đề. Chúng ta đã thấy rằng các nước tham gia sẽ không chịu đựng sự trì hoãn thêm nữa về hai vấn đề: đầu tiên, làm cho Trung Quốc thừa nhận tình hình hiện nay, và thứ hai, lôi kéo Mỹ vào như một đối trọng để kiềm chế Trung Quốc. Tôi thấy rằng đó là một yếu tố nghiêm trọng ảnh hưởng đến hợp tác khu vực và thậm chí cả quan hệ song phương.

Đồng thời, chúng ta nên thừa nhận sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc đã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau trong khu vực. Trong lĩnh vực kinh tế, Trung Quốc là thị trường chính đối với hầu như tất cả các thành viên của khu vực. Trung Quốc cũng cần phát triển một cách hòa bình, và càng có nhiều thời gian để phát triển hòa bình càng tốt. Các nước khác cũng có thể không hy vọng khơi mào một cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Vì vậy, bất kể đó là vì lợi ích kinh tế hay vì sự ổn định địa chính trị, cũng như gia tăng sức mạnh của Trung Quốc, hợp tác sẽ được ưu tiên hơn là đối đầu.

Trong những thập kỷ gần đây, hợp tác trong khu vực rõ ràng đã được tăng cường bằng nhiều cách. Mặc dù sự tiến bộ này không thể bằng hội nhập khu vực tại châu Âu, song một số khuôn khổ hợp tác đã được xác lập. Thông qua các tác động xoa dịu của các khuôn khổ nhiều tầng lớp, một sự cân bằng lẫn nhau đã được nuôi dưỡng trong khu vực với những lợi thế riêng của mình. Nó cho phép tất cả các nước tham gia. Thông qua cơ chế này, nhiều vấn đề có thể được đặt lên bàn nghị sự và thảo luận dựa trên lợi ích các bên. Mọi người cần hòa bình và ổn định.

Trung Quốc và Nhật Bản đã lớn tiếng với nhau về vấn đề đảo Điếu Ngư từ sau vụ tàu cá. Sau khi ngư dân được thả, mọi thứ thậm chí còn tồi tệ hơn. Nhưng đồng thời, hai nước vẫn đang tìm kiếm một sự ổn định. Tại Hội nghị Á-Âu vào ngày 3 tháng 10, Thủ tướng Ôn Gia Bảo vẫn gặp Thủ tướng Naoto Kan. Cả hai tái khẳng định chủ quyền của họ đối với quần đảo Điếu Ngư. Hai bên cũng đã quan tâm đến việc phục hồi đối thoại cấp cao, cũng như đàm phán Trung-Nhật về tranh chấp ở Biển Hoa Đông.

Hợp tác ở châu Á có điểm nổi bật khác với ở châu Âu về mặt nền tảng. Châu Âu đã đi qua hai cuộc thế chiến, nên không ai có thể chịu đựng thêm một cuộc chiến tranh nữa. Sự đồng thuận đã khá rõ ràng: bạn không thể chiến đấu nữa, vì vậy bạn cần phải tìm một cơ chế để phòng ngừa chiến tranh. Mục tiêu cuối cùng là chính trị, nhưng hội nhập kinh tế được thực hiện trước tiên. Điều này dần dần củng cố cơ sở cho sự thống nhất về chính trị. Đã có cả một sự nhất trí và một động lực để đi theo con đường đó.

Tuy nhiên, nền tảng cho sự hợp tác ở châu Á là khác. Chiến tranh lạnh chia rẽ châu Á một thời gian dài, khi nó kết thúc, phần lớn các chia rẽ đó đã được hàn gắn, nhưng không biến mất hoàn toàn. Vì vậy, hợp tác an toàn trong lĩnh vực chính trị không phải là một mục tiêu được xác định rõ ràng. Kinh tế là một trong những cơ sở cho sự đồng thuận, vì nó không ngừng thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau trong khu vực. Khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra vào năm 1997, các cuộc đàm phán giữa ASEAN và các quốc gia Đông Bắc Á đã được tổ chức. Mặc dù sự đồng thuận kiểu đó có tồn tại, song các nước trong khu vực có những cách hiểu rất khác nhau về những việc cần làm một khi nó bắt đầu được thể chế hoá, ví dụ như: cuối cùng thì nên thiết lập loại cơ chế như thế nào? Và những khuôn khổ cơ bản của nó là gì?

Mặc dù chiến tranh lạnh đã kết thúc, nhưng thực tế là những bất đồng về vấn đề quân sự vẫn kéo dài. Tôi sợ không có giải pháp ngắn hạn cho vấn đề này. Những nỗ lực hợp tác an ninh khu vực hiện tại phải tìm ra được những bất đồng hiện có, và đồng thời phải phát triển cơ chế mới. Đây là cách thức cơ bản để kết nối giữa các phát triển mới và cũ. Tuy nhiên, ảnh hưởng vốn có của các bất đồng cũ vẫn còn rất mạnh.

Khi các khuôn khổ khác nhau cùng tồn tại, có sự linh hoạt hơn, và do đó có nhiều không gian hơn cho các khuôn khổ hợp tác. Ít nhất, có một nền tảng và một cơ chế, do đó khi một vấn đề phát sinh, tất cả mọi người có thể tập hợp lại và bàn luận về nó. Và một khi tất cả mọi người lên tiếng, nó không còn là vấn đề gây tranh cãi như vậy nữa, bởi vì nó không phải là một vấn đề đang được đàm phán; đúng hơn, nó đang được thảo luận thông qua đối thoại, tất cả mọi người sẽ cùng tìm kiếm một giải pháp. Có một nhược điểm ở đây, bởi rất khó tìm ra một giải pháp thống nhất cho một số việc nhất định. Mặc dù vậy, tôi vẫn cảm thấy xu hướng tham vấn và hợp tác là tối quan trọng. Nói cách khác, có một cảm nhận về lợi ích tập thể dựa trên tư duy chiến lược vĩ mô về hiện trạng ổn định. Đó là vấn đề chính.

HAQ: Ông có nghĩ rằng ba quốc gia lớn tại Đông Bắc Á cần phải hội nhập như kiểu EU và ASEAN không? Hay là những khuôn khổ hợp tác hiện tại tốt hơn?

ZYL: Tôi nghĩ rằng sẽ khó cho vùng Đông Bắc Á tiếp cận theo cách như EU hay ASEAN, nhưng khu vực này cần một khuôn khổ hợp tác. Bước đầu tiên là phát triển một khuôn khổ bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và các quốc gia Đông Bắc Á khác. Bắt đầu từ kiểu đối thoại đơn giản, và sau đó dần dần phát triển từ “cuộc họp khi ăn sáng” tới “cuộc gặp chiêu đãi” và rồi thành “cuộc họp độc lập”. Năm nay, chúng tôi đã nhất trí lập ra Ban thư ký cho Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc. Về trung hạn, ít nhất, mục đích của cơ chế này không phải là để xử lý các mối quan hệ ở Đông Bắc Á, hay thậm chí giữa Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc. Đây là một cách để phối hợp đối thoại, không phải là một cơ chế giải quyết tranh chấp. Bạn có thể gác lại một số tranh chấp chưa được giải quyết - chúng có thể được xử lý song phương. Nhưng đó là nơi để tìm kiếm sự hợp tác.

Tôi nghĩ rằng Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc sẽ không dẫn đến các loại hình hội nhập như chúng ta đã thấy ở ASEAN. Một số người nói là có thể, và nếu như vậy, tôi sẽ chào đón nó. Nhưng cá nhân tôi cho rằng thời gian tới, các cuộc họp này sẽ không đề cập các vấn đề nghị sự bức thiết.

Khi cần thúc đẩy hợp tác ở Đông Bắc Á sâu sắc hơn, có một số các yếu tố không xác định được. Đầu tiên là sự thiếu rõ ràng về việc làm thế nào để sửa đổi các mối quan hệ hiện có giữa các nước trong khu vực. Ban đầu, Nhật Bản trỗi dậy, và Trung Quốc suy yêú; nay Trung Quốc đang trỗi dậy, và Nhật Bản có thể đang dần dần suy yêú. Mối quan hệ kiểu này cần có thời gian để phối hợp.

Thứ hai, nền tảng địa chính trị tổng thể ở Đông Bắc Á là không rõ ràng, đặc biệt là liên quan đến bán đảo Triều Tiên. Sẽ khó phát triển hợp tác nếu không có Hàn Quốc tham gia: vấn đề Bắc Triều Tiên ảnh hưởng đến bán đảo Triều Tiên, vấn đề bán đảo Triều Tiên đến lượt nó lại ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực; và điều này ảnh hưởng đến những nỗ lực để định hình lại cấu trúc bao trùm vốn đã được hình thành trong khu vực từ Thế chiến II.

Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc hiện đang làm việc theo hai hướng. Đầu tiên là để tìm kiếm hợp tác và đối thoại về các vấn đề song phương, khu vực và toàn cầu. Nhưng họ cũng tăng cường hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, do ba quốc gia có ba nền kinh tế khá gắn bó. Ví dụ, ở cấp độ không chính thức, một nghiên cứu đã được tiến hành trong bảy năm nay để thiết lập Khu vực Thương mại Tự do (FTA) giữa ba nước. Năm nay, các quan chức chính phủ đang đi đầu trong nghiên cứu này, các quan chức, doanh nhân, và các học giả cũng cùng tham gia. Lôi kéo được các chính phủ chấp nhận sáng kiến này là một bước tiến lớn, thậm chí không dễ tí nào.

Nhìn chung, tình hình đang thay đổi tốt hơn. Ngay từ đầu, Trung Quốc đã liên tục yêu cầu rằng các FTA được đàm phán càng sớm càng tốt. Đầu tư và hàng hóa từ Nhật Bản và Hàn Quốc đã có một thời gian rất dễ dàng thâm nhập vào Trung Quốc, nhưng có nhiều trở ngại đối cho hàng hoá Trung Quốc nhập khẩu vào Hàn Quốc và Nhật Bản. Do Trung Quốc quan tâm đến việc thâm nhập vào những thị trường này, nên Trung Quốc hy vọng có thể sử dụng một dàn xếp mang tính hệ thống để đạt được quyền thâm nhập bình đẳng. Hàn Quốc chậm trễ trong việc đưa ra bất kỳ lời hứa hẹn nào về đề nghị này. Nhưng gần đây, Hàn Quốc đã trở nên chủ động hơn và đã sẵn sàng tham gia vào các cuộc đàm phán song phương. Đó là do sau khi Trung Quốc và Đài Loan ký kết Hiệp định khung hợp tác kinh tế (ECFA), hàng hoá Hàn Quốc rơi vào thế bất lợi [tại thị trường Trung Quốc]. Hàn Quốc, do đó, hy vọng sẽ đạt được một thỏa thuận để hàng hoá của mình có thể thâm nhập thị trường đại lục theo cùng một điều khoản như hàng từ Đài Loan. Một vấn đề nữa trong lĩnh vực kinh tế là cấu trúc khác biệt giữa các nền kinh tế của Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc. Điều này phát sinh từ cấp độ phát triển khác nhau. Mỗi nước đều muốn bảo hộ các ngành yếu kém của mình: ở Nhật Bản và Hàn Quốc, là lĩnh vực nông nghiệp, cũng như một số bộ phận trong ngành chế tạo vốn trước đây có tính cạnh tranh. Sự bảo hộ trong nước mạnh mẽ hơn ở những lĩnh vực này.

Nhưng nhìn chung, khi tiến về phía trước tất sẽ đạt được cái gì đó. Các cuộc đàm phán liên quan đến sự phối hợp đầu tư vẫn tiếp tục, và nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, các nước có thể ký tắt vào một kế hoạch sơ thảo trong lĩnh vực này ngay năm nay. Nếu họ làm vậy, sau đó có thể xúc tiến thảo luận về hàng hóa và thương mại.

Xét tổng thể, tất nhiên, sự tiến bộ không đạt được nhanh chóng như dự kiến ban đầu – vì liên quan đến những nhân tố chính trị, và khi tình hình xấu đi, những nhân tố này có thể cản trở sự tiến bộ trong kinh tế hợp tác. Ngoài ra, có những vấn đề liên quan đến Mỹ, vì cả Nhật Bản và Hàn Quốc đều là đồng minh của Mỹ. Đẩy mạnh thể chế hóa các cơ chế với Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ với Mỹ. Kết quả là, Mỹ có thể cảnh giác hơn.

HAQ: Mỹ đóng vai trò gì trong vận động địa chính trị của Đông Bắc Á?

ZYL: Hoa Kỳ là một yếu tố không thể thiếu trong hợp tác cho cả Đông Á, chứ không chỉ Đông Bắc Á. Nếu Hoa Kỳ can thiệp quá nhiều, sẽ gây tác dụng phụ. Hay nhìn cách khác, sự hiện diện của Mỹ hạn chế các hoạt động của các đồng minh của Mỹ.

Lý tưởng nhất, Đông Á sẽ phát triển cơ chế riêng cho hợp tác trong khu vực. Đông Á có thể cơ cấu lại các quan hệ của khu vực với Hoa Kỳ, cũng giống như Châu Âu đã làm được với Hoa Kỳ trong quá khứ. Châu Âu tăng cường kết cấu bên trong khu vực, phát triển từ một nhóm thành Liên minh châu Âu. Mỹ và Châu Âu thiết lập hợp tác thông qua Hiệp ước Đại Tây Dương.

Nhưng khu vực Đông Á khá phức tạp. Sự trỗi dậy của Trung Quốc là một yếu tố, nhưng quan trọng hơn là lo ngại của Mỹ rằng khu vực Đông Á có thể tự hợp tác và loại trừ Mỹ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi ích chiến lược của Mỹ và làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực. Hoa Kỳ không muốn thấy bất kỳ hợp tác nào ở Đông Á mà không có tham gia của Mỹ. Nhiều quan chức người Mỹ đã và đang nhắc đi nhắc lại vấn đề này.

Tôi đã hỏi một số chuyên gia và các quan chức Mỹ về điều này, và họ đã nói rằng không có nhu cầu cơ bản về hợp tác nội bộ Đông Á, bởi vì Mỹ sẽ tiếp tục bảo hộ cho khu vực. Đây, tất nhiên, là lợi ích của Mỹ. Theo tôi, từ lợi ích của Đông Á, nhiều vấn đề chỉ có thể được giải quyết và thương lượng giữa các nước Đông Á với nhau. Một khi Hoa Kỳ tham gia, mọi việc sẽ khó khăn hơn bởi vì rốt cuộc thì Mỹ có những lợi ích chiến lược bên ngoài cần tính đến.   


Sự hiện diện của Mỹ ở Đông Á là một thực tế. Mỹ có nhiều đồng minh và có ảnh hưởng rất lớn. Hơn thế nữa, áp lực vô hình về sự trỗi dậy của Trung Quốc đã khiến một số nước hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ là đối trọng với Trung Quốc. Nếu Hoa Kỳ cứ cố giữ Đông Á trong khuôn khổ do mình tạo ra và siết chặt các mối quan hệ với các đồng minh, mọi thứ sẽ trở nên phức tạp hơn.

Trong những năm gần đây, Nhật Bản và Hàn Quốc đã nỗ lực thực sự để thoát khỏi vòng kiểm soát của Mỹ. Khi Yukio Hatoyama lên nắm quyền ở Nhật Bản, ông hy vọng thiết lập một mối quan hệ cân bằng giữa châu Á và Mỹ. Ông ta đã từ chức rất sớm. Tương tự với Hàn Quốc. Các chính phủ của Kim Dae-Jung và Roh Moo-hyun đã nỗ lực thoát khỏi kiểm soát của Mỹ để độc lập xử lý các mối quan hệ Bắc-Nam (Triều Tiên) và lấy lại thẩm quyền chỉ huy thời chiến vv. Nhưng chính phủ Lee Myung-Bak đã một lần nữa chọn chính sách thân Mỹ, phủ nhận những năm tháng nỗ lực đó. Hoa Kỳ rõ ràng là đã có một số ảnh hưởng tới các sự kiện này.

HAQ: Điều đó có nghĩa rằng các nỗ lực của những nước này để tự giữ khoảng cách với Hoa Kỳ là không thực tế? Hoặc điều đó có nghĩa rằng Hoa Kỳ có nhiều sức mạnh để áp đặt quyền kiểm soát?

ZYL: Hoa Kỳ không có quá nhiều sức mạnh để áp đặt sự kiểm soát, nhưng sẽ chỉ là vấn đề thời gian trước khi Nhật Bản và Hàn Quốc tự thoát khỏi Mỹ. Trong trường hợp của Nhật Bản, một số phe nhóm trong nước đã nói “không” với Hoa Kỳ kể từ những năm 1960. Chính phủ Hatoyama cũng là đại diện của xu hướng này. Không có quốc gia nào muốn bị kiểm soát bởi một quốc gia khác mãi mãi. Tuy nhiên, Mỹ lo ngại rằng thay đổi hiện trạng sẽ dẫn đến mất vai trò lãnh đạo trong khu vực. Vì vậy, tôi nói rằng Hoa Kỳ can thiệp quá nhiều, và điều đó có tác động tiêu cực đến khu vực.

Mặt khác, tất cả các nước trong khu vực, bao gồm Trung Quốc, về cơ bản đồng ý rằng Hoa Kỳ cần là một phần của quá trình hợp tác ở Đông Á, đặc biệt là một nước thành viên trong hội nghị thượng đỉnh Đông Á. Về nguyên tắc bạn hoàn toàn có thể phủ nhận điều này, nhưng đây vẫn là một thực tế không thể tránh khỏi. Như tôi đã đề cập trước đó, nhiều người hy vọng rằng Hoa Kỳ có thể đối trọng với Trung Quốc.

Vì vậy, hiện nay, có nhiều hình thức hợp tác ở Đông Á. Thông qua các khuôn khổ ASEAN +1 và ASEAN +3, chúng tôi tiếp tục phát triển hợp tác chỉ  trong nội bộ khu vực, do không có Mỹ. Mỹ có thể tự quản lý những quan hệ của mình với khu vực, và Trung Quốc cũng có thể làm như vậy. Mặt khác, tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á có khuôn khổ lớn hơn để kết hợp Mỹ và Nga. Hội nghị thượng đỉnh Đông Á có thể trở thành một diễn đàn hiệu quả ở quy mô lớn cho các nước lớn thảo luận các vấn đề chiến lược.

Do sự hiện diện của Hoa Kỳ là một thực tế, chúng tôi hy vọng rằng Mỹ có thể đóng vai trò xây dựng. Nhưng điều đó sẽ không nhất thiết lúc nào cũng đúng - Mỹ có thể dùng sức mạnh để xây dựng hợp tác trong khu vực theo lợi ích riêng và tham vọng của Mỹ. Nếu là như vậy, sẽ dẫn đến xung đột lợi ích không chỉ với Trung Quốc, mà còn với ASEAN. Tất cả mọi thứ mà ASEAN đã thực hiện đều xoay quanh một cấu trúc khu vực cân bằng do Mỹ dẫn đầu.

Trong những năm 1990, [Tổng thống Mỹ] Bill Clinton đã biến APEC thành một hội nghị thượng đỉnh do Mỹ dẫn đầu. [Thủ tướng Malaysia] Mahathir bin Mohamad đã từ chối tham gia như một cử chỉ phản đối sự lãnh đạo của Hoa Kỳ. Sau đó, Mahathir đề xuất thành lập Hội nghị Kinh tế Đông Á (EAEC), và đã nhận được hỗ trợ từ ASEAN. Hơn nữa, khi các nước ASEAN tham gia APEC, họ đã thống nhất nguyên tắc là APEC không được làm suy yếu các khuôn khổ hoạt động của ASEAN. Tương tự như vậy, khi Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á được mở rộng, một điều đã được nhấn mạnh rằng ASEAN sẽ vẫn ở vị trí đầu tầu.

Các quốc gia ASEAN có thể công khai không đồng ý với Hoa Kỳ nếu họ nhìn nhận đó là mối đe dọa đối với quyền lãnh đạo của ASEAN. Các nước ASEAN hoan nghênh sự tham gia của Mỹ, nhưng họ vẫn cảnh giác về vai trò tương lai của Mỹ. Mọi việc diễn ra thế nào phụ thuộc vào khu vực và cả hành động của Hoa Kỳ. Nếu Hoa Kỳ quá quyết đoán và mạnh mẽ, sẽ không ai vui vẻ cả, và điều này sẽ dập tắt tất cả các triển vọng cho sự phát triển của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.

HAQ: Ông nghĩ rằng cuộc xung đột Triều Tiên sẽ có tác động gì đến khu vực hóa và hợp tác ở Đông Á?

ZYL: Có hai mặt của vấn đề ở đây. Một là sự chia cắt của bán đảo Triều Tiên. Điều này bao gồm Bắc Triều Tiên và tranh chấp chưa được giải quyết của họ với Mỹ. Trong thời Clinton, người ta đã sẵn sàng giải quyết nó, nhưng chỉ là tạm thời. Sau vụ 11/9, có thay đổi lớn trong vận động địa chính trị khu vực mà kết quả là mối quan hệ Mỹ-Bắc Triều Tiên xấu đi. Hoa Kỳ tuyên bố Bắc Triều Tiên là một phần của Trục ma quỷ, và Bắc Triều Tiên đã phát triển hạt nhân. Ý tưởng đàm phán sáu bên mang lại một cách giải quyết vấn đề mới. Tuy nhiên, sau khi chiến hạm Cheonan bị đánh chìm, tình hình đã căng thẳng trở lại.

Cần phải có những tầm nhìn rộng hơn về cách giải quyết những vấn đề này. Chiến tranh lạnh đã kết thúc lâu rồi – chẳng lẽ không thể tìm thấy một cách để bình thường hóa mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên? Đó chắc chắn không phải là không thể. Nhưng ngay bây giờ, tranh chấp đang diễn ra kiểu “Con gà và quả trứng”: một mặt, Mỹ nói rằng mối quan hệ sẽ được cải thiện ngay khi Bắc Triều Tiên từ bỏ vũ khí hạt nhân, mặt khác, Bắc Triều Tiên lại lo sợ việc từ bỏ vũ khí hạt nhân sẽ làm họ ở thế yếu, họ muốn cải thiện quan hệ trước và chỉ sau đó mới từ bỏ tham vọng hạt nhân. Vì vậy, tôi e rằng bế tắc này sẽ kéo dài hầu như không có kết thúc. Chúng ta phải nhờ đến các nỗ lực chung và quay trở lại đàm phán sáu bên.

May mắn thay, tất cả mọi người đã đồng ý rằng mối quan hệ cần phải được bình thường hóa và cải thiện, và họ ủng hộ trao đổi viện trợ để hỗ trợ cho phi hạt nhân hóa. Sau hàng loạt tiến bộ, chúng ta phải trở về thỏa thuận ban đầu đã đạt được và cùng nhau thực hiện các bước tiếp theo.

Mặt kia của vấn đề chính là bản thân Bắc Triều Tiên. Vì đã bị cô lập trong một thời gian dài, môi trường quốc tế đã trở nên rất không thuận lợi đối với nước này. Các vấn đề trong nước của Bắc Triều Tiên vẫn còn không rõ ràng đối với quan sát viên bên ngoài. Nền kinh tế kém phát triển, nếu có một cú sốc ngoại sinh và chính phủ mất kiểm soát, có thể làm thay đổi vận động địa chính trị ở phạm vi rộng hơn.

Theo quan điểm của Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên là cánh cửa kế bên, do đó, Trung Quốc có quyền lợi đặc biệt ở đó. Trung Quốc đã luôn chủ động trong việc thúc đẩy phi hạt nhân hóa và bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Trung Quốc đang quan sát sát sao về sự ổn định ở đây. Trung Quốc hy vọng là Bắc Triều Tiên sẽ cải cách và phát triển. Để đạt được điều này, dĩ nhiên, Trung Quốc cần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, Nhật Bản, và Hàn Quốc. Tôi nghĩ rằng nếu hoàn cảnh cho phép, Bắc Triều Tiên sẽ cải cách và mở cửa, và theo một cơ chế hợp tác hiệu quả, họ có thể thực hiện phi hạt nhân. Khi điều kiện chín muồi trong bối cảnh quốc tế nếu Bắc Triều Tiên không thực hiện phi hạt nhân, sẽ khó cải thiện quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác, và sẽ không có chỗ để phát triển. Tôi nghĩ rằng các nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên nhận thức rõ về điều này.

HAQ: Trong khi Nhật Bản đề xuất “vòng cung tự do và thịnh vượng” và Mỹ đề xuất “phong tỏa chuỗi hải đảo” của Trung Quốc, liệu có còn cơ sở để lạc quan về khu vực hóa?

ZYL: Thực tế cho thấy các chiến lược này không khả thi. Trên thế giới hiện nay không chỉ đơn giản chia thành các nước dân chủ và phi dân chủ. Toàn cầu hóa kéo tất cả các nước lại với nhau về các vấn đề như khí hậu thay đổi, sử dụng tài nguyên, và an ninh phi truyền thống. Những vấn đề này đòi hỏi sự tham gia giải quyết chung. Nếu thế giới chia thành các phe phái một lần nữa, tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn.

Nếu Trung Quốc “hành động đơn phương”, thì Trung Quốc có thể dựa vào cái gì để “làm một mình”? Trung Quốc đã có mặt trên toàn thế giới - là thành viên của các tổ chức quốc tế, và tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc trong quản trị toàn cầu. Lý do mà Nhật Bản và Mỹ đề xuất chính sách này là vì Trung Quốc đang trỗi dậy quá nhanh. Khi một nước lớn trỗi dậy nhanh, sẽ luôn luôn kéo theo mối quan tâm, và điều đó có thể tạo ra nhiều sự bất định. Tất cả chúng ta đều hy vọng rằng chúng ta có thể xây dựng các cơ chế khác nhau để làm giảm sự bất định này và mối nguy hại mà nó gây ra.

Ngoài ra còn có sự khác biệt về giá trị và văn hóa. Châu Âu và Hoa Kỳ đã dẫn đầu thế giới hơn hai thế kỷ, vậy nên với họ sự nổi lên của phương Đông đặt ra một thách thức. Đặc biệt liên quan đến một quốc gia như Trung Quốc vốn bao gồm một dân số khổng lồ, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, và sự phát triển nhanh chóng, nhiều người đã thích nghi một cách khó khăn. Mọi người đã bắt đầu lo lắng về việc “ai sẽ có thể nuôi nổi người Trung Quốc”. Nga đã lo lắng rằng việc tăng cường quan hệ kinh tế với Trung Quốc sẽ dẫn tới sự di cư ồ ạt của người Trung Quốc vào vùng Viễn Đông của Nga. Sự phát triển nhanh của Trung Quốc cũng làm gia tăng nhanh chóng nhu cầu về năng lượng và tài nguyên. Nhu cầu này đã làm quá tải nguồn cung toàn cầu.

Không quan trọng bạn nhìn Trung Quốc thế nào, Trung Quốc không thể “hành động một mình”. Trung Quốc chỉ có thể phát triển cùng với tất cả những nước khác.

HAQ: Các cơ chế hợp tác ở Đông Á vẫn còn lộn xộn. Về an ninh quân đội, vẫn còn những tàn tích sót lại của Chiến tranh lạnh, như trong trường hợp các liên minh giữa Trung Quốc-Bắc Triều Tiên hay Nhật Bản-Mỹ-Hàn Quốc. Mặc dù Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc kết hợp chặt chẽ với nhau về kinh tế, vẫn còn tranh chấp lãnh thổ thật sự giữa họ. Có lẽ điều đó làm cho quá trình khu vực hoá ở Đông Á trở nên độc đáo?

ZYL: Nhiều vấn đề tồn tại, và dẫn đến những căng thẳng liên tục. Nhưng khu vực này đã duy trì sự ổn định liên tục kể từ cuối những năm 1990. Không có chiến tranh, và xu hướng chung là tích cực. Mặc dù Nhật Bản và Hàn Quốc là đồng minh của Mỹ, hiện nay có một vài mối liên kết giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Hàn Quốc. Và mặc dù cuộc khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên đã làm phức tạp các vấn đề, điều này cũng dẫn đến việc tạo ra cơ chế đàm phán sáu bên, thông qua đó các quốc gia lớn đã bắt đầu hội tụ. Nếu chỉ nhìn vào những tàn tích và các cuộc đụng độ, chúng ta có thể nghĩ rằng chiến tranh có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Nhưng bạn cũng cần phải xem xét rằng chúng tôi đã củng cố đáng kể khả năng phòng ngừa xung đột của chúng tôi.

Tất nhiên, những phát triển gần đây là quan trọng. Bắc Triều Tiên đã phát triển hạt nhân, và Trung Quốc đã trỗi dậy nhanh chóng. Những vấn đề này đòi hỏi sự quan tâm hơn, và đặt ra một thử thách đối với lãnh đạo của tất cả các nước. Mặc dù vậy, phát triển hòa bình vẫn là lợi ích cơ bản của Trung Quốc. Kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, nội dung chính của mối quan hệ Trung-Mỹ là tránh xung đột và tìm kiếm sự hợp tác thông qua đối thoại. Hiện nay, các tranh chấp quy mô nhỏ rất khó tránh, nhưng có thể quản lý được. Một cuộc chiến tranh quy mô lớn hoàn toàn không thể xảy ra.

Sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc đã tạo ra những thách thức mới, nhưng đây trước hết là những thách thức riêng của Trung Quốc. Khi bạn phát triển từ một nước yếu thành một nước mạnh, bạn phải điều chỉnh các vấn đề cả trong nước và quốc tế. Sự điều chỉnh sai có thể tạo ra nhiều vấn đề. Trung Quốc hiện đang thể hiện với thế giới hai mặt: một mặt, Trung Quốc là nước lớn thứ hai thế giới, và có lẽ sớm trở thành nền kinh tế lớn nhất; mặt khác, Trung Quốc là một quốc gia với một dân số khổng lồ và thu nhập bình quân đầu người thấp, chất lượng cuộc sống thấp. Trong mặt sau, Trung Quốc vẫn còn khá lạc hậu. Vì vậy, Trung Quốc đã trỗi dậy, nhưng chưa phải là giàu – và đó là câu hỏi hóc búa cho mặt này.

Trong thời kỳ sau CTTG II, thế giới đã phát triển dưới sự lãnh đạo của Mỹ và châu Âu về chính trị, kinh tế, và an ninh. Do Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, và các quốc gia khác hiện đang trỗi dậy, các luật chơi buộc phải thay đổi. Những điều chỉnh này sẽ đe dọa quyền lợi và lợi ích của các quốc gia đã từng nắm vai trò lãnh đạo.

Cần phải suy nghĩ lại về sự phát triển cho nhân loại nói chung. Các quỹ đạo phát triển trong hai thế kỷ qua đã đi theo công nghiệp hóa kiểu phương Tây. Bây giờ con đường này không còn khả thi, bởi vì nguồn tài nguyên còn lại không thể nào đáp ứng được nhu cầu của các nước công nghiệp mới như Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil. Chúng tôi cần phải tìm kiếm cách mới để tiến lên phía trước - nhưng những cách đó là gì? Chúng tôi cần khám phá, và sẽ là một quá trình khó khăn. Ví dụ, chúng tôi cần phải giảm lượng khí thải carbon, nhưng điều này cũng có thể rất không công bằng với các nước mới nổi lên. Các nước này nghĩ rằng, “Chúng tôi vừa mới bắt đầu phát triển, vậy tại sao anh đã buộc chúng tôi hạn chế lượng khí thải hiện nay?” Nhưng không có gì phải bàn - đây là một vấn đề chung, và bạn không thể mãi dẫm chân trên con đường cũ. Tất nhiên, các nước công nghiệp cũng nên nỗ lực thay đổi, và phải có trách nhiệm hơn. Đó là lí do tại sao cần phải giải quyết cùng nhau những vấn đề này.

Hợp tác Đông Á cũng nên đi con đường mới. Nhưng đó là một con đường dài phía trước với nhiều nút xoắn và ngã rẽ.

 

Người dịch: Thanh Bình

Hiệu đính: Đỗ Thị Thủy

Bản gốc tiếng Anh đọc tại đây

Series đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly của Trường Đại học Havard với chủ đề: "Tranh chấp biển- An ninh hàng hải tại Đông Á", (The Disputed Sea – Maritime Security in East Asia) tháng 12/2010.

Đề nghị chỉ được dẫn đường link mọi thông tin, bài viết  trên www.nghiencuubiendong.vn, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập NCBĐ