I- Những quan điểm chủ yếu về “thuyết nước Mỹ suy yếu”


Trên thực tế, “thuyết nước Mỹ suy yếu” đã sớm ra đời từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Những năm 60 thế kỷ 20, Toynbee đã chỉ rõ Mỹ sẽ giẫm lên vết xe đổ của đế quốc Rôma và đế quốc Anh, đi vào con đường suy thoái. Năm 1986, Giáo sư sử học nổi tiếng trường Đại học Yale Mỹ, Paul Kennedy đã viết bài “Mỹ tương đối suy yếu”, cho rằng thế kỷ xưng Mỹ bá thế giới đã chấm hết. Sau đó, ông lại viết cuốn “Sự hưng thịnh và suy yếu của cường quốc” gây ảnh hưởng trên thế giới, từ tầm cao chiến lược nêu rõ hơn tình trạng bế tắc chiến lược của Mỹ. Từ những năm 90 thế kỷ 20 tới nay, Đông Âu biến động, Liên Xô tan rã, tình hình quốc tế đã có những thay đổi căn bản, đối thủ của Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh đột nhiên biến mất, cục diện “nhất siêu đa cường” dần hình thành. Mỹ ra sức sử dụng thậm chí sử dụng quá mức thực lực, đặc biệt là thực lực quân sự, cuối cùng khiến thực lực cứng-mềm đều tổn thất, khiến những cuộc tranh luận về thực lực của Mỹ suy yếu do đó cũng diễn ra ngày càng sôi nổi. Nói tóm lại, “thuyết nước Mỹ suy yếu” chủ yếu có mấy quan điểm sau:


- “Thuyết kinh tế suy yếu”. Quan điểm này chủ yếu thông qua liệt kê hàng loạt số liệu và thực tế kinh tế để chứng minh thực lực kinh tế của Mỹ suy yếu, từ đó chứng minh thực lực của Mỹ đã yếu đi, rất nhiều học giả bao gồm các nhà kinh tế học, sử học, những người Mácxít, đại diện của thuyết lệ thuộc đều ủng hộ quan điểm này. Họ chủ yếu chứng minh từ hai phương diện. Một là, từ góc độ lịch sử, so sánh số liệu kinh tế của Mỹ trong các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là những thay đổi tỉ trọng chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trên thế giới; hai là, tình hình kinh tế trong các thời kỳ hoặc giai đoạn lịch sử đặc biệt. Ví dụ, thời gian đầu sau khi Thế chiến II kết thúc, Mỹ từng đạt 50% tổng lượng kinh tế thế giới, nhưng năm 2007 chỉ bằng khoảng 30%. Năm 1950, 60% sản xuất của ngành chế tạo thế giới đến từ nước Mỹ, đến năm 1999 giảm xuống còn 25%. Dịch vụ và thương mại là hai ngành phát triển nhanh nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Năm 2001, Mỹ chiếm 24% dịch vụ và thương mại thế giới, Liên minh châu Âu (EU) 23%, và nếu tính cả xuất khẩu trong nội bộ EU thì lên tới 40%. Nhà sử học Mỹ Donald W.White từng chỉ rõ, “việc mất đi địa vị thống trị kinh tế khiến Mỹ không có đủ của cải đáp ứng được nhu cầu trong nước, trong khi phải đáp ứng những cam kết đối ngoại vô hạn.” Có người cho rằng ưu thế kinh tế trở thành cường quốc thế giới của Mỹ đang suy giảm nhanh, khiến thực lực tổng thể của Mỹ giảm sút, đặc biệt là cơn bão tài chính năm 2007 đã chứng minh cho quan điểm này.


- “Thuyết tình thế khó khăn chiến lược”. Quan điểm này chủ yếu nhấn mạnh trong quá trình Mỹ bảo vệ bá quyền toàn cầu, giá thành đã vượt xa lợi ích thu được. Đại diện điển hình cho quan điểm này là Paul Kennedy. Ông cho rằng Mỹ đứng trước nhiều tình thế khó khăn chiến lược khó có thể khắc phục trong quá trình trở thành bá quyền thế giới và bảo vệ bá quyền, những mặt hàng Mỹ cung cấp cho thế giới vượt xa lợi ích thu được từ trong đó, thế lực của Mỹ đang dần dần yếu đi, cuối cùng đi tới suy yếu. “Rất giống với lịch sử thịnh suy của các nước lớn trước đây, Mỹ cũng đang đứng trước nguy cơ có thể gọi là ‘chiến tuyến đế quốc quá dài’, cũng có nghĩa là, các nhà quyết sách của Oasinhtơn buộc phải nhìn thẳng vào hiện thực hóc búa lâu dài này: lợi ích trên toàn cầu và tổng nghĩa vụ Mỹ phải gánh vác đã vượt xa khả năng nước này có thể cùng lúc bảo vệ.”


- “Thuyết thực lực mềm bị tổn thất”. Đại diện điển hình cho quan điểm này là Joseph Nye. Ông cho rằng một quốc gia không những phải có “thực lực cứng” là kinh tế, quân sự, còn cần có “thực lực mềm” chủ yếu gồm khả năng thuyết phục người khác, quan niệm giá trị, truyền thống văn hóa …. Mỹ có “thực lực cứng” hùng mạnh nhất không thể tranh cãi trên thế giới, nhưng “thực lực mềm” cũng đang bị tổn thất thậm chí bắt đầu suy yếu, “thực lực mềm” suy yếu ngược lại đã kiềm chế “thực lực cứng” phát huy vai trò. Trong bài “Quyền lực mềm của Mỹ suy yếu”, Joseph Nye viết “Xu thế chống Mỹ có phần tăng lên trong mấy năm gần đây, trong khi quyền lực mềm của Mỹ, tức khả năng thông qua tính hợp lý trong chính sách và quan niệm giá trị được coi là nền tảng của Mỹ để thu hút các nước khác, đang xuống dốc … làm giảm khả năng Mỹ không cần dùng chính sách gây sức ép cao hoặc dùng tiền mua chuộc mà vẫn đạt được mục đích. Thất bại lớn nhất của Mỹ là ít suy tính và đầu tư rất ít vào việc phát triển quyền lực mềm.”


- “Thuyết chu kỳ bá quyền”, còn được gọi là thuyết chu kỳ chính trị quốc tế, là một loại lý luận dùng phân tích và phán đoán quy luật phát triển chính trị quốc tế. Thuyết này xuất hiện ngay từ những năm 70 thế kỷ 20 và được phát triển hơn nữa vào đầu những năm 80, “thuyết bá quyền ổn định” của Robert Gilpin và “thuyết chu kỳ dài lãnh đạo” của George Modelski đều tương đối có ảnh hưởng. Quan điểm chủ chốt của thuyết chu kỳ bá quyền là: Xung đột giữa nước bá quyền và nước mới vươn lên, sự thịnh suy của bá quyền là kết quả tất yếu trong diễn biến của hệ thống chính trị quốc tế, cũng là động lực nội tại khi hệ thống chính trị quốc tế biến động. Khi nước thông qua chiến tranh giành được địa vị bá chủ vừa mới xuất hiện, hệ thống chính trị quốc tế ở vào thời kỳ ổn định. Cùng với thực lực quốc gia lúc tăng lúc giảm, các nước thách thức dần lớn mạnh, ngày càng không hài lòng với hiện trạng, trong khi nước bá quyền lại đang xuống dốc. Chiến tranh khu vực nhằm tranh giành lợi ích giữa nước gây thách thức và nước bá quyền bắt đầu nổ ra, thời kỳ ổn định của nền chính trị quốc tế liền chấm dứt, hệ thống quốc tế bước vào thời kỳ rối ren mới. Tiếp đó, chiến tranh thế giới tranh giành bá quyền cũng không tránh khỏi, nền chính trị quốc tế lại trở lại cục diện mất trật tự và rối ren. Sau khi cuộc chiến tranh kéo dài kết thúc, các nước gây chiến trở thành bá chủ mới, nền chính trị quốc tế lại khôi phục trạng thái ổn định. Sự thịnh suy của bá quyền là quy luật khách quan không dịch chuyển theo ý chí con người. Modelski cho rằng mỗi một chu kỳ bá quyền đều có “người lãnh đạo”, đó là Bồ Đào Nha thế kỷ 16, Hà Lan thế kỷ 17, nước Anh thế kỷ 18, 19 và nước Mỹ thế kỷ 20. Các chu kỳ đều có 4 giai đoạn: (1) trỗi dậy trong cuộc chiến tranh bá trên toàn cầu; (2) địa vị nước lãnh đạo thế giới được thừa nhận; (3) khả năng chỉ đạo phi hợp pháp hóa; (4) phân tán kết cấu quyền lực, phân tán hóa dẫn tới những cuộc giành giật mới, lại bước vào vòng tuần hoàn tiếp theo.


- “Thuyết hệ thống thế giới phát triển theo vòng tuần hoàn mang tính chu kỳ”. Quan điểm này có mối liên quan chặt chẽ với “thuyết chu kỳ bá quyền”, đại diện điển hình là Immanuel Wallerstein. Thông qua phân tích lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản từ thế kỷ 16 đến nay, Wallerstein đã đưa ra quy luật phát triển tổng thể của hệ thống thế giới: nhịp độ-quy luật mang tính chu kỳ và xu thế mang tính lâu dài. Nhịp độ-quy luật mang tính chu kỳ là chu kỳ tuần hoàn mở rộng – thu hẹp trong hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa do những mâu thuẫn nội tại giữa tổng nhu cầu và tổng cung cấp của nền kinh tế thế giới gây ra. Trên cơ sở lý luận bước sóng dài của Krondratiev, Immanuel Wallerstein chỉ rõ bước sóng dài của hệ thống thế giới cứ 40-50 năm lặp lại một lần, thời kỳ đình trệ của mỗi chu kỳ đều tạo cơ hội và động lực cho việc tổ chức lại sản xuất trong hệ thống thế giới và chuẩn bị cho việc mở rộng chu kỳ tiếp theo. Nhịp độ-quy luật mang tính chu kỳ không những làm cho bên trong hệ thống kinh tế thế giới có những biến động tương đối về vị trí, mà còn tạo động lực cơ bản cho xu thế phát triển lâu dài của hệ thống thế giới. Trong bài bình luận “Suy thoái: triển vọng thời gian dài” ngày 15/10/2008, Wallersterin nêu rõ: “Nói tới chu kỳ bá quyền, Mỹ chính là người tranh bá đã trỗi dậy năm 1873, tới năm 1945 giành được địa vị chi phối bá quyền toàn diện, và cứ suy yếu dần sau thập niên 1970. George W. Bush ngu xuẩn đã biến sự suy yếu chậm chạp thành suy yếu nhanh chóng. Cho tới nay, bá quyền Mỹ đã là hoa cúc vàng của ngày hôm qua… Thế giới đã bước ra khỏi giai đoạn B của Krondratiev lần cuối cùng năm 1945, sau đó lại xuất hiện thời kỳ leo thang giai đoạn A hùng mạnh nhất trong lịch sử của hệ thống thế giới hiện đại. Nó đạt tới đỉnh cao vào khoảng năm 1967-1973, sau đó rơi vào giai đoạn trượt dốc.” Từ đó chúng ta có thể thấy Wallerstein cho rằng thực lực kinh tế Mỹ bắt đầu suy yếu ngay sau khi xác lập địa vị bá quyền, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay càng chứng tỏ Mỹ đã suy yếu thời gian dài.


Tuy nhiên, tất cả những giải thích lý luận này đều có tính hạn chế nhất định, không thể chứng minh đầy đủ Mỹ đã suy yếu. Một mặt, một số lý luận mang tính phiến diện nhất định, tức là nhấn mạnh một cách phiến diện thực lực ở một mặt nào đó suy yếu khiến thực lực tổng thể của Mỹ suy yếu, ví dụ “thuyết kinh tế suy yếu”, “thuyết thực lực mềm bị tổn thất”… Suy thoái kinh tế quả thực đã khiến thực lực của Mỹ sụt giảm, nhưng không đe dọa địa vị kinh tế và địa vị bá quyền căn bản của nước này. Những lý luận này quá quan tâm tới thực lực tương đối của Mỹ sụt giảm mà xem nhẹ hiện thực thực lực tuyệt đối chưa có những thay đổi quá lớn. Thực lực mềm chủ yếu là một khả năng vận dụng quyền lực tổng hợp, có mối liên quan lớn tới nhận thức và sự tu dưỡng chính trị của nhà lãnh đạo, hơn nữa có thể bù đắp phần thực lực mềm bị tổn thất bằng sức mạnh kinh tế, văn hóa thậm chí quân sự. Trên thực tế, Tổng thống Obama đã nhận thức được tính nghiêm trọng của vấn đề này và đã tích cực tạo dựng lại địa vị lãnh đạo để khôi phục thực lực mềm cho đất nước.


Mặt khác, một số lý luận có tính giới hạn lịch sử nhất định, ví dụ “lý luận chu kỳ bá quyền”, “thuyết hệ thống thế giới phát triển theo vòng tuần hoàn mang tính chu kỳ”. Những lý luận này bắt đầu từ những kinh nghiệm phát triển của lịch sử, hoặc phân tích tiến trình phát triển của hệ thống thế giới, hoặc phân tích sự thay đổi thịnh suy của các nước bá quyền…. Chúng ta không thể phủ nhận ý nghĩa tấm gương của lịch sử, nhưng liệu lịch sử có lặp lại hay không, còn phải đợi thực tiễn kiểm nghiệm. Môi trường trong nước và quốc tế mà các nước bá quyền trước Mỹ đối mặt có những khác biệt về bản chất so với nước Mỹ ngày nay. Các nước bá quyền trước Mỹ không có ảnh hưởng mang tính toàn cầu, ngay cả đế quốc Anh cũng vậy, toàn cầu hóa ngày nay đã khiến Mỹ và các nước trên thế giới gắn bó chặt chẽ với nhau. Môi trường trong và ngoài nước khác nhau khiến ý nghĩa của việc so sánh sự suy thoái của các nước bá quyền chỉ là tương đối. Cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính trên phạm vi toàn cầu hiện nay đã cho thế giới thấy, chẳng quốc gia hoặc tổ chức quốc tế nào có thể chịu đựng nổi hậu quả do Mỹ suy yếu nhanh và lớn như vậy tạo ra. Đúng như lời Fareed Zakaria “đặc trưng then chốt trong sự suy yếu của nước Anh không thích hợp với Mỹ”. Lý luận chu kỳ bá quyền vấp phải nhiều sự nghi ngờ, “thuyết nước Mỹ suy yếu” hình thành trên cơ sở này càng gây tranh cãi. Mưu toan thông qua những ví dụ đơn lẻ để kiểm nghiệm những lý luận mang tính phổ biến hiển nhiên là có vấn đề. Còn về “thuyết tình thế khó khăn chiến lược”, hiện nay xem ra Mỹ quả thực đang đứng trước một loạt tính thế khó khăn chiến lược, chẳng hạn khủng hoảng kinh tế, vấn đề Irắc, Ápganixtan, an ninh lãnh thổ và an ninh ở nước ngoài…, về căn bản và lâu dài, Mỹ có lẽ chẳng có cách nào khắc phục được một số tình cảnh khó khăn chiến lược, nhưng về ngắn hạn, hoặc trong tương lai gần, Mỹ sẽ không rơi vào suy thoái nghiêm trọng do đứng trước tình cảnh khó khăn chiến lược.


II- Thực lực cơ bản của Mỹ chưa suy yếu


Sức mạnh quốc gia là một trong những khởi điểm lôgich quan trọng của nhiều lý luận về quan hệ quốc tế. Bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực Hans Morgenthau đã phân tích sâu và cho rằng thực lực quốc gia được tạo thành từ 9 phương diện: địa lý, nguồn tài nguyên tự nhiên, năng lực công nghiệp, khả năng chuẩn bị cho chiến tranh, dân số, tính cách dân tộc, tinh thần quốc dân, tố chất ngoại giao và tố chất của chính phủ.


Dưới sự phối hợp của sức mạnh quân sự hùng hậu, ưu thế địa-chính trị thiên nhiên ưu đãi của Mỹ được phát triển nhanh, ưu thế địa lý đã vượt xa biên giới quốc gia Mỹ. Mỹ là một trong những nước có nguồn tài nguyên phong phú nhất thế giới và đang kiểm soát các nơi sản xuất và tuyến đường vận chuyển tài nguyên quan trọng như dầu mỏ, khí đốt thế giới. Dân số Mỹ mặc dù có xu thế lão hóa, nhưng do dân số tăng liên tục và sự du nhập của dân di cư, trình độ giáo dục của người dân không ngừng nâng cao, khiến chất lượng dân số chẳng những không đe dọa thực lực của Mỹ, mà ngược lại trở thành một trong những nguồn lâu dài của sức mạnh quốc gia.


Về thực lực kinh tế: Mặc dù xảy ra khủng hoảng kinh tế, nhưng thực lực kinh tế của Mỹ vẫn đứng đầu thế giới, nền kinh tế Mỹ chưa đến mức quá gay go. Chuyên mục khái quát tình hình thế giới trên trang web của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã công bố những số liệu GDP mới nhất của các nước năm 2008, Mỹ 14,33 nghìn tỷ USD, tiếp tục đứng đầu thế giới. Tuy nhiều chỉ tiêu kinh tế cho thấy nền kinh tế Mỹ đã rơi vào suy thoái, nhưng do tổng lượng GDP vẫn còn dư hơn 1.400 tỷ USD so với tổng GDP của 3 nước Nhật Bản (đứng thứ 2), Trung Quốc (thứ 3), Đức (thứ 4), cho thấy ưu thế dẫn đầu của Mỹ không thể dao động trong 20, 30 năm tới. Báo cáo của Học viện phát triển quản lý quốc tế Thụy Sĩ (IMD) cho biết, mặc dù kinh tế Mỹ đã rơi vào suy thoái nhưng vẫn có sức cạnh tranh nhất toàn cầu. Trong bảng “Niên giám sức cạnh tranh toàn cầu” của IMD, kinh tế Mỹ liên tục đứng đầu 15 năm. Danh sách này có được thông qua đánh giá biểu hiện kinh tế, hiệu quả của chính phủ, hiệu suất của doanh nghiệp và cơ sở hạ tầng. Trong bài đăng trên tạp chí “Ngoại giao” Mỹ, Fareed Zakaria viết khủng hoảng kinh tế không ảnh hưởng đến mặt cơ bản của nền kinh tế Mỹ … Mỹ vẫn có khả năng và sức sống tạo dựng thế giới.


Về thực lực quân sự: Cho đến nay, Mỹ là nước duy nhất có khả năng thực thi chuyển quân quy mô lớn trên toàn cầu và phát động chiến tranh cục bộ ở bất cứ nơi nào trên thế giới cách xa đất nước mình. Mỹ có kho vũ khí hạt nhân lớn nhất, chi phí quân sự và công nghiệp quốc phòng lớn nhất thế giới, đồng thời cũng có trang bị quân sự tiên tiến nhất. Dân số Mỹ chưa tới ¼ dân số Trung Quốc, về địa lý hai mặt Đông-Tây có hai đại dương lớn hiểm yếu, phía Nam và phía Bắc không có tranh chấp trên đất liền, quy mô lực lượng quân sự vượt xa nhu cầu phòng thủ đất nước. Trang bị chiến đấu chủ yếu cho lực lượng thường trực trên chiến trường thường đi trước đối thủ một thế hệ, đồng thời hình thành hệ thống tác chiến hỗn hợp hải, lục, không quân, trên không gian vũ trụ, điện tử. Ngay khi đã chiếm ưu thế tuyệt đối, quân đội Mỹ vẫn không ngừng đẩy mạnh đầu tư quân sự, phát triển vũ khí kiểu mới nhằm luôn duy trì ưu thế dẫn đầu về quân sự. Nhiều năm qua, ngân sách quốc phòng Mỹ luôn đứng đầu thế giới. Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockhom Thụy Điển, chi phí quốc phòng của Mỹ năm 2007 là 546,8 tỷ USD, chiếm trên 40% chi phí quốc phòng toàn cầu. Đồng thời Mỹ vẫn đứng đầu thế giới về kim ngạch xuất khẩu vũ khí trong nhiều năm.


Về khả năng đổi mới khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo. Mỹ đứng đầu thế giới trong lĩnh vực công nghệ nano, số “trung tâm nano” chuyên dụng nhiều hơn cả 3 nước đứng sau là Đức, Anh, Trung Quốc gộp lại, và số bản quyền phát minh sáng chế được công bố còn nhiều hơn tổng số của các nước khác trên thế giới. Công nghệ sinh học cũng đang bị Mỹ thống trị. Năm 2005, thu nhập từ công nghệ sinh học đạt gần 50 tỷ USD, gấp 5 lần tổng lượng của châu Âu, chiếm 76% thu nhập công nghệ sinh học toàn cầu. Theo báo cáo năm 2006 của Trung tâm cải cách Luân Đôn, Mỹ đã đầu tư 2,6% GDP vào giáo dục đại học, trong khi châu Âu và Nhật Bản lần lượt là 1,2% và 1,1%. Dân số Mỹ chỉ chiếm 5% thế giới, nhưng có tới 7, 8 trong top 10 trường đại học nổi tiếng thế giới, chiếm 48% thậm chí có người cho rằng lên tới 68% trong top 50 trường đại học đứng đầu thế giới. Tình hình nghiên cứu khoa học càng đặc biệt gây chú ý. Tại Ấn Độ, mỗi năm chỉ có 35-50 tiến sỹ tốt nghiệp chuyên ngành máy tính; con số này ở Mỹ lên tới 1.000. Đến nay Mỹ vẫn là nơi có sức thu hút các học sinh nhất, tiếp nhận 30% tổng số học sinh nước ngoài trên toàn cầu, và sự hợp tác giữa thương mại và giáo dục cũng không nước nào sánh bằng. Học giả Trung Quốc Tư Trung Quân nêu rõ: Dòng chảy nhân tài đang quyết định thực lực của một nước, Mỹ sẽ không suy yếu chừng nào những nhân tài ưu tú nhất thế giới vẫn đổ nước này. Theo “Báo cáo sức cạnh tranh toàn cầu (2008-2009)” được Diễn đàn kinh tế thế giới công bố mới nhất, sức cạnh tranh của Mỹ vẫn vượt trên các nước khác rất xa.


Về thực lực mềm: Ưu thế thực lực mềm của Mỹ càng nổi trội hơn thực lực cứng. Nhân tài chính là cội nguồn cốt lõi của thực lực mềm, như phần trên đã nêu rõ, dòng chảy nhân tài chủ yếu trên thế giới vẫn đổ về Mỹ. Trong khi giữ ưu thế về nhân tài, khoa học công nghệ và sáng tạo, ưu thế về thông tin đại chúng, phim ảnh và các chương trình vui chơi giải trí của Mỹ cũng khó có thể lung lay. Thực lực mềm thông qua sự truyền bá của mạng lưới phát triển làm cho ảnh hưởng của thực lực cứng tăng lên gấp bội, và Mỹ đều đã thực hiện chuyên môn hóa và thương mại hóa thực lực mềm, quy mô lợi nhuận các mặt thậm chí đã vượt qua ngành chế tạo và ngành dịch vụ. Coca Cola, Mc Donald’s… đại diện cho văn hóa Mỹ là những vũ khí sắc bén công phá tuyến phòng thủ tâm lý của các nước. Nhà bình luận nổi tiếng của Mỹ Robert Kagan nói ông tin rằng thế giới đơn cực do Mỹ thống trị vẫn sẽ tiếp tục tồn tại; hiện vẫn chưa có một nước hoặc tập đoàn nào muốn tranh bá thế giới với Mỹ. Ông nhấn mạnh, nước lớn siêu cường có thể bại trận nhưng vẫn không mất đi địa vị siêu cường, điều kiện là: “Công dân Mỹ vẫn ủng hộ Mỹ nắm quyền chủ đạo, các nước láng giềng – mối thách thức tiềm ẩn của Mỹ cảm thấy lo sợ chứ không phải sự đồng tình.” Đương nhiên, thực lực mềm của Mỹ quả thực đã bị tổn hại quá nhiều, nhưng trên mức độ rất lớn việc khôi phục là quá trình mở rộng đầu tư tân trang hình ảnh, chỉ cần chính phủ mới có nguồn lực kinh tế lớn thì thực lực mềm sẽ được nâng lên rất nhanh, huống hồ đến nay văn hóa điện ảnh truyền hình của Mỹ vẫn phổ biến khắp thế giới, “giấc mộng nước Mỹ” vẫn thu hút các tinh hoa của rất nhiều nước. Do vậy thực lực của Mỹ vẫn chưa bị tổn thương.


Nói tóm lại, sức mạnh tổng hợp của Mỹ chưa suy yếu, sức cạnh tranh chủ chốt khi trỗi dậy là nước lớn thế giới chưa vấp phải những tác động căn bản: chẳng hạn ưu thế địa-chính trị vô cùng có lợi, ưu thế về quy mô, các chủ doanh nghiệp có tinh thần sáng tạo, ý thức về sứ mệnh cứu thế, thực hành dân chủ… Ưu thế tuyệt đối của Mỹ như chế độ chính trị, sức sống kinh tế, khả năng đổi mới xã hội vẫn chưa được phát huy. “Bất kể là nước Mỹ trong tưởng tượng của mọi người hay một nước cụ thể, việc chúng ta dán mác “suy yếu” cho Mỹ là võ đoán quá mức, cũng không được dựa trên những căn cứ chân thực, bất kể cuộc thảo luận nào về thuyết nước Mỹ tương đối suy yếu đều chẳng có tác dụng gì trước nước Mỹ hùng cường.”
Vậy tại sao lại nảy sinh “thuyết nước Mỹ suy yếu”?

III- Căn nguyên ra đời “thuyết nước Mỹ suy yếu”


Thứ nhất, thực lực của Mỹ ở một số mặt nào đó quả thực có tổn thất trên mức độ nhất định. Xét về điểm này, “thuyết nước Mỹ suy yếu” không phải không có căn cứ. Do thực lực kinh tế, khả năng chính trị, thực lực quân sự và thực lực mềm của Mỹ đều đã suy yếu hoặc tổn thất ở những mức độ khác nhau, vai trò chung của quan niệm giá trị, tâm lý xã hội với kinh nghiệm quan hệ quốc tế, những sai lầm về lý luận khiến nhiều học giả khi phán đoán phương hướng phát triển của Mỹ trong tương lai đã đưa ra “thuyết nước Mỹ suy yếu” – một kết luận dường như hợp lý nhưng không phù hợp thực tế.


Thứ hai, từ khi nước Mỹ thành lập đến nay, ý thức nguy cơ và ý thức hoạn nạn liên tục được nhắc đến. Chính ý thức hoạn nạn này đã thúc đẩy sự ra đời của siêu cường thế giới. Cho đến nay, Mỹ đã sản sinh ý thức nguy cơ “chỗ cao cũng không tránh được gió đông”. Trên tờ “Thời báo Niu Yoóc” các ngày 26/5/2005 và 29/6/2008, Thomas Friedman đã liên tục nhắc nhở người dân Mỹ phải có ý thức nguy cơ. Điều khiến chúng ta nhận thấy được ý thức hoạn nạn của Mỹ chính ở trong bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Barack Obama: “Hiện nay chúng ta đều hiểu rõ, chúng ta đang ở trong cuộc khủng hoảng. Đất nước chúng ta đang chiến đấu, đối thủ là bạo lực và hận thù có ảnh hưởng sâu xa; nền kinh tế đất nước cũng suy yếu nghiêm trọng, nguyên nhân là sự tham lam và vô trách nhiệm của một số người, nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta đã mắc những sai lầm quyết sách trong một số vấn đề lớn, đồng thời cũng chưa thể làm tốt công tác chuẩn bị đối phó với thời đại mới.” Những chính sách đối ngoại trình bày trên tạp chí “Ngoại giao” Mỹ trong thời kỳ Obama tranh cử cũng khiến chúng ta thấy được nhận thức tỉnh táo của ông ta đối với những mối đe dọa nước Mỹ phải đối mặt. Ý thức hoạn nạn của dân chúng Mỹ còn thường xuyên được thể hiện trong các tác phẩm điện ảnh, văn học, ví dụ thường xuyên nói tới ngày tận thế trong các bộ phim như “Sụp đổ”, “Để lại phía sau”, “Những năm tháng cuối cùng của nước Mỹ”, “Ngày tận thế”, “24 giờ chống khủng bố”… Thậm chí có người còn dự đoán Đại chiến thế giới III sắp xảy ra.


Không một học giả nào có thể tách rời môi trường đặc biệt họ sinh sống để nghiên cứu các vấn đề xã hội. Khi nghiên cứu thực lực của Mỹ, các học giả Mỹ cũng không thể tách khỏi truyền thống văn hóa xã hội Mỹ, tức là ý thức hoạn nạn và ý thức nguy cơ. Các tác phẩm như “Sự thịnh suy của cường quốc” của Paul Kennedy, “Nước Mỹ tan rã” của Arthur Schlesinger, hai tác phẩm nổi tiếng của Huntington “Xung đột văn minh và tái thiết lại trật tự thế giới” và “Chúng ta là ai? – Thách thức đặc tính quốc gia Mỹ phải đối mặt”, “thuyết nước Mỹ suy yếu” của Immanuel Wallerstein … đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm giá trị và tâm lý xã hội này, kỳ thực đây cũng là một trong những sự theo đuổi giá trị của những người tri thức, thể hiện tinh thần yêu nước. Những trình bày và phân tích của các học giả nổi tiếng này không hẳn cho rằng không thể đảo ngược hoặc làm dịu xu thế trên, mà là muốn nhắc nhở người dân Mỹ và các nhà hoạch định chính sách nếu không thay đổi cách sử dụng quyền lực sai lầm sẽ dẫn tới nước Mỹ suy yếu.


Thứ ba, kinh nghiệm trong quan hệ quốc tế và định hướng sai lầm về lý luận. Từ khi nhà nước ra đời đến nay, luôn có những nghiên cứu lý luận về sự thịnh suy của đất nước, đặc biệt từ khi bước vào thời kỳ cận-hiện đại, giới học thuật càng hứng thú với việc này. Khi nghiên cứu quy luật thịnh suy của đất nước, mặc dù các học giả này đã đưa ra một loạt quan điểm lý luận rất có kiến giải, nhưng trên mức độ rất lớn, đây là sự tổng kết hiện tượng lịch sử, hoặc dựa vào một trường hợp đặc biệt để đại diện cho xu thế phát triển của thế giới. Ví dụ, lý luận chu kỳ bá quyền, thuyết về sự ổn định của bá quyền, lý luận chuyển dịch quyền lực, lý luận hệ thống thế giới… đều đưa ra một số kết luận mang tính quy luật quan trọng về sự thịnh suy của đất nước, nhưng đều là nghiên cứu thảo luận từ một hoặc một số mặt nào đó trong nội bộ đất nước hoặc môi trường quốc tế, mà chưa tổng kết những quy luật phản ánh toàn diện sự thịnh suy của đất nước. Tuy nhiên các học giả phương Tây lại đang dùng những quy luật này để nghiên cứu thực lực nước Mỹ đi xuống, đưa ra kết luận Mỹ đã bắt đầu suy yếu.


Ngoài ra, ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc ở các nước đang phát triển cũng là một nguyên nhân khiến “thuyết nước Mỹ suy yếu” lưu hành ở mức độ nhất định. Không học giả nào có thể nghiên cứu tách khỏi môi trường xã hội mình sinh sống, học giả ở các nước đang phát triển cũng không ngoại lệ, thậm chí phản ánh càng mạnh mẽ hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa. Kiểu bài xích và tẩy chay bá quyền văn hóa phương Tây đứng đầu là Mỹ trở thành thiên hướng giá trị nội tại của nhiều học giả ở các nước đang phát triển, tức là “chủ nghĩa dân tộc trong nghiên cứu học thuật”.


Học giả ở các nước đang phát triển phần nhiều đưa ra “thuyết nước Mỹ suy yếu” từ xu thế phát triển quốc tế như toàn cầu hóa, đa cực hóa . Ví dụ có học giả cho rằng “sự phát triển của toàn cầu hóa trong tương lai cần được các cơ chế quốc tế phát huy vai trò chủ yếu, và yêu cầu Mỹ chấp nhận hiện thực bá quyền suy yếu, trở thành một thành viên quan trọng trong hợp tác quốc tế ổn định”. Lại có học giả cho rằng: “Rốt cuộc không thể ngăn chặn toàn cầu hóa. Cùng với châu Âu liên kết, châu Á trỗi dậy, nước Nga phục hưng, các nước lớn khu vực xuất hiện, Mỹ không thể tiếp tục một mình thống trị thế giới, mà buộc phải cùng một số nước lớn thiết lập ‘quan hệ đối tác lãnh đạo’ tương đối bình đẳng.” Có học giả còn đưa ra một loạt quan điểm, như “mưu toan thiết lập bá quyền đơn cực tất sẽ vấp phải sức ngăn cản đạo nghĩa khó có thể vượt qua”; “sự bành trướng của bá quyền Mỹ vừa khiến chính mình phải đảm nhận gánh nặng chồng chất, mà còn tạo thêm “người đào mồ” mới cho mình;… “đất nước hoàn toàn thống nhất sẽ khiến Trung Quốc trở thành nước lớn thế giới thật sự”. Có học giả còn cho rằng “xuất phát từ góc độ trung, dài hạn của nền chính trị khu vực chứ không phải toàn cầu, so sánh lực lượng căn bản rất có khả năng trong tương lai và triển vọng một cục diện có ảnh hưởng quốc tế ở khu vực Đông Á thì đó chính là xu hướng ‘chuyển dịch quyền thế’ giữa Mỹ và Trung Quốc.”


Nhưng chúng ta nhận thấy là toàn cầu hóa không chỉ hạn chế mà ngược lại càng tăng cường thực lực của Mỹ, giữa Mỹ và thế giới đã hình thành cục diện cùng phát triển, cùng tổn thất, khủng hoảng kinh tế chính là biểu hiện điển hình. Đa cực hóa là một xu thế phát triển của thế giới, nhưng cho đến nay nhiều học giả vẫn nghi ngờ liệu thế giới có phát triển thành đa cực hóa hay không, một học giả Mỹ đã nêu ra xu thế cục diện thế giới phát triển “vô cực hóa”. Thuyết Trung Quốc trỗi dậy cũng cần được lịch sử khảo sát, mặc dù đã giành được những thành tựu to lớn qua 30 năm cải cách mở cửa, nhưng Trung Quốc đang đứng trước nhiều thách thức ở trong và ngoài nước, liệu có thể trỗi dậy không, trỗi dậy bằng phương thức nào và khi nào trỗi dậy đều còn là ẩn số. Tuy nhiên hàng loạt quan điểm này lại được nhiều người ở Trung Quốc và các nước đang phát triển ủng hộ, nguyên nhân vì sao? Vì họ chịu ảnh hưởng trên mức độ nào đó của chủ nghĩa dân tộc, dẫn đến những lệch lạc trong nhận thức về thực tế thực lực của Mỹ và xu thế phát triển trong tương lai.

IV- Kết luận


Không thể phủ nhận các nước bá quyền là sản phẩm của thời kỳ lịch sử đặc biệt, tất sẽ ra đời, phát triển và suy vong cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội, nhưng trong tương lai gần Mỹ sẽ không mất địa vị bá quyền, trừ phi bên trong nước Mỹ xảy ra những sai lầm chiến lược lớn hoặc môi trường quốc tế đột nhiên thay đổi, nhưng xác suất rất thấp, do đó ưu thế cạnh tranh chủ chốt mà Mỹ hiện có sẽ không mất đi trong tương lai gần. Nghiên cứu thảo luận những tranh luận về “thuyết nước Mỹ suy yếu” từ gốc rễ sẽ có thể nhận thấy khá rõ thực chất của thuyết này. Đây chính là mối lo ngại của tầng lớp tinh hoa Mỹ đối với địa vị bá quyền do Mỹ sử dụng quá mức quyền lực trong phạm vi toàn cầu, trên thực tế đây cũng là hành động bảo vệ địa vị bá quyền của Mỹ.


Chúng ta phải có nhận thức tỉnh táo đối với “thuyết nước Mỹ suy yếu”. Một mặt, phải hiểu rõ thực lực của Mỹ chưa suy yếu, dựa vào đó vạch ra chính sách và chiến lược ngoại giao đối với Mỹ, phải nhớ rõ là không thể áp dụng chính sách hoặc chiến lược ngoại giao phi lý trí đối với Mỹ, ví dụ “mô hình G-2”, “Trung-Mỹ cùng quản lý”. Đồng thời, xác định chính xác địa vị quốc gia, tức Trung Quốc là một nước lớn khu vực có ảnh hưởng trên thế giới chứ không phải là nước lớn trên toàn cầu, Trung Quốc có thể vạch kế hoạch chiến lược và tầm nhìn chiến lược toàn cầu, nhưng không thể hành động mù quáng. Mặt khác, vì Mỹ quả thực đã tổn thất thực lực ở một số mặt nào đó, Trung Quốc có thể lợi dụng một số thời cơ có lợi, triển khai chính sách đối ngoại có lợi, nâng cao hơn nữa địa vị quốc tế của mình. Trong khi vận dụng quyền lực với bên ngoài, Trung Quốc cũng cần phối hợp sử dụng các quyền lực, đề phòng chính sách đối ngoại không hợp lý làm tổn hại thực lực đất nước. Là một nước lớn đang trỗi dậy, kế hoạch chiến lược Trung Quốc cần có là dốc sức thiết lập một cục diện quốc tế nước bá quyền và nước phi bá quyền cùng thắng lợi, đồng thời vạch kế hoạch một khi nước Mỹ suy yếu, Trung Quốc cần có chiến lược đối ngoại ra sao?./.

 

Bài đăng trên Tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện đại”, Trung Quốc, số 8/2009