Khi vòng đàm phán Doha về thương mại toàn cầu đã chuẩn bị bước sang năm thứ 12 mà chưa hề có dấu hiệu dừng lại, các cuộc đàm phán diễn ra đều thất bại. Nản chí với sự trì trệ của vòng đàm phán Doha và nóng lòng mở rộng các liên minh thương mại và an ninh, Mỹ đã ký một loạt các thỏa thuận tự do thương mại song phương (FTA), điển hình là các hiệp ước với Colombia, Panama và Hàn Quốc vào năm ngoái. Các thỏa thuận này nhìn chung là có lợi cho Mỹ, thỏa thuận với Hàn Quốc được trông đợi sẽ gia tăng thương mại giữa hai nước lên hàng tỉ USD và tạo ra hàng chục nghìn việc làm cho mỗi nước.

Bất chấp những kết quả đó, cách tiếp cận song phương không có nhiều triển vọng. Việc thông qua các hiệp định vào năm ngoái đã kết thúc thế giằng co kéo dài suốt năm năm giữa một bên là phần lớn các đảng viên Cộng hòa ở Hạ viện và những người ủng hộ thương mại trong cộng đồng kinh doanh và bên kia, là các Hạ nghị sĩ đảng Dân chủ, phần lớn là các nghiệp đoàn và các nhà sản xuất xe hơi của nước Mỹ, những nhân tố phản đối quyết liệt thỏa thuận với Hàn Quốc do những hạn chế lâu dài đối với lượng bán xe hơi của Mỹ. Sau một quá trình vận động hành lang, tranh luận và nhượng bộ đầy khó khăn, chính quyền của TTh Obama dường như chẳng còn tâm trí để đạt được một thỏa thuận song phương nữa.

Thay vào đó, để thúc đẩy chiến lược thương mại của mình, Nhà Trắng liền nắm lấy một phương pháp trung hòa giữa vòng đàm phán Doha toàn cầu và các FTA song phương: Một quá trình đa phương tập trung vào Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đến nay đã thu hút Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam tham gia đàm phán, TPP sẽ là một trong những thỏa thuận thương mại rộng mở nhất trên thế giới. Và nếu Canada, Mexico và Nhật Bản, cả ba nước này đều đã bày tỏ mong muốn gia nhập các cuộc đàm phán vào tháng 11 năm ngoái, cũng ký hiệp ước này, TPP sẽ tăng thêm hàng tỉ USD cho nền kinh tế Mỹ và củng cố các cam kết về chính trị, tài chính và quân sự của Washington ở Thái Bình Dương trong các thập niên tới. Với món quà trời cho tiềm tàng như thế, chính quyền Obama tin rằng TPP sẽ có nhiều khả năng vượt qua sự phản đối trong nước hơn một thỏa thuận ở Doha hay là các thỏa thuận song phương mới.

Nhưng TPP cũng gặp phải nhiều trở ngại. Những người chỉ trích ở nhiều nước tham gia vào các cuộc đàm phán này sợ rằng Mỹ, để bảo vệ các doanh nhân và nhà cải cách của mình, đang cố gắng sử dụng các hiệp định để áp đặt luật về bản quyền và bằng sáng chế khá toàn diện của nước họ với các đối tác thương mại. Việc các cuộc đàm phán của TPP được giữ tương đối bí mật chỉ khơi sâu thêm những lo ngại này. Các nhà đàm phán đã cho phép các bên liên quan có quan tâm từ các ngành công nghiệp tới quần chúng tiếp cận các thông tin ở các phiên công khai của TPP, nhưng họ cũng từ chối công khai các văn bản đàm phán. Nếu chính quyền Obama không thể điều tiết các hạn chế về quyền sở hữu trí tuệ, thì TPP sẽ ngày càng có khả năng sụp đổ. Kết quả thất bại đó sẽ là một đòn đả kích nghiêm trọng đối với chính quyền Obama và hủy hoại mục tiêu đảm bảo sự hiện diện lâu dài của Mỹ ở khu vực CÁ - TBD mà họ đặt ra.

Triển vọng Thái Bình Dương

Như được hứa hẹn gần đây, TPP sẽ vượt xa các loại hình truyền thống bao gồm cả các thỏa thuận thương mại. Đầu tiên, trong thập kỷ tới, nó sẽ dần xóa bỏ toàn bộ thuế quan đối với thương mại giữa các nước thành viên. Sau mô hình FTA giữa Mỹ và Hàn Quốc, nó cũng sẽ ảnh hưởng tới hầu như toàn bộ các dạng tương tác kinh tế giữa các thành viên, kể cả các chính sách về đầu tư và chi tiêu chính phủ, lao động, các tiêu chuẩn về môi trường, nông nghiệp, sở hữu trí tuệ và những lĩnh vực mới như các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp thuộc bất cứ loại nào có từ 50 tới 500 nhân công. Mỹ và các đối tác hi vọng rằng TPP sẽ trở thành trụ cột của thương mại tự do ở khu vực CÁ - TBD.

Nhưng TPP không thể đạt được những triển vọng đó nếu không có Nhật Bản. GDP của tất cả các nước thành viên, ngoại trừ Mỹ, cộng lại vẫn chưa bằng một nửa của Nhật. Có thêm Nhật Bản đồng nghĩa với việc thỏa thuận này sẽ bao trùm một khu vực nắm giữ 40% GDP toàn cầu và tăng thêm 60 tỉ đô là cho thị trường xuất khẩu của Mỹ. Đó là lý do chính quyền Obama và ngành xuất khẩu Mỹ thông báo họ ủng hộ việc thêm Nhật vào TPP khi Tokyo bày tỏ ý định gia nhập. Tháng 12 vừa qua, hơn 60 tổ chức lương thực và nông nghiệp Mỹ đã gửi một thông báo chung tới Ron Kirk, Đại diện thương mại, và Tom Vilsack, Bộ trưởng Nông nghiệp Mỹ, cổ vũ họ “lót đường cho việc Nhật tham gia đầy đủ”. Một tuần sau, Business Roundtable (bàn tròn kinh doanh), một hiệp hội các CEO, và Liên minh doanh nghiệp Mỹ trong TPP, một tập thể các công ty ủng hộ thoả thuận tự do thương mại này, đã gửi những bức thư tương tự cho đại diện thương mại Mỹ. Vào tháng ba, Wendy Cutler, một Trợ lý Đại diện thương mại Mỹ, đã phát biểu trước cử tọa ở Tokyo rằng “viễn cảnh Nhật Bản gia nhập TPP… rất quan trọng, nó có tính lịch sử. Và, nhìn chung, rất lý thú”.

Bị khả năng đó hấp dẫn, chính quyền Obama đã biến TPP thành “hòn đá tảng” (trọng tâm) trong chính sách thương mại của mình, và họ đang làm mọi việc có thể để lái thỏa thuận này theo hướng có lợi cho Mỹ. Ví dụ, họ nhấn mạnh việc khuyến khích và bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp này nhìn chung ít có kinh nghiệm xuất nhập khẩu, nhưng Washington kỳ vọng sẽ gia tăng vai trò của chúng trong TPP bởi vì chúng sẽ góp phần tăng cường số lượng việc làm của Mỹ và do vậy bằng cách hỗ trợ các doanh nghiệp này, họ sẽ có thể tạo dựng chỗ dựa trong nước cho thương mại. Người Mỹ từ lâu nay đã thờ ơ với thương mại, tin tưởng rằng điều này chủ yếu làm lợi cho người nước ngoài, làm họ mất công ăn việc làm và góp phần vào thâm hụt thương mại của nước Mỹ, điều vốn đã bị coi là tiêu cực bất chấp thực tế rằng nó đi kèm với sức mạnh thương mại và chính trị của Mỹ.

Những sai lầm trong sở hữu trí tuệ

Ngay cả khi Washington hi vọng các nỗ lực hình thành TPP sẽ xoa dịu những quan ngại của các ngành công nghiệp và nghiệp đoàn Mỹ, nó vẫn khuấy động các nhóm lợi ích cộng đồng và chính phủ các nước tham gia đàm phán hiệp định này - đặc biệt là khi nói đến sở hữu trí tuệ.

Vào tháng 2/2011, một bản dự thảo của các cuộc đàm phán TPP liên quan đến sở hữu trí tuệ bị rò rỉ trên mạng. Một loạt các tổ chức của Mỹ và nước ngoài, như Intellectual Property Watch, Public Knowledge, TPP Watch và Anonymous đã chỉ trích nhiều biện pháp được nêu ra trong tài liệu này thậm tệ. Đặc biệt, họ chỉ trích đề nghị cưỡng chế hình sự đối với luật bản quyền và bằng sáng chế mà đã vượt quá các hiệp định hiện có giữa nhiều quốc gia đàm phán. Họ cũng quả quyết rằng TPP sẽ yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet nhận dạng người sử dụng và Mỹ đang tìm cách áp đặt việc bảo vệ bản quyền phổ quát của nước này lên toàn bộ hiệp định một cách phi lý. Luật pháp Mỹ quy định phần lớn bản quyền sẽ hết hạn sau 70 năm, nhưng những người chỉ trích khẳng định, không chính xác, rằng chính quyền Obama đã kêu gọi TPP bổ sung một thời hạn bản quyền tối thiểu là 95 năm đối với một số lĩnh vực. Học giả Sean Flynn và Jimmy Koo đã nắm bắt được nỗi lo sợ của những người chỉ trích khi họ viết, vào năm 2011, rằng TPP sẽ tạo nên “một công cụ quốc tế về sở hữu trí tuệ cực đoan nhất, chống lại người tiêu dùng và phản phát triển nhất từ trước tới nay.”

Chính quyền đã ủng hộ những đề nghị này không phải nhằm làm hại người tiêu dùng mà để bảo vệ những nhà cải cách. Sở hữu trí tuệ vốn là một nguồn thu quan trọng đối với Mỹ, ví dụ như năm 2010, 40% tiền bản quyền toàn thế giới, trị giá gần 100 tỷ USD, thuộc về người Mỹ. Theo Bộ Thương mại Mỹ, khoản tiền này tương đương với lợi nhuận thu được từ xuất khẩu máy bay, ngũ cốc và dịch vụ kinh doanh, ba lĩnh vực hàng đầu có thặng dư trong thương mại của Mỹ. Và sở hữu trí tuệ của Mỹ sẽ chỉ trở nên quan trọng hơn vào những năm tới, khi mà nhiều phát kiến công nghệ của nước này, như là kỹ thuật sản xuất của thế hệ mới và truyền thông vô tuyến thế hệ mới, thống trị thương mại của họ. Những người sáng chế ra các công nghệ này cũng sẽ cần nương tựa vào TPP nhiều như những người giữ bản quyền và bằng sáng chế hiện nay dựa vào luật pháp Mỹ vậy.

Mỹ không phải nước duy nhất trong TPP quan tâm tới việc bảo vệ bản quyền và bằng sáng chế cho công dân của mình. Ví dụ, năm 2008, Nhật đã dẫn dầu thế giới về đăng ký bằng sáng chế. Singapore, với các khoản đầu tư nhiều tỉ USD vào công nghệ sinh học, cũng cần bảo vệ các nỗ lực tự thân của họ. Trong khi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các nhà sáng chế Mỹ, nước này cũng đi tiên phong cho các nước khác noi theo. Nhưng rõ ràng là một số nước không tin rằng Mỹ lại quan tâm tới lợi ích của họ.

Đàm phán tự do

Bất chấp việc các nước đàm phán TPP rất quan tâm đến việc bảo vệ tốt sở hữu trí tuệ, một vài nước vẫn tiếp tục buộc tội Mỹ đang đưa ra những đòi hỏi phi lý. Phiên đàm phán thứ 11 của TPP ở Australia tháng 3/2012, báo chí nước này đã đưa tin rằng tất cả thành viên đàm phán của TPP đều bác bỏ đề nghị của Mỹ liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Giữa tháng Tư, nhiều nhà đàm phán của Chile đã bày tỏ sự hoài nghi đối với tương lai của Hiệp định này khi họ đặt vấn đề “liệu việc tham gia TPP có xứng đáng với cái giá phải trả không nếu hiệp định này có thêm yêu cầu về sở hữu trí tuệ?

Trong khi đó, cũng tại cuộc họp ở Australia vào tháng Ba, nhiều tổ chức đã chỉ trích TPP vì ảnh hưởng của nó đối với nguồn cung thuốc rẻ. Chẳng hạn, Tổ chức Bác sĩ không biên giới đã buộc tội chính phủ Mỹ vì thêm các điều khoản vào TPP mà sẽ can dự vào việc phân phối thuốc trị sốt rét và HIV/AIDS giá rẻ tới các nước đang phát triển. Trong một vòng đàm phán trước đó của TPP, tổ chức này cũng tuyên bố rằng hiệp định sẽ “gia tăng bảo hộ độc quyền đối với các loại thuốc cũ đơn giản bằng cách chỉnh sửa một chút ít các công thức hiện có”, do đó sẽ ngăn cản việc sử dụng các thuốc cùng loại.

Chính phủ Mỹ vẫn chưa giải quyết mọi lời buộc tội nhắm vào họ trong tiến trình TPP nhưng vào cuối tháng Hai, Demetrios Marantis, Phó Đại diện thương mại Mỹ, đã phát biểu rằng Văn phòng của ông “hoàn toàn không đồng ý” với Tổ chức Bác sĩ không biên giới. Ông chỉ ra rằng sáu tháng trước đó, Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ đã thiết lập một chương trình TPP 9 điểm, chương trình “Thương mại tăng cường khả năng tiếp cận thuốc men”, mà theo lời ông là nhằm đảm bảo rằng “các thuốc cùng loại có thể ra thị trường sớm nhất có thể”.

Do đó, Mỹ đã bắt đầu xoa dịu các lo ngại của những người nghi ngờ TPP. Nhưng vấn đề lớn hơn vẫn còn tồn tại. Trong kỷ nguyên của Internet, các lời đồn về những điều khoản trong hiệp định có thể khơi mào sự phản đối toàn cầu. Minh bạch hơn và thông tin tốt hơn về quá trình đàm phán có thể giúp chống lại các tin đồn này. Và mặc dù Mỹ và các đối tác đã tiếp thu ý kiến của các cá nhân và tổ chức có quan tâm nhưng họ lại chưa hoàn toàn công khai quá trình này với công chúng, khiến những lo ngại hợp lý về định hình thực sự của TPP có cơ hội lan tràn. Chẳng hạn, vào tháng một, Gary Horlick, một luật sư thương mại tiếng tăm và cựu quan chức thương mại Mỹ, đã mô tả tiến trình TPP là “cuộc đàm phán thương mại thiếu minh bạch nhất mà tôi từng biết”. Mặc dù Kirk, Đại diện Thương mại Mỹ đã nói các cuộc đàm phán này là “tiến trình mở cửa và minh bạch nhất từ trước tới nay”, nhưng văn phòng của ông lại bộc lộ quá ít quan điểm của Mỹ với công chúng hay thậm chí cả với các bên quan tâm mà không có liên quan chính thức tới vòng đàm phán TPP.

Vấn đề lại nổi lên lần nữa vào tháng Hai, khi 23 tổ chức của Mỹ đại diện cho các thư viện của hầu hết toàn bộ các viện nghiên cứu và trường đại học của nước này thúc giục chính quyền Obama “cho phép tiếp cận công khai” đối với các văn bản dùng trong đàm phán. Họ lập luận rằng các điều khoản của TPP “sẽ đụng chạm tới mọi gia đình Mỹ” và rằng “tính lâu dài và bắt buộc của những thỏa thuận có tính ràng buộc đó… đòi hỏi sự minh bạch tối đa”. Nhiều ngày sau, Thượng nghị sĩ Ron Wyden (Nghị sĩ đảng Dân chủ bang Oregon) đã nêu yêu cầu này trong một cuộc tranh luận căng thẳng tại một cuộc điều trần với Kirk. Đáp lại nhận định này, Kirk cho rằng chính quyền Obama đã “tiến hành công khai nhiều thông tin hơn và sớm hơn bất cứ chính quyền nào trước đó”.

Không hài lòng với câu trả lời của Kirk, Wyden dẫn luật pháp cho thấy quy định rằng việc công khai bất cứ văn bản đàm phán nào của TPP “phải diễn ra sau khi văn bản đó được đưa cho các bên khác không quá 24 giờ”. Đề nghị của Wyden không có kết quả, song những đòi hỏi về việc công khai hơn nữa các cuộc đàm phán TPP vẫn tồn tại, cả bên trong và bên ngoài nước Mỹ.

Một hình thức thỏa thuận mới

Nếu các cuộc đàm phán TPP có kết quả, Mỹ sẽ mạnh hơn rất nhiều, cả về kinh tế và chính trị, trong thế hệ tới. Một thỏa thuận có cả Nhật Bản cuối cùng sẽ đưa tới một hiệp định tự do thương mại giữa Washington và Tokyo, dẫn tới “lần mở cửa thứ ba” đã được chờ đợi từ lâu của Nhật Bản và tăng cường quyền lực của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương. Hơn nữa, Mỹ hi vọng rằng TPP sẽ củng cố một hệ thống thương mại liên kết và mở cửa dựa trên các luật lệ đồng thuận.

Đó là lý do chính phủ Mỹ hi vọng hoàn thành các điểm chính nhất của một thỏa thuận cuối cùng vào cuối năm nay. Nhưng trước tiên họ phải vượt qua sự phản đối TPP ở trong nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực ô tô, bảo hiểm và nông nghiệp. Họ cũng cần dung hòa mối lo ngại của những người chỉ trích ở trong và ngoài nước, bất cứ đâu có thể, đối với những yêu cầu về sở hữu trí tuệ. Và họ phải công khai hơn nữa quá trình đàm phán. Nếu chính quyền Obama không thể tiến hành những bước này, họ sẽ bỏ lỡ một cơ hội đặt nền móng cho một hình thức thỏa thuận thương mại mới và tái khẳng định vai trò chính trị và kinh tế của Mỹ ở Thái Bình Dương.

Theo Foreign Affairs

Trần Quang (gt)