20/07/2018
Năm quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế là một chỉnh thể mà các chủ thể xây dựng hậu phương quân đội cần nắm vững. Nó gắn chặt tư duy chỉ đạo (chủ quan) với những thực tiễn (khách quan) đã diễn ra trong tình hình mới. Có nắm chắc và vận dụng quan điểm chỉ đạo một cách hoàn chỉnh mới hy vọng biến mục tiêu, nội dung, biện pháp... xây dựng hậu phương quân đội trong tình hình mới thành hiện thực.
Tóm tắt
Hiện nay đất nước ta đang tiến hành quá trình nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế sâu rộng. Bởi vậy, việc bám sát thực tiễn tình hình thế giới, khu vực, đất nước là yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội; tiếp tục chuyển hướng mạnh mẽ, cơ bản, toàn diện xây dựng hậu phương quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên toàn bộ vùng đất, vùng biển đảo, vùng trời, chống mọi hành động xâm lược và lấn chiếm trong giai đoạn mới. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng lãnh đạo quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Vì vậy, phải quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc vào xây dựng hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Bài viết phân tích 5 quan điểm chỉ đạo cho công tác này.
Từ khóa: Hội nhập quốc tế, hậu phương, quân đội nhân dân Việt Nam
Quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc vào xây dựng hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng lãnh đạo quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Vì vậy, phải quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc vào xây dựng hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Phân tích vấn đề có tính quy luật chi phối sự phát triển sức mạnh chiến đấu của quân đội, Ăngghen đã từng nhấn mạnh “không có gì lại phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế tiên quyết hơn là chính ngay quân đội và hạm đội”. Ăngghen cũng cho rằng: “Toàn bộ tổ chức và phương pháp chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi hay thất bại đều rõ ràng phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào nhân lực và vũ khí, nghĩa là vào số lượng và chất lượng của dân cư và của kỹ thuật.”
Lênin đã chỉ rõ một trong những tính quy luật của chiến tranh hiện đại đó là sự thành bại của các cuộc chiến tranh phụ thuộc có tính chất quyết định vào nhân tố hậu phương. Theo Lênin, hậu phương có vai trò to lớn trong chiến tranh. Hậu phương vững chắc là điều kiện căn bản để giành thắng lợi trong chiến tranh. Lênin cho rằng: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương được tổ chức vững chắc.”[1] Hậu phương vững chắc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ chính trị - xã hội, nền kinh tế, thái độ của giai cấp thống trị và của quần chúng nhân dân đối với chiến tranh. Trong đó, chế độ chính trị - xã hội và nền kinh tế có ý nghĩa quyết định trong chiến tranh hiện đại. Về vai trò của hậu phương trong chiến tranh hiện đại, nhân tố chính trị - xã hội được Lênin xác định có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác lập sức mạnh của hậu phương. Bảo vệ và kế thừa quan điểm của Ph.Ăngghen về vai trò của nhân tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh, coi chế độ chính trị - xã hội, mặt chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội là những nhân tố giữ vai trò quyết định đối với tiến trình và kết cục của chiến tranh, Lênin nhấn mạnh: “Tính chất của một cuộc chiến tranh và thắng lợi của nó đều phụ thuộc chủ yếu vào chế độ bên trong nước tham chiến”[2], và “trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường.”[3] Đề cập tới vai trò của hậu phương trong chiến tranh hiện đại, Lênin đã chỉ rõ vị trí, vai trò quan trọng của nhân tố “vật chất - kỹ thuật”: “Ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi.”[4]
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng, về xây dựng quân đội và hậu phương quân đội, về thực hiện chính sách xã hội đối với quân đội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng hậu phương quân đội là một trong những nội dung đặc sắc trong tư tưởng của Người về chính trị và quân sự, là quan hệ giữa công tác chính trị và công tác quân sự của Đảng trong lãnh đạo quân đội cách mạng. Những chỉ dẫn của Người về vấn đề xây dựng hậu phương quân đội bao quát các thời kỳ của tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ cộng hòa, trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong chỉ đạo cách mạng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc.
Trong xây dựng hậu phương quân đội, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng vấn đề dân chủ và đoàn kết, nhất là đoàn kết quân dân. Đó thực sự là động lực chính trị - tinh thần quan trọng để xây dựng chế độ, củng cố vững chắc cơ sở chính trị - xã hội và cũng là động lực quan trọng để xây dựng hậu phương quân đội. Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng hậu phương quân đội phải đặc biệt chú trọng phát huy lòng yêu nước của nhân dân, động viên nhân dân, phát động toàn dân tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Hồ Chí Minh đã phân tích rõ mối quan hệ biện chứng, thúc đẩy lẫn nhau giữa kháng chiến và kiến quốc để làm rõ quan hệ giữa hậu phương với tiền tuyến, giữa quân và dân, giữa sản xuất và chiến đấu.
Hồ Chí Minh căn dặn: phải coi trọng chính sách xây dựng hậu phương quân đội, thực hiện chính sách hiện hành đầy đủ, thực chất, bảo đảm công bằng, hợp lý, đề cao trách nhiệm của chính quyền, đoàn thể các cấp trong việc thi hành chính sách hậu phương quân đội ở mọi nơi, mọi lúc. Đó là những chỉ dẫn quan trọng, mang tính nguyên tắc, ở tầm quan điểm cần phải quán triệt thực hiện. Những chỉ dẫn này đặc biệt có ý nghĩa chỉ đạo trong lĩnh vực xây dựng hậu phương quân đội và chính sách hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt và vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Lênin và Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của hậu phương trong chiến tranh hiện đại và tầm quan trọng của nhân tố chính trị - xã hội đối với xây dựng hậu phương đất nước trong điều kiện thời bình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã xác định: “Xây dựng hậu phương đất nước một cách toàn diện”.5 Đến Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, tư tưởng về xây dựng hậu phương đất nước được cụ thể hóa thêm một bước, xác định mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, các nhiệm vụ cơ bản và giải pháp chủ yếu để xây dựng hậu phương quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hội nghị đã khẳng định: “sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chính là sức mạnh tổng hợp. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định.”6
Tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm nêu trên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Phát huy mạnh mẽ nội lực là nhân tố quyết định; đồng thời tranh thủ tối đa mọi thuận lợi từ bên ngoài. Nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.”7 Đến Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển những tư tưởng đó với chủ trương xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng vững chắc phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, chủ động, tích cực xây dựng hậu phương đất nước một cách toàn diện trong việc chuẩn bị để đất nước sẵn sàng đối phó với chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bành trướng, bá quyền, đại dân tộc.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng hậu phương quân đội một cách toàn diện và xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng vững chắc để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội nhập quốc tế; dưới góc độ xây dựng hậu phương quân đội, cần nắm vững và chỉ đạo thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với bảođảm quốc phòng, an ninh, xây dựng hậu phương quân đội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng hậu phương quân đội trong các dự án lớn, trong quy hoạch phát triển các vùng, các ngành kinh tế, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn chiến lược, các ngành quan trọng. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, tạo nền tảng cho công nghiệp quốc phòng, an ninh; một số ngành, lĩnh vực sản xuất các sản phẩm lưỡng dụng; phát triển mạnh kinh tế biển và vùng ven biển gắn với xây dựng hậu phương quân đội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo. Có chính sách hỗ trợ, bảo vệ ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ và hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân vùng biên giới. Đa dạng hóa các nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông; ưu tiên các dự án phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới, biển, đảo, địa bàn chiến lược. Tập trung đầu tư và nâng cao hiệu quả xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trọng điểm trên các vùng biển, đảo, các vành đai biên giới, các địa bàn xung yếu. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao đời sống nhân dân các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ, các vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến cũ. Quản lý chặt chẽ các dự án FDI đầu tư vào những lĩnh vực, địa bàn nhạy cảm về quốc phòng, an ninh. Thực hiện tốt chính sách đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với đất nước, bảo đảm an sinh xã hội; giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên đối với nhiệm vụ xây dựng hậu phương quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng đất nước, xây dựng hậu phương quân đội vững mạnh về mọi mặt và thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung xây dựng hậu phương quân đội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo tinh thần các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ để thực hiện quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra sự đồng thuận cao trong các tầng lớp dân cư trong nhiệm vụ xây dựng hậu phương quân đội bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có tinh thần yêu nước, ý thức tự lực tự cường, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tự hào về truyền thống dựng nước, giữ nước và tinh thần bất khuất của dân tộc; có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, trách nhiệm xây dựng hậu phương quân đội, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng hậu phương quân đội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; thực hiện tốt pháp lệnh dân chủ ở cơ sở trong mọi lĩnh vực, nhất là đối với lĩnh vực liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phải chủ động, tích cực tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nghĩa vụ và trách nhiệm xây dựng hậu phương quân đội cho mỗi người dân trong tình hình mới. Vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các chính sách đền ơn đáp nghĩa, chính sách hậu phương quân đội, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc.
Năm là, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có sức chiến đấu cao. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, thế trận lòng dân, kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Tăng cường hơn nữa nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, vũ khí cho quốc phòng, an ninh. Quan tâm phát triển khoa học - công nghệ, nghệ thuật quân sự, an ninh và ứng dụng các thành tựu khoa học vào huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Chuẩn bị chu đáo các phương án động viên nhân tài, vật lực cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Xây dựng và triển khai có hiệu quả kế hoạch động viên quốc phòng, bảo đảm nhu cầu dự trữ quốc gia cho quốc phòng và kế hoạch bảo đảm cho các hướng chiến lược. Sẵn sàng vũ trang toàn dân bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là, triển khai đồng bộ, toàn diện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp quốc phòng, xây dựng hậu phương quân đội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bám sát thực tiễn tình hình thế giới, khu vực, đất nước nhất là yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội; tiếp tục chuyển hướng mạnh mẽ, cơ bản, toàn diện xây dựng hậu phương quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên toàn bộ vùng đất, vùng biển đảo, vùng trời, chống mọi hành động xâm lược và lấn chiếm
Có bám sát tình hình thực tiễn nêu trên mới có định hướng xây dựng hậu phương quân đội đúng đắn phục vụ thiết thực cho công cuộc xây dựng một quân đội chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Bởi lẽ, xây dựng một quân đội chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại không thể tách rời công cuộc củng cố và xây dựng hậu phương quân đội về mọi mặt, vì hậu phương vững chắc là một nhân tố quan trọng bậc nhất quyết định sức mạnh của quân đội và thắng lợi của chiến tranh. Xây dựng hậu phương quân đội trong tình hình mới phải bám sát thực tiễn sau đây của tình hình thế giới, khu vực, đất nước:
Hiện nay, thế giới đã từ hai hệ thống biến đổi thành thế giới một cực, một siêu cường, sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, đang phát triển thành thế giới đa cực, đa trung tâm. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng tình hình tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đốt sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn. Các nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Hợp tác và cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ gia tăng.
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng động nhất thế giới, nơi cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn. Tuy ít có khả năng xảy ra chiến tranh, xung đột lớn, nhưng tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo sẽ gia tăng, không loại trừ khả năng có thể có đột biến. Với việc hình thành cộng đồng vào năm 2015, ASEAN có điều kiện phát huy tốt hơn vai trò trung tâm trong việc duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực; nhưng sự đoàn kết, thống nhất nội khối chịu sự tác động lôi kéo, chia rẽ của các nước lớn, nhất là trong những vấn đề các thành viên có lợi ích khác nhau, như Biển Đông, quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Kông.
Ở trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, xuất hiện những vấn đề phức tạp mới ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động, thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Tranh chấp biển, đảo sẽ diễn biến gay gắt, phức tạp hơn. Có thể xuất hiện những khác biệt về lợi ích và quan hệ phức tạp hơn giữa ta với các nước láng giềng... Trên một số vùng chiến lược trọng điểm (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, các thành phố lớn) còn tiềm ẩn các yếu tố gây mất ổn định, không loại trừ khả năng xảy ra bạo loạn chính trị,...
Tình hình đó dẫn đến yêu cầu một mặt phải nâng cao trách nhiệm bảo vệ an toàn nội địa của các lực lượng an ninh; mặt khác, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo có sự phát triển mới, nặng nề, phức tạp hơn, đòi hỏi phải kịp thời ưu tiên hiện đại hóa một số quân, binh chủng như hải quân, không quân, pháo binh, tên lửa, đặc công nước, cảnh sát biển, biên phòng,... Từ đó, hậu phương quân đội cần được chỉ đạo xây dựng một cách mưu lược và có trọng điểm: Theo hướng làm chủ ngày càng vững chắc các vùng biên cương, các địa bàn chiến lược, tăng cường xây dựng các “khu kinh tế - quốc phòng” có nhiệm vụ vừa phát triển kinh tế, vừa phối hợp với dân quân tự vệ, bộ đội Biên phòng bảo vệ địa bàn, các vùng biển, đảo có chủ quyền không chỉ bằng các phân đội của Hải quân mà bằng lực lượng ngư dân mạnh khỏe, được trang bị tàu thuyền lớn, được tổ chức và huấn luyện thành dân quân tự vệ trên biển, thực sự tạo được một “thế trận quốc phòng toàn dân” trên vùng biển, đảo có chủ quyền, khi xảy ra tình huống bất trắc, có thể nhanh chóng chuyển thành “thế trận chiến tranh nhân dân” bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Trong tình hình mới, nền kinh tế đất nước đã chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, trong xây dựng hậu phương quân đội, cần tiếp tục giữ vững và phát triển chế độ Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, trong đó có nhiệm vụ xây dựng hậu phương quân đội; Nhà nước, thông qua Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý, chỉ đạo, điều hành; Mặt trận Tổ quốc không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc - nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; chăm lo xây dựng tình quân dân cá nước đối với Bộ đội cụ Hồ, chăm lo xây dựng dân quân tự vệ và bộ đội địa phương làm nền tảng vững chắc để xây dựng quân chủ lực vừa đủ và tinh nhuệ. Đối với một vài quân, binh chủng đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật cao như không quân, tàu ngầm, pháo binh, tên lửa,... trong cơ chế kinh tế thị trường, để bảo đảm có cán bộ kỹ thuật phục vụ ổn định trong nhiều năm, cần phát triển chế độ sĩ quan (hoặc nhân viên quốc phòng) chuyên nghiệp, không chỉ vận dụng chế độ nghĩa vụ quân sự một cách máy móc. Nhà nước, qua con đường luật pháp, sớm ban hành Luật Động viên cục bộ, kèm theo Luật Tổng động viên, để kịp thời ứng phó khi có tình hình bất trắc.
Xây dựng hậu phương quân đội trong tình hình mới cần hết sức coi trọng xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ và xây dựng đất nước trong tình hình mới.
Kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển kinh nghiệm lịch sử về xây dựng hậu phương quân đội và thành quả xây dựng hậu phương quân đội thời kỳ đổi mới trong xây dựng hậu phương quân đội hiện nay
Kinh nghiệm lịch sử về xây dựng hậu phương quân đội của cha ông và những thành quả xây dựng hậu phương quân đội trong thời kỳ đổi mới vẫn còn nguyên giá trị cho chúng ta tham khảo, học tập; vì thế, cần kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo vào xây dựng hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay và trong thời gian tới.
Nắm vững các quan điểm của ông cha về xây dựng hậu phương quân đội qua lịch sử giữ nước của dân tộc như quan điểm “bách tính giai binh”, “ngụ binh ư nông”, “cử quốc nghênh địch”, “chúng chí thành thành”, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”,... vào hoàn cảnh đất nước hiện nay, nổi lên là quán triệt và chấp hành phương châm chỉ đạo của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hội nhập quốc tế: “Kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hóa, cô lập các phần tử, thế lực ngoan cố chống phá Việt Nam.”8 Đây là sự phát triển mới so với quan điểm chỉ đạo xây dựng hậu phương quân đội trong thời kỳ chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược. Hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc đều được tiến hành theo quan điểm “động viên toàn dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện”, thực hiện khẩu hiệu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Do thực hiện “tận dân vi binh” nên hậu phương đã nổi lên các phong trào “trai ba sẵn sàng, gái ba đảm đang”, “nông dân tay cày, tay súng, công nhân tay búa, tay súng”. Thời kỳ chống đế quốc Mỹ có sự phân biệt ranh giới rõ rệt giữa hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Hậu phương quân đội đã có phong trào “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với thành tựu to lớn trên các tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, trên bộ, cùng đoàn 559 anh hùng, để lại cho ngày nay bài học sâu sắc về công tác động viên, giáo dục tạo nên sự đồng thuận chính trị trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, thực sự xây dựng được “thế trận lòng dân” làm nền tảng cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài.
Đối sách của ông cha và kinh nghiệm thời kháng chiến gợi mở cho chúng ta giải pháp trong cuộc đấu tranh bảo vệ biển, đảo ngày nay, cần dựa vào đông đảo ngư dân, xây dựng thành lực lượng dân quân tự vệ trên biển, lực lượng chủ lực bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc; làm nền tảng cung cấp nguồn nhân lực cho Hải quân, Cảnh sát biển, Đặc công nước, Kiểm ngư; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển, tạo thế vững chắc đấu tranh bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc, không cho nước ngoài tiếp tục lấn chiếm theo mưu đồ độc chiếm Biển Đông, bành trướng, bá quyền của họ.
Trong 30 năm đổi mới, Đảng luôn gắn quốc phòng với an ninh; quốc phòng, an ninh với đối ngoại, tập trung vào việc “bố trí lại lực lượng trên phạm vi cả nước, tạo ra thế phòng thủ hợp lý, tăng cường khả năng phòng thủ ở các khu vực trọng điểm; từng bước xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố,... chấn chỉnh một bước cơ bản tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, giảm quân thường trực; đồng thời chú ý xây dựng lực lượng dự bị động viên và nâng cao chất lượng dân quân tự vệ. Chú trọng nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội, trước hết là về mặt chính trị, bảo đảm quân đội vững vàng trước tình hình phức tạp ở trong nước và trên thế giới, kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, chấp hành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Khắc phục nhiều khó khăn để bảo đảm đời sống và chính sách đối với bộ đội.”9
Kế thừa kinh nghiệm xây dựng hậu phương trong lịch sử dân tộc và trong 30 năm đổi mới, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, vấn đề xây dựng hậu phương quân đội càng phải được coi trọng hơn bao giờ hết. Để làm tốt công tác xây dựng hậu phương trong tình hình mới, trước hết, cần quán triệt sâu sắc quan điểm: Giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hai là, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Ba là, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ vững mạnh, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Bốn là, chuẩn bị tốt kế hoạch động viên kinh tế cho chiến tranh gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước, trong từng bộ, ngành và từng địa phương.
Xác định đúng đắn mục tiêu, nội dung, phương thức, cơ chế chính sách phù hợp; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức, biện pháp xây dựng hậu phương quân đội trong tình hình mới
Cuộc đấu tranh giành, giữ gìn (và khôi phục) chủ quyền biển, đảo của đất nước chắc chắn còn diễn biến rất phức tạp, kéo dài, trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ còn nặng nề, phức tạp, “không loại trừ khả năng có thể có đột biến” như Nghị quyết “về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ. Bởi vậy, xây dựng hậu phương quân đội trong tình hình mới phải xác định rõ mục tiêu cần đạt tới, từ mục tiêu tổng quát đến các mục tiêu cụ thể về từng mặt, đó là một dạng thức thể hiện của mục tiêu chung và những mục tiêu cụ thể của “Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.”
Mục tiêu xây dựng hậu phương quân đội cũng phải gắn bó chặt chẽ và tạo nên những điều kiện ngày càng thuận lợi cho từng quân, binh chủng Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, theo mục tiêu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Mục tiêu đó cũng phải động viên và khơi dậy có hiệu quả các tiềm lực, các nguồn lực cấu thành một hậu phương ngày càng vững chắc của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quan điểm chỉ đạo đối với nội dung xây dựng hậu phương quân đội, một mặt, phải bảo đảm huy động ngày càng đầy đủ những nguồn lực đáp ứng được mọi yêu cầu của cuộc đấu tranh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; mặt khác, phải phù hợp với cơ chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tận dụng được thành quả của nền kinh tế tri thức trong thời đại thông tin, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Mọi nguồn lực cấu thành hậu phương quân đội không tự nó phát sinh và tìm đến với nhau, mà nhất thiết phải được tạo nên theo những cơ chế đóng góp, những chính sách huy động và những chủ thể quy tụ và quản lý mới trở thành sức mạnh vật chất, tinh thần hỗ trợ đắc lực cho Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống chiến lược. Do đó, quan điểm chỉ đạo xây dựng hậu phương quân đội không chỉ xác định mục tiêu, nội dung mà phải có tác dụng xác địnhcơ chế, chính sách như cơ chế lãnh đạo của tổ chức Đảng, cơ chế quản lý của Nhà nước, cơ chế trách nhiệm của các bộ, các ngành, của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, cơ chế động viên đóng góp của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các chính sách động viên nhân tài, vật lực trong xã hội, chính sách đối với các đối tượng đã và đang thực hiện nghĩa vụ quân sự,...
Do cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới, biển, đảo, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc còn diễn ra lâu dài theo quan điểm “Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước” và phương châm “Kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế”, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã xác định, nên phương thức xây dựng hậu phương quân đội trong tình hình mới cơ bản là “phương thức xây dựng hậu phương quân đội của đất nước làm nhiệm vụ phòng, chống xâm lược trong thời bình”, sẵn sàng động viên cục bộ, động viên từng phần trước khi phải tổng động viên khi có tình huống bất trắc, bằng biện pháp thường xuyên đóng góp nhân tài, vật lực theo nghĩa vụ thông qua luật pháp là chủ yếu, kết hợp với biện pháp tình nguyện khi có yêu cầu của đối tượng (như tình nguyện ra phục vụ ngoài hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; phục vụ trong các binh chủng kỹ thuật,...).
Cần có kế hoạch xây dựng và củng cố hậu phương quân đội về mọi mặt. Phải làm cho hậu phương quân đội có đầy đủ khả năng về nhân tài, vật lực bảo đảm mọi nhu cầu xây dựng quân đội trong thời bình cũng như nhu cầu về sinh hoạt và chiến đấu trong thời chiến. Trong mọi mặt công tác của Nhà nước, trong kế hoạch chung của Nhà nước cũng như trong kế hoạch của từng bộ, ban, ngành, địa phương cần quán triệt ý thức, trách nhiệm xây dựng và củng cố hậu phương quân đội, kết hợp nhu cầu kinh tế - xã hội và văn hóa với nhu cầu quốc phòng, kết hợp nhu cầu thời bình với nhu cầu thời chiến. Bản thân quân đội trong lúc tiến hành nhiệm vụ xây dựng quân đội cũng cần chú trọng và tích cực tham gia công cuộc củng cố hậu phương, nhất là trong việc chấp hành các chính sách kinh tế, tài chính, trong công tác sản xuất, tiết kiệm.
Trong xây dựng hậu phương quân đội, cần xác định đúng đắn mục tiêu, nội dung, phương thức, biện pháp, cơ chế chính sách cho phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn, từng vùng lãnh thổ; cần hết sức quan tâm, chú trọng những vùng quan trọng như vùng biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa. Cần đặc biệt coi trọng xây dựng và củng cố hậu phương quân đội ở vùng rừng núi, biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa; tăng cường công tác vận động đồng bào thiểu số, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội về mọi mặt; có những phương thức, biện pháp phù hợp nhằm huy động nhân tài, vật lực để xây dựng hậu phương quân đội và có những phương thức, biện pháp thích đáng để đào tạo cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở những vùng này vững mạnh, trong sạch.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và có nhiều phương thức, biện pháp huy động sức người, sức của trong công tác xây dựng hậu phương quân đội. Cần xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách quy định nghĩa vụ bắt buộc mỗi công dân, mỗi tổ chức, đơn vụ kinh tế (trong mọi loại hình sở hữu, mọi thành phần kinh tế), mỗi bộ, ngành, địa phương, cộng đồng xã hội đều phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đóng góp xây dựng hậu phương quân đội và tham gia xây dựng hậu phương quân đội. Ngoài ra, có thể xã hội hóa một số công việc xây dựng hậu phương quân đội; hoặc động viên, tuyên truyền cổ vũ sự tự nguyện của mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế, cộng đồng xã hội đóng góp sức người, sức của cho công cuộc xây dựng hậu phương quân đội.
Phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế
Với một chế độ, đất nước luôn thực hiện đường lối “quốc phòng toàn dân, toàn diện, kháng chiến toàn dân, toàn diện” thì đương nhiên từ lý luận đến thực tiễn cho thấy, xây dựng hậu phương quân đội trong bất kỳ thời kỳ nào cũng đã từng “phát huy sức mạnh tổng hợp” tạo dựng được trong thời kỳ đó. Sự tổng hợp sức mạnh không chỉ là tổng hợp sức mạnh về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nội bộ chế độ, mà quan trọng hơn là gắn chặt và kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, bao gồm sự ủng hộ và viện trợ của nhân dân và chính quyền các nước bạn, các nước anh em, các tổ chức quốc tế, của nhân dân tiến bộ tại các nước đang có quân đội chiến đấu chống quân dân Việt Nam, trở thành phong trào phản chiến trong nội bộ đối phương... Tất cả đã hợp thành sức mạnh tổng hợp của hậu phương Quân đội nhân dân Việt Nam trong mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong tình hình mới, đối với hậu phương quân đội đang làm nhiệm vụ phòng, chống xâm lược biển, đảo và biên giới là chủ yếu, đề phòng xẩy ra xung đột lớn, theo quan điểm và phương châm đã nói ở trên thì sức mạnh tổng hợp cần phát huy trước hết là sức mạnh về chính trị - tinh thần, một sự đồng thuận ngày càng cao với mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, với nhiệm vụ và giải pháp của “Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới”; xây dựng cho được một “thế trận lòng dân” thật vững chắc đối với sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong tình hình mới. Thế trận đó đang bị phân tán vì những nhận thức, quan điểm khác nhau về đối tượng và đối tác, về nhiệm vụ quân sự và quốc phòng, về phân công trách nhiệm giữa quốc phòng và an ninh, về đối sách xử lý trong từng tình huống đối với từng loại đối tượng. Thứ hai là nguồn nhân lực với chất lượng ngày càng cao, được tổ chức thành lực lượng dân quân tự vệ và bảo vệ an ninh ở cơ sở ngày thêm chặt chẽ và rộng khắp, sẵn sàng bổ sung cho quân thường trực khi có yêu cầu; trước mắt cần tập trung lực lượng nguồn nhân lực chất lượng cao bổ sung cho các quân, binh chủng cần thiết, như Hải quân, Không quân, Pháo binh, Tên lửa,... các lực lượng tình nguyện ra sinh sống và làm chủ các hải đảo của Tổ quốc. Thứ ba là sức mạnh về kinh tế - xã hội, bao gồm nguồn cung cấp về lương thực, thực phẩm, vật tư, về trang bị kỹ thuật cần thiết cho mọi nhiệm vụ quân sự - quốc phòng; sức mạnh về khoa học - công nghệ đi đôi với nền công nghiệp quốc phòng ngày càng tiên tiến, góp phần đắc lực, có hiệu quả vào quá trình hiện đại hóa quân đội nói riêng, và các lực lượng vũ trang nhân dân nói chung. Thứ tư là sức mạnh về văn hóa, được khơi dậy từ truyền thống bất khuất của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc, giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, truyền thống vinh quang, quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam - “đội quân lập quốc”, “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” của Bộ đội cụ Hồ. Thứ năm là nguồn sức mạnh đã có quá trình hình thành trong thời kháng chiến của toàn dân tộc là sức mạnh của thời đại ngày càng lớn mạnh do vị thế ngày càng cao của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc tế, trước hết là sự đồng tình ủng hộ của các bạn bè truyền thống, của các tổ chức quốc tế và khu vực, của các quốc gia không mâu thuẫn về lợi ích với chúng ta trong sự nghiệp trước mắt bảo vệ biển, đảo và biên giới của Việt Nam; tiếp theo là sự nghiệp “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.
Sức mạnh tổng hợp xây dựng hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế sẽ phát triển tỷ lệ thuận với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam - chủ thể phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Những mặt yếu kém chậm được khắc phục về mọi mặt của Đảng và Nhà nước đương nhiên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng quy tụ sức mạnh tổng hợp đó. Bởi vậy, những nỗ lực phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết, nhược điểm của từng cấp đảng bộ và chính quyền Nhà nước chính là sự đóng góp tích cực vào yêu cầu xây dựng sức mạnh tổng hợp cho hậu phương Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế nói riêng, sức mạnh tổng hợp của xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng nói chung trong tình hình mới.
Năm quan điểm chỉ đạo xây dựng hậu phương quân đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế trên đây là một chỉnh thể mà các chủ thể xây dựng hậu phương quân đội cần nắm vững. Nó gắn chặt tư duy chỉ đạo (chủ quan) với những thực tiễn (khách quan) đã diễn ra trong tình hình mới. Có nắm chắc và vận dụng quan điểm chỉ đạo một cách hoàn chỉnh mới hy vọng biến mục tiêu, nội dung, biện pháp... xây dựng hậu phương quân đội trong tình hình mới thành hiện thực./.
Đại tá, PGS, TS Bùi Đình Bôn, Hội đồng Lý luận Trung ương. Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Học viện Ngoại giao, Số 1 (108).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 35, bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva 1980.
2. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva 1980.
3. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva 1980.
4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương: Số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013, Hà Nội 2013.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1991.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.
[1]V.I.Lênin, Toàn tập, tập 35, bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva 1980, tr.497.
[2]V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva 1980, tr.361.
[3]V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva 1980, tr.147.
[4]V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, sđd, tr.271.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, tr.38.
6 Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003, tr.46.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương: Số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013, Hà Nội 2013, tr.4.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương: Số 28-VNQ/TW, ngày 25/10/2013, Hà Nội 2013, tr.5
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1991, tr.35-36.
Sự dịch chuyển tập hợp lực lượng hiện nay tác động đến tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương trên nhiều cấp độ và vấn đề khác nhau. Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi và thách thức trong bối cảnh mới. Để có thể ứng xử phù hợp, Việt Nam cần nhận thức rõ các xu hướng tập hợp lực lượng, phương châm...
Bài viết trình bày vấn đề chính trị năng lượng và ngoại giao năng lượng từ cả góc độ lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn, từ đó đưa ra những hàm ý cho việc tiếp cận, xây dựng và triển khai ngoại giao năng lượng ở Việt Nam.
Một trong những bí quyết thành công của sự nghiệp Đổi mới và của ngoại giao Việt Nam kể từ năm 1986 đến nay là không ngừng tìm tòi cái mới, tạo đột phá. Bài viết này cố gắng làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh ý tưởng cường quốc tầm trung cho Việt Nam sau năm 2030.
Chính sách/quyết định quốc gia hay quốc tế thường phải đạt tầm “tư duy chiến lược”. Nếu một chính sách chỉ giải quyết được các vấn đề thứ yếu, trước mắt mà để lại hậu quả, hệ lụy tiêu cực lâu dài, đó sẽ là một “sai lầm chiến lược”; ngược lại, nếu đạt mục tiêu cơ bản, chính yếu thì chính sách đó sẽ có...
Các mối quan hệ quốc tế đang vận động trong một môi trường đa chiều và phức tạp. Điều này đòi hỏi tất cả các nước phải có những cách tư duy và ra quyết định phù hợp với bối cảnh mới. Việt Nam cũng cần phải có những điều chỉnh phù hợp với xu hướng này.
Thế giới đang chuyển sang “Thế giới Mạng - đa trung tâm” và trong bối cảnh đó Việt Nam là một nước không lớn và đang gặp những thách thức nghiêm trọng mới đối với chủ quyền, an ninh và phát triển, nhưng về lâu dài, vẫn có những thuận lợi chiến lược để tận dụng các thay đổi trong trật tự và luật chơi...