____________________

 

Tháng 11/2006, sau hơn 11 năm chuẩn bị và đàm phán, Việt Nam đã được kết nạp là thành viên thứ 151 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và từ tháng 1/2007, Việt Nam bắt đầu thực hiện nghĩa vụ thành viên và các cam kết gia nhập. Đây là một một mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, bởi vì từ thời điểm này Việt Nam mới thực sự tham gia vào một sân chơi lớn có quy mô toàn cầu và qua đó Việt Nam có thể khai thác được nhiều lợi ích và cơ hội cho phát triển, tránh bị gạt ra bên lề dòng chảy tiến bộ chung của nhân loại. Cũng bắt đầu từ đây, nền kinh tế và thị trường Việt Nam thực sự trở thành một bộ gắn bó chặt chẽ với kinh tế và thị trường thế giới. Điều này cũng có nghĩa rằng bên cạnh việc hưởng lợi và những cơ hội tốt cho phát triển, Việt Nam cũng đồng thời chịu nhiều tác động trái chiều và  thách thức phải vượt qua sau khi gia nhập WTO. Bài viết này đề cập những phát triển tích cực nổi bật và những mặt hạn chế, khó khăn chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam trong 3 năm qua kể từ sau khi gia nhập WTO, qua đó có thể phần nào thấy được tác động của việc gia nhập WTO nói riêng và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt Nam tiến hành những năm qua. Sở dĩ như vậy là vì với 3 năm sau gia nhập WTO, một khoảng thời gian còn quá ngắn ngủi để có thể xem xét và đánh giá một cách đầy đủ về tác động của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam, nhất là trong bối cảnh phần lớn các cam kết thực chất và sâu mà Việt Nam phải thực hiện sẽ diễn ra sau từ 3 đến 5 năm kể từ khi gia nhập. Cho nên những phân tích và nhận xét dưới đây chỉ là bước đầu và còn rất sơ bộ.

 

Những phát triển tích cực

 

Tham gia WTO đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam nhiều lợi ích và cơ hội thuận lợi có thể khai thác phục vụ phát triển kinh tế. Trong thời gian qua, Việt Nam đã tận dụng và khai thác khá thành công các lợi ích và cơ hội, nhờ đó Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, đặc biệt là đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đứng trong số ít nước duy trì được mức tăng trưởng GDP cao nhất thế giới (8,5% năm 2007, 6,2 % năm 2008), thậm chí mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu vừa qua và trong khi phần lớn các nền kinh tế trên thế giới rơi vào suy thoái thì nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng 5,2 %. Dưới đây, xin nêu những mặt sáng nổi bật của nền kinh tế Việt Nam thời gian qua.

 

Xuất nhập khẩu tăng mạnh và đóng vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

 

Thuận lợi hết sức quan trọng là ngay sau khi gia nhập WTO, Việt Nam lập tức được hưởng sự đối xử bình đẳng trong thương mại và mở cửa thị trường của 150 nước thành viên. Các hàng rào thuế quan phi WTO mà hàng hoá Việt Nam bị áp đặt một cách bất lợi bị bãi bỏ, nhờ đó Việt Nam có thể tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của mình sang thị trường các nước thành viên. Mặt khác, với việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường Việt Nam và do yêu cầu đầu vào của nhiều ngành sản xuất, nhập khẩu vào Việt Nam cũng tăng rất mạnh.  Trong hai năm 2007 và 2008, mức tăng xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt bình quân khoảng 25 %/ năm. Năm 2009, do khủng hoảng toàn cầu nên tỷ lệ tăng xuất nhập khẩu của Việt Nam bị tụt xuống đáng kể, nhưng vẫn ở mức cao so với nhiều nền kinh tế khác. Điểm tích cực đáng kể nữa là cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tiếp tục thay đổi theo hướng giảm dần các mặt hàng nguyên liệu thô, nông sản chưa chế biến và tăng dần số lượng cũng như giá trị các mặt hàng hàng chế biến, hàng công nghiệp có giá trị gia tăng cao.  Phát triển mạnh của hoạt động xuất nhập khẩu những năm qua là động lực thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ ăn theo và, do vậy, góp phần quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hiện nay, tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam trên tổng GDP là trên 170 %. Điều này cho thấy hai điểm quan trọng sau. Một là, nền kinh tế Việt Nam gắn kết và phụ thuộc quan trọng vào nền kinh tế và thị trường thế giới. Hai là, thương mại quốc tế là động lực và yếu tố then chốt của tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.

 

Đầu tư quốc tế tăng ngoạn mục

 

Việc nhập WTO mở ra cơ hội thuận lợi để Việt Nam thu hút các luồng vốn đầu tư cả từ trong lẫn ngoài nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhờ lợi thế về nguồn nhân công, đất đai, tài nguyên còn rẻ và trong bối cảnh một thị trường Việt Nam đầy tiềm năng khá mở và và môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện thông qua những chính sách và biện pháp hấp dẫn, Việt Nam trở thành một điểm sáng đối với các nhà đầu tư. Trong 3 năm qua, Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cho đến cuối 2005, Việt Nam đã thu hút được tổng số khoảng trên 70 tỷ USD vốn đăng ký. Riêng mấy năm gần đây, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, FDI vào Việt Nam tăng vọt từ 12 tỷ USD năm 2006 lên 21 tỷ USD năm 2007 và 64 tỷ USD năm 2008[*]. Mặc dù năm 2009 có nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu, Việt Nam vẫn tiếp tục là một điểm đến quan trọng của FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký là 21,3 tỷ USD. Như vậy tổng số FDI đăng ký trong 3 năm qua đã vượt 1,3 lần tổng số FDI thu hút được của tất cả các năm trước đó cộng lại. Đóng góp của khu vực FDI vào GDP đạt mức trung bình trên dưới 40% trong khoảng 1 chục năm gần đây. Bên cạnh nguồn FDI, ODA vào Việt Nam cũng liên tục tăng mạnh. Những năm gần đây, chúng ta thu hút bình quân 5-6 tỷ USD từ nguồn này cho các dự án phát triển hạ tầng và quốc kế dân sinh. Riêng năm 2009, tổng số ODA cam kết cho Việt Nam đạt trên 8 tỷ USD. Ngoài ra, thông qua kênh đầu tư gián tiếp của thị trường chứng khoán, nguồn vốn đổ vào Việt Nam cũng không ngừng tăng lên từ 2,1 tỷ USD năm 2006 lên 8,9 tỷ USD năm 2007[†] . Cũng phải kể thêm một nguồn đầu tư quan trọng khác từ kiều hối của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài gửi về trong nước thông qua các kênh khác nhau ở mức 6-7 tỷ USD/năm trong mấy năm gần đây. Các số liệu nói trên cho thấy sự tin tưởng của giới đầu tư, chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế vào khả năng phát triển ổn định của nền kinh tế Việt Nam cũng như sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Những nguồn vốn đầu tư quan trọng như vậy đổ vào Việt Nam đã giúp duy trì tăng trưởng cao khá ổn định của nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm qua, đồng thời góp phần thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.

 

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có tiến bộ

 

Hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có việc gia nhập WTO, cũng đồng thời đưa Việt Nam vào một quá trình phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy các lợi thế của từng nước. Quá trình này tất yếu thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Thực tế cho thấy, cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đã có những chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng và tỷ trọng nông lâm nghiệp giảm dần. Trong những năm đầu của thập niên 2000, tỷ lệ các khu vực công nghiệp, dịch vụ và nông lâm nghiệp trong tổng giá trị nền kinh tế quốc dân còn ở mức lần lượt là 38 %, 39 % và 23 %, thì đến nay (2008-2009) tỷ lệ tương ứng là 40 %, 39,5 % và 20,5 %. Những chuyển dịch này là hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những ngành, lĩnh vực có khả năng tiêu thụ nhiều sản phẩm được phát triển mạnh. Một số ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, dày da, điện tử có xuất khẩu mạnh và tiêu thụ nhiều ở trong nước đã phát triển rất nhanh trong mấy năm gần đây.

 

Cải thiện kinh tế vĩ mô

 

Trong những năm gần đây, các mặt quan trọng của kinh tế vĩ mô (tài chính, ngân hàng, tiền tệ) ở Việt Nam phát triển tương đối nhanh và cơ bản được duy trì trong giới hạn ổn định, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Mặc dù chịu tác động mạnh của thiếu hụt mạnh trong cán cân thương mại và thanh toán quốc tế, của giá cả tăng cao và bội chi ngân sách thường xuyên, song lạm phát đã được kiểm soát và duy trì cơ bản ở mức dưới hai con số, do vậy nhìn chung không gây nhiều tác động tiêu cực lớn cho các hoạt động kinh tế và xã hội.

 

Yếu kém và thách thức

 

Bên cạnh những phát triển tích cực cơ bản nói trên, nền kinh tế Việt Nam cũng có những mặt hạn chế/yếu kém và những thách thức cần phải khắc phục, đặc biệt là những điểm chủ yếu sau:

 

Chất lượng của sự phát triển kinh tế chưa cao và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định  

 

Sự phát triển khá nhanh của nền kinh tế Việt Nam thời gian qua thiên về lượng nhiều hơn là về chất, đặc biệt còn nhiều mất cân đối và không bền vững. Công nghiệp tuy phát triển nhanh, nhưng chủ yếu dưới dạng gia công, chế biến trình độ thấp, giá trị gia tăng hạn chế, sử dụng nhiều lao động, đất đai và tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường nặng, các ngành công nghệ cao và dựa trên tri thức chưa phát triển đáng kể. Đầu tư của Nhà nước vẫn còn dàn trải, kém hiệu quả, thất thoát và lãng phí nhiều. Khu vực doanh nghiệp nhà nước chậm cải cách, tiêu tốn nhiều nguồn lực xã hội và hiệu quả vẫn rất thấp. Các cơ sở hạ tầng tuy được quan tâm đầu tư nhiều hơn, song chưa theo  kịp được tốc độ phát triển của nhu cầu và cơ bản vẫn còn ở tình trạng kém cỏi. Kinh tế đối ngoại tuy có sự phát triển mạnh nhưng cũng còn nhiều vấn đề, đặc biệt là tình trạng nhập siêu cao liên tục trong nhiều năm, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu và đối tác chưa thật sự bảo đảm việc duy trì tăng trưởng ổn định, thậm chí tình trạng phụ thuộc cao của nền kinh tế Việt Nam hiện nay vào kinh tế thế giới và thị trường bên ngoài, nhất là lại tập trung vào một số đối tác thường có vấn đề phức tạp với Việt Nam khiến cho nền kinh tế Việt Nam rất dễ bị tổn thương. Một số mặt của kinh tế vĩ mô tiếp tục là vấn đề đáng lo ngại. Mất cân đối cán cân thanh toán lớn do hậu quả của thâm hụt thương mại quốc tế và có chiều hướng gia tăng, bội chi ngân sách ở mức cao, nợ nước ngoài tiếp tục lớn hơn và đè nặng lên tương lai. Áp lực lạm phát lớn và đồng tiền Việt Nam tiếp tục mất giá hơn. Hệ thống ngân hàng đang phát triển và hoạt động tín dụng khó kiểm soát của của nó tiềm ẩn không ít nguy cơ bất ổn cho nền kinh tế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt nhanh và môi trường  bị phá hoại nặng nề do tình trạng khai thác, phát triển ồ ạt, bừa bãi, quản lý yếu kém. Phát triển khoa học công nghệ tự thân chậm và nguồn nhân lực tuy đông nhưng chất lượng chuyên môn và tính kỷ luật thấp khó đáp ứng được đòi hỏi của phát triển nhanh của nền kinh tế trong những năm tới.  

 

Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn thấp

 

Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, song kết quả còn nhiều hạn chế. Thực tế 3 năm gần đây, Việt Nam tiếp tục bị tụt bậc trong bảng xếp hạng cạnh tranh quốc gia của thế giới. Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong những năm tới. Nâng cao năng lực cạnh tranh là công việc không đơn giản và không thể có được kết quả ngay trong một thời gian ngắn. Điều này đòi hỏi Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam phải có chiến lược lâu dài và nhiều biện pháp tổng thể, đồng bộ, đầu tư nguồn lực thích đáng.

 

Cấu trúc thị trường Việt Nam không đồng bộ, bị chia cắt và môi trường kinh doanh chưa bình đẳng, thiếu sự minh bạch và khả năng dự đoán trước

 

Sự phát triển của các thị trường vốn, bảo hiểm, lao động và hàng hoá, dịch vụ còn lệch pha nhau, đặc biệt là các thị trường vốn, bảo hiểm và lao động phát triển chậm, chưa theo kịp sự phát triển của các thị trường khác nên chưa có được sự hỗ trợ đắc lực cần thiết. Đặc biệt, mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể, song môi trường kinh doanh ở Việt Nam vẫn còn những trở ngại không nhỏ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tình trạng đối xử không bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp vấn tồn tại. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn được hưởng những ưu đãi mà khu vực doanh nghiệp tư nhân không có được, kể cả độc quyền dinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Thực trạng cạnh tranh không bình đẳng này tiếp tục làm méo mó thị trường, khiến nó không hoạt động một cách bình thường và gây cản trở, bất lợi cho hoạt động kinh doanh của bộ phận đông đảo các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thêm vào đó, tình trạng thiếu minh bạch và hay thay đổi của các chính sách có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, các biện pháp kiểm soát hành chính của Nhà nước, thái độ quan liêu, nhũng nhiễu của công chức trong bộ máy công quyền… là những yếu tố làm giảm tính thuận lợi của môi trường kinh doanh ở Việt Nam.

 

Cần làm gì để tiếp tục hội nhập và phát triển ?

 

Trong bối cảnh hiện nay, để phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam không có lựa chọn nào tốt hơn là phải tiếp tục quá trình hội nhập quốc tế một cách toàn diện và ngày càng sâu rộng hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung then chốt và là nền tảng của quá trình hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam  trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam sẽ tiếp tục các tiến trình hội nhập kinh tế ở nhiều tầng cấp khác nhau, từ đơn phương tự do hoá đến liên kết song phương, liên kết tiểu vùng, hội nhập khu vực và toàn cầu. Phạm vi và mức độ liên kết/tự do hoá cũng sẽ ngày càng rộng và cao hơn. Quá trình thực hiện các cam kết hội nhập của Việt Nam cũng ngày càng đi vào thực chất và, do đó, có nhiều tác động mạnh hơn đến nền kinh tế và nhiều mặt của đời sống xã hội ở Việt Nam.

 

Để tiếp tục thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam, chúng ta cần:

 

i) Sớm tiến hành tổng kết toàn diện công tác hội nhập những năm qua ở cả cấp trung ương lẫn địa phương, qua đó rà soát lại toàn bộ các chủ trương, biện pháp, các lộ trình hội nhập từ các khuôn khổ đơn phương, song phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực đến toàn cầu (WTO) và các chương trình hành động, việc thực thi các cam kết, đánh giá đúng những cái được và chưa được, những mặt mạnh và mặt yếu kém, hạn chế, nguyên nhân và rút ra các bài học kinh nghiệm, từ đó đưa ra những điều chỉnh, bổ sung về chủ trương, phương hướng, biện pháp, lộ trình hội nhập và các cam kết trong tương lai. Điều quan trọng là phải sớm xây dựng được một lộ trình tổng thể bao quát toàn bộ các tiến trình hội nhập hiện nay và trong tương lai đến 2020 của Việt Nam.

 

ii) Khắc phục các hạn chế và khiếm khuyết hiện nay của công tác hội nhập kinh tế quốc tế, coi đây nhiệm vụ quan trọng cần được quan tâm đúng mức và sớm giải quyết một cách tốt nhất.

           

iii) Tăng cường phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh quá trình đổi mới từ tư duy đến phong cách quản lý và đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, giảm chi phí gia nhập thị trường và chi phí đầu vào. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Cải cách và nâng cao năng lực của các doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế. Thực hiện triệt để và kiên quyết Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 3 khóa IX về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh việc thay đổi, điều chỉnh nhận thức, tư duy về vai trò của thành phần kinh tế nhà nước, cần kiên quyết giải thể các doanh nghiệp kém hiệu quả. Sớm hấm dứt tình trạng bảo hộ bất hợp lý, bù lỗ, khoanh nợ, giãn nợ. Chấm dứt tình trạng cơ quan quản lý nhà nước can thiệp vào họat động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cần được tiến hành công khai, dân chủ, tránh tình trạng biến cổ phần hóa thành việc “chia chác” công sản cho một số người.

 

iv) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở phát huy lợi thế của ta, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Nâng cao chất lượng phát triển, đặc biệt tăng cường nội dung tri thức và tính bền vững của phát triển.

v) Đổi mới công tác xây dựng pháp luật để sớm có được một hệ thống pháp luật tương đối đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu HNKTQT, tạo hành lang pháp lý để thực hiện các cam kết quốc tế. Các bộ/ngành, địa phương cần rà soát lại, sửa đổi bổ sung và ban hành mới các văn bản dưới luật theo thẩm quyền phù hợp với những cam kết quốc tế của Việt Nam trong HNKTQT, đặc biệt là sau khi chúng ta gia nhập WTO và đi vào thực hiện các cam kết gia nhập.

 

vi) Tăng cường phổ biến tuyên truyền, thông tin vHNKTQT bao gồm cả kiến thức về các quy tắc, luật lệ quốc tế, các cam kết, lộ trình mở cửa của Việt Nam và các thông tin về thị trường tới địa phương và doanh nghiệp.

 

vii) Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ hội nhập ngày càng sâu rộng hơn, trong đó đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao năng lực của cán bộ, công chức, nhà quản lý doanh nghiệp và thẩm phán, luật sư./

 

TS. Phạm Quốc Trụ, nguyên Phó Trưởng Phái đoàn Đại diện thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hiệp quốc, WTO và các tổ chức quốc tế khác tại Giơnevơ

(Viết riêng cho NCBĐ )

 


[*] Theo Báo cáo của Viện Kinh tế học trình bày tại Hội nghị tổng kết 2 năm gia nhập WTO tổ chức tại Hà Nội tháng 4/2009.

[†] Nguồn: Như trên.