Bất chấp sự mở rộng chính sách tiền tệ chưa từng thấy và kích thích tài khóa mạnh mẽ, Nhật Bản vẫn chưa vượt qua được tình trạng giảm phát và tăng trưởng yếu. Và cho dù thuế tiêu dùng đã được tăng lên, ngân sách quốc gia vẫn còn cách rất xa sự củng cố bền vững. Abe cũng đang nợ đất nước các cải cách mang tính đột phá khuyến khích tăng trưởng. Tại sao các mục tiêu đề ra lại không thể đạt được? Còn có những lựa chọn nào cho chính sách phát triển và kinh tế của Nhật Bản – khi xét tới tình hình nợ công đang tăng lên và sự già hóa không ngừng của xã hội.

Nền kinh tế của Nhật Bản chưa bao giờ thực sự phục hồi sau cú sốc bong bóng vào đầu những năm 1990. Vào thời điểm đó, bong bóng đầu cơ tài sản cũng như bất động sản và chứng khoán đã bị vỡ, kéo theo đó tình trạng các hộ gia đình và doanh nghiệp mắc nợ cao, một cuộc khủng hoảng ngân hàng gây tê liệt và sự giảm sút kéo dài tăng trưởng của Nhật Bản từ 4% trước đây xuống còn 1%. Chỉ có các khoản chi bổ sung tiếp tục cho các dự án xây dựng mà đôi khi vô lý mới có thể ngăn chặn Nhật Bản rơi vào suy thoái, qua đó khiến nợ công của Nhật Bản tăng lên mức 245% GDP theo tính toán của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Mặt khác, Ngân hàng trung ương Nhật Bản đã không thể ngăn chặn một sự giảm phát nhẹ với chính sách tiền tệ mở rộng mạnh mẽ. Đồng thời, ngày càng nhiều người rơi vào tình trạng việc làm không chắc chắn; sự không đồng đều trong phân chia tài sản và thu nhập của đất nước vẫn tiếp tục tăng lên.

Trong khi sự đồng thuận chính trị-xã hội vốn định hình liên kết tăng trưởng truyền thống của Nhật Bản bao gồm chính trị, quản lý và kinh tế đã tan vỡ, các nhóm lợi ích đã cố gắng bảo vệ các quyền lợi được ban cho của mình. Cho tới nay quá trình phá bỏ một cách sáng tạo, là cần thiết cho một sự thay đổi tích cực, ví dụ như việc phá vỡ các tổ hợp và cấu trúc thị trường độc quyền tập đoàn hoặc những thay đổi trong phong cách điều hành tập đoàn tại các doanh nghiệp Nhật Bản, vẫn chưa diễn ra. Ngay cả sự thay đổi quyền lực tạm thời vào năm 2009 đã đưa đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) lên nắm quyền trong 3 năm cũng không thể biến những hy vọng về các cải cách đột phá, thay đổi cấu trúc và phục hồi kinh tế thành hiện thực.

“Ba mũi tên” cho sự hồi sinh về kinh tế của Nhật Bản

Với lời hứa về lãnh đạo chính phủ chuyên nghiệp và phục hồi kinh tế bền vững, Shinzo Abe, người từng nắm giữ chức vụ thủ tướng trong giai đoạn 2006-2007, đã giành chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử Hạ viện vào tháng 12/2012. Qua đó, đảng Dân chủ Tự do (LDP), lãnh đạo đất nước gần như liên tục từ năm 1955 đến năm 2009, đã quay trở lại nắm quyền. Abe tuyên bố chống lại tình trạng giảm phát với một chính sách tiền tệ quyết đoán kích thích nền kinh tế với sự trợ giúp của một chính sách tài khóa mở rộng và vượt qua những trở ngại cho đầu tư thông qua các cải cách cấu trúc. Đối với chính sách ổn định và tăng trưởng của mình, Abe sử dụng phép ẩn dụ “ba mũi tên” được biết đến tại Nhật Bản. Qua đó, ông đã truyền tải một thông điệp rõ ràng: Hiệu ứng mạnh mẽ của một chính sách về cấu trúc, tài khóa và tiền tệ được hòa hợp với nhau sẽ làm hồi sinh và tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế của đất nước. Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ 3 và nhà xuất khẩu lớn thứ 5 thế giới, đứng thứ 7 về đầu tư nước ngoài và đứng thứ 2 về đăng ký bằng sáng chế, sẽ lại trở thành một “quốc gia hàng đầu”.

Tuy nhiên ngay từ đầu, một điều rõ ràng là ba mũi tên nói trên rất khác nhau về quy mô và ý nghĩa. Các cải cách cấu trúc trước hết được nhìn nhận chỉ như là những lời công bố, và sự mở rộng tài khóa chỉ đem lại lợi nhuận tới khu vực xây dựng trong nước. Sự tái định hướng trong chính sách tiền tệ lại tương đương với một cuộc cách mạng thể chế và tiền tệ. Tuy tính độc lập của Ngân hàng trung ương Nhật Bản, vốn chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ, đã được xác định rõ về mặt luật pháp, nhưng Abe đã có thể nhanh chóng vượt qua những phản đối chống lại sự thay đổi về đường lối tiền tệ - thông qua áp lực chính trị và sự chỉ định mới thống đốc và hai thành viên trong Hội đồng điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng.
Hội đồng điều hành chính sách, với sự thay đổi về nhân sự và dưới sự lãnh đạo của thống đốc mới Haruhiko Koruda, hồi tháng 4/2013 đã công bố rằng cơ quan này đặt mục tiêu đạt được tỷ lệ lạm phát là 2% trong vòng 2 năm thông qua biện pháp mở rộng định tính và định lượng tiền tệ (QQME). Quy mô của mục tiêu chính sách tiền tệ mới, tiền cơ sở, sẽ được tăng gấp đôi từ 138 nghìn tỷ yen (cuối năm 2012) lên 270 nghìn tỷ yen (cuối năm 2014), không phụ thuộc vào xu hướng của lãi suất. Phần đóng góp của tiền cơ sở vào GDP, vốn đã cao chưa từng thấy, cũng sẽ tăng gấp đôi nhờ biện pháp này, lên gần 60% trong tương lai. Trên toàn cầu, tỷ lệ tiền cơ sở trên GDP cho tới năm 2007 còn ở mức thông thường là từ 5 đến 10%. Điều này cho thấy Ngân hàng trung ương Nhật Bản đang bước vào một lĩnh vực chính sách tiền tệ mới với sự mở rộng như thế này. Việc mở rộng khối lượng tiền tệ đã và đang được thực hiện thông qua việc mua trái phiếu chính phủ Nhật Bản, bao gồm cả trái phiếu có kỳ hạn dài từ 6 đến 8 năm, nhằm tạo ảnh hưởng về mặt định tính lên lãi suất trên thị trường vốn trong dài hạn.

Với chính sách mới này, Ngân hàng trung ương Nhật Bản đang theo đuổi mục tiêu đẩy lãi suất trong dài hạn xuống thấp, gây ảnh hưởng tích cực lên sự tiến triển của tài sản thực và gây ảnh hưởng tiêu cực tới tỷ giá hối đoái của đồng yen. Theo cách này, Ngân hàng muốn tăng cường nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế và phá vỡ những triển vọng giảm phát của các thực thể kinh tế. Giá cả cao hơn, tiền lương cao hơn, nhiều đầu tư hơn và mua nhiều hơn hàng hóa tiêu dùng sẽ xuất hiện ở cuối chuỗi hiệu ứng. Những lỗ hổng về nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế sẽ được đóng lại.

Một kết quả lẫn lộn

Sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế

Sau hai năm thực hiện chính sách kinh tế với tên gọi Abenomics, một sự phục hồi bền vững cho nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa diễn ra. Trong đó, chính sách tiền tệ và tài khóa ban đầu đã có một khởi đầu tuyệt vời. Tuyên bố của Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản Kuroda về sự thay đổi trong chính sách tiền tệ không phải là không có hiệu quả, đặc biệt khi chính phủ và quốc hội đã thông qua hai ngân sách bổ sung. Ngay lập tức chứng khoán tăng điểm, kỳ vọng kinh doanh được cải thiện, lợi tức trái phiếu giảm và đồng yen liên tục mất giá. Nhờ vào mức tăng mạnh mẽ trong tiêu dùng, xây dựng căn hộ và đầu tư công, GDP năm 2013 đã tăng lên mức 1,6%. Tiến triển kinh tế theo hướng tích cực này đạt mức cao nhất vào quý 1 năm 2014. Người tiêu dùng lúc đó đã đẩy mạnh việc mua hàng hóa tiêu dùng, do việc tăng thuế tiêu dùng từ 5% lên 8% sắp được áp dụng. Kết quả là nền kinh tế đã tăng trưởng 2,4% so với quý trước. Nhưng sau khi thuế tiêu dùng tăng vào ngày 1/4/2014, tiêu dùng cá nhân và tăng trưởng đã sụt giảm. Trong hai quý tiếp theo, nền kinh tế tăng trưởng ở mức âm, và Nhật Bản lại rơi vào suy thoái trong thời gian ngắn. Tính trong cả năm 2014, GDP có thể giữ được mức của năm 2013 theo các số liệu thống kê ban đầu của Văn phòng nội các.

Tiến triển về giá và chính sách tiền tệ

Xu hướng giá cả giảm phát có thể được phá vỡ vẫn còn là điều hoàn toàn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát được đo theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lại ở mức tích cực nhờ vào chính sách mở rộng khối lượng tiền tệ; vào tháng 4/2014 lạm phát tăng lên mức đỉnh là 2,1%. Nhưng sau đó, do lạm phát lại giảm và vì vậy sự tín nhiệm dành cho Ngân hàng trung ương Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng, Thống đốc Kuroda thấy cần thiết phải tăng cường hơn nữa tăng trưởng khối lượng tiền tệ. Ngày 31/10/2014, ông tuyên bố mở rộng phần đóng góp của tiền cơ sở trong GDP từ 70% lên 75% tới cuối năm 2015. Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng trung ương hứa hẹn sẽ tăng khối lượng mua hàng năm trái phiếu chính phủ có kỳ hạn dài từ 50 nghìn lên 80 nghìn tỷ yen cũng như hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thị trường chứng khoán và bất động sản. Giống như vào đầu năm 2013, chính sách tiền tệ mở rộng đã có ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ lên các thị trường tài chính: lợi tức giảm xuống gần 0%, chứng khoán tăng trở lại và đồng yen tiếp tục mất giá. Nhưng với giá dầu sụt giảm, tỷ lệ lạm phát trượt trở lại mức âm - ở mức 0,4% vào tháng 12/2014. Lần này, nền kinh tế thực tỏ ra không bị ảnh hưởng, do trước hết thiếu những lực đẩy về tài khóa. Các hộ gia đình cá thể rõ ràng thiếu sức mua để phục hồi tiêu dùng. Tiền lương thực đã giảm lần nữa vào năm 2014, trong khi tiền lương danh nghĩa trong cả năm hầu như không tăng hoặc tăng rất ít trong bối cảnh lạm phát tăng nhẹ trở lại. Ngoài ra, đồng yen mất giá và lãi suất tiền gửi tiết kiệm giảm. Với những điều kiện này, trước hết chưa thể nhận định là tiêu dùng sẽ tăng trở lại.

Việc làm và thị trường lao động

Số lượng người có việc làm của Nhật Bản đã đạt mức cao nhất mới vào năm 2014 và tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 12 giảm còn 3,4%. Mặt trái của tiến triển tích cực này trên thị trường lao động là sự sụt giảm số lượng việc làm cố định, một xu hướng có thể được quan sát thấy trong hơn 20 năm qua. Hiện có khoảng 21% nam giới và 55% nữ giới có tình trạng việc làm ít hoặc nhiều khi không ổn định. Khi so sánh với các việc làm cố định, họ nhận được mức lương thấp hơn rõ rệt, không được bảo vệ chống lại việc sa thải và ít được bảo đảm về mặt xã hội. Sự gia tăng các việc làm không cố định cũng cùng chịu trách nhiệm cho mức lương thực suy giảm và sự tăng trưởng chậm chạp của năng suất. Đầu tư của các doanh nghiệp, công ty vào đào tạo nghề và đào tạo bậc cao đã chấm dứt, khi mà sự hợp tác trong dài hạn không còn được đảm bảo. Trong việc giải quyết các vấn đề về giá cả và tính cạnh tranh, các doanh nghiệp đã thay thế các việc làm cố định bằng việc làm không cố định, thay vì đầu tư vào các biện pháp giúp tăng năng suất.

Ngân sách nhà nước và chính sách tài khóa

Trong khi vào năm 2013, chi tiêu vượt mức được tài trợ bởi ngân sách bổ sung đã kích thích sự phát triển kinh tế chậm chạp, chính sách tài khóa năm 2014 lại đi theo một đường lối củng cố. Việc tăng thuế tiêu dùng đã dẫn tới kết quả là tăng trưởng kinh tế sụt giảm. Trong năm 2014, thâm hụt ngân sách nhà nước nằm ở mức 7,1% do thu thuế giảm, một mức cao gần bằng của năm 2013 (8,3%). Tổng nợ công đã đạt mức cao nhất là chiếm 245% GDP. Hiện nay, chính sách tài khóa lại đi theo đường lối mở rộng.
Ngoại thương

Cán cân thương mại của Nhật Bản trong năm 2014 cũng như trong năm 2013 đều ở mức âm, thâm hụt ở mức 108 tỷ USD. Ngược lại, cán cân tài khoản vãng lai đã đạt thặng dư ở mức khoảng 45 tỷ USD nhờ vào thu nhập cao hơn từ tài sản ở nước ngoài. Thặng dư cán cân thương mại cao kỷ lục trước đây của Nhật Bản đã trở thành thâm hụt cán cân thương mại. Có ba yếu tố chịu trách nhiệm cho việc này. Thứ nhất, ngành công nghiệp đã chuyển 20% việc sản xuất của mình ra nước ngoài vì những lý do về chi phí và bán hàng. Thứ hai, các nhà máy điện nguyên tử, vốn bị Nhật Bản đóng cửa sau thảm họa Fukushima, đã được thay thế bằng các nguồn năng lượng hóa thạch nhập khẩu. Và thứ ba, nhiều hàng hóa xuất khẩu đã vấp phải các vấn đề bất ngờ về bán hàng. Vì vậy, việc đồng yen mất giá đã kích thích xuất khẩu của Nhật Bản ở mức độ thấp hơn so với thời kỳ trước đây. Tuy việc đồng yen mất giá tới 36% so với đồng USD (từ đầu năm 2013 đến cuối năm 2014) đã đem tới một lợi thế đáng kể cho xuất khẩu, nhưng nhập khẩu của nước này cũng tăng mạnh. Về mặt giá trị thực, đã không có lực đẩy tích cực nào đến từ xuất khẩu.

Các cải cách cấu trúc

Chính quyền Abe đã khởi động một loạt biện pháp cải cách, tuy nhiên cho tới nay vẫn chưa xuất hiện các bước đột phá ngoạn mục mà có thể đem lại sự thúc đẩy cho tăng trưởng kinh tế hay nâng cao một cách ổn định tiềm năng phát triển. Quá trình cải cách phần nhiều vẫn đang được tiếp tục trong những năm qua – chính sách và nền kinh tế Nhật Bản đã thích ứng một cách chậm chạp và theo từng bước trước những thay đổi lớn về xã hội và các thách thức về cạnh tranh của quá trình toàn cầu hóa. Về mặt tích cực, chính sách cải cách cấu trúc của Abe đã đi đúng hướng, ví dụ trong việc khuyến khích phụ nữ trong công việc, tăng cường vai trò của các cổ đông trong quan hệ với công ty cổ phần và nhà đầu tư tổ chức hoặc sự tập trung vào quá trình tự do hóa và bãi bỏ các quy định nhằm khuyến khích đầu tư, ví dụ như trong lĩnh vực nông nghiệp và năng lượng. Các biện pháp đã được khởi xướng cho đến nay bao gồm quá trình tự do hóa việc mua đất, điều sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc hình thành những khu vực nông nghiệp lớn hơn và có lợi nhuận cao hơn; xây dựng các nhà trẻ và trung tâm trông trẻ ban ngày; thành lập sáu đặc khu kinh tế, trong đó áp dụng một luật lao động và xây dựng theo hướng tự do; khuyến khích xuất khẩu và đầu tư nước ngoài; sửa đổi bộ quy tắc điều hành tập đoàn cũng như giới thiệu các tài khoản tiết kiệm riêng lẻ - theo mô hình của Anh – coi đó là các trụ cột mới của bảo hiểm hưu trí.
Các cải cách cấu trúc như là chất xúc tác cho một chính sách dân tộc-bảo thủ

Trong khi các kết quả về kinh tế của Abenomics cho tới nay chỉ ở mức bình thường – về mặt chính trị nó lại là một thành công. Ngay từ đầu nhiệm kỳ của mình, Abe đã đánh thức sự phấn khích lớn, trong đó ông sử dụng chiến lược dễ hiểu “ba mũi tên” và đánh dấu sự cương quyết về chính sách kinh tế. Hy vọng về sự chấm dứt tình trạng trì trệ dường như là hợp lý. Cho tới nay, những người ủng hộ Abenomics vẫn nắm giữ vai trò lãnh đạo về tư tưởng chính sách kinh tế. Trong truyền thông và công chúng Nhật Bản, Chính quyền Abe được nhìn nhận là có năng lực về kinh tế, điều là thông số quyết định cho một sự ủng hộ chung về chính trị, giống như ở Đức. Thủ tướng Abe còn đạt được thành tích có được tỷ lệ ủng hộ hơn 40% trong các cuộc thăm dò cho tới nay. Sau khi ông bất ngờ quyết định tổ chức các cuộc bầu cử Thượng viện mới vào ngày 18/12/2014, phe đối lập đã không thể bác bỏ lời khẳng định của Abe rằng “không có giải pháp thay thế nào” cho chính sách kinh tế của ông. Liên minh chính phủ gồm đảng LDP và đảng Komeito đã bảo vệ được đa số chiếm 2/3 trong quốc hội của mình.

Nhưng khi người ta nhìn kỹ hơn vào các sáng kiến và hành động mà Abe đã đầu tư vốn liếng chính trị vào, họ có thể thấy mục tiêu hàng đầu của ông không phải là phục hồi nền kinh tế Nhật Bản hay thực hiện các cải cách cấu trúc. Dường như chính sách kinh tế phần nhiều là phương tiện để đạt được mục tiêu đối với Thủ tướng Nhật Bản. Điều quan trọng hơn đối với Abe là giành được khả năng hành động về chính sách an ninh dưới dạng “chủ nghĩa hòa bình chủ động”, thiết lập một ý niệm về lịch sử mang tính dân tộc chủ nghĩa và cả điều chỉnh chính sách giáo dục theo hướng yêu nước hơn. Trong đó, chính sách kinh tế có thể nói có chức năng của một chất xúc tác. Giống như trong thời kỳ Thủ tướng Junichiro Koizumi nắm quyền (2001-2006), những ngôn từ về cải cách dưới thời Abe trước hết cũng đóng vai trò là công cụ nhằm hiện thực hóa một chương trình nghị sự mang tính bảo thủ và dân tộc.
Tuy nhiên, việc Abe tái đắc cử không phải nhờ vào một sự ủng hộ chung đối với các mục tiêu chính trị của ông. Phần nhiều cử tri Nhật Bản đã dành cho ông sự ủy thác để tiếp tục thực hiện chính sách kinh tế của ông và đặc biệt là thúc đẩy các cải cách khuyến khích tăng trưởng. Và vì vậy nghĩa vụ của chính phủ cũng phải được mở rộng để tăng cường năng lực của đất nước trong tương lai. Các nhiệm vụ cấp bách nhất bao gồm ngăn chặn sự xói mòn dần dần tính cạnh tranh và chất lượng địa điểm đầu tư, vượt qua thay đổi về nhân khẩu học và ngăn chặn nguy cơ vỡ nợ quốc gia. Trước bối cảnh này, xuất hiện câu hỏi về những cơ hội và nguy cơ từ chính sách tiền tệ, tài khóa và cấu trúc của Abe – ba mũi tên trong chiến lược Abenomics.

Chính sách tiền tệ: Cơ chế truyền dẫn chậm lại, các nguy cơ tăng lên

Ngay bây giờ người ta có thể chắc chắn rằng Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản Kuroda không thể giữ lời hứa của mình về tỷ lệ lạm phát ở mức 2% trong năm 2015. Ngay cả chuỗi hiệu ứng do ông dự đoán trên lý thuyết, trong đó ở điểm cuối cùng các doanh nghiệp và hộ gia đình sẽ chi tiêu nhiều hơn, cũng không xuất hiện, hay ít nhất là chưa xuất hiện. Abenomics thất bại không phải do việc tăng thuế tiêu dùng được tiến hành vội vàng, mà thay vào đó phần nhiều là do cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ.

Thứ nhất, các doanh nghiệp ở Nhật Bản không tự cấp vốn bằng trái phiếu như trong thế giới Anglo-Saxon, mà thông qua tín dụng ngân hàng, giống như trong trường hợp của Khu vực đồng euro. Nhưng việc cho vay tín dụng tại Nhật Bản hầu như không tăng lên bất chấp mức lãi suất cực thấp. Thứ hai, như đã nói ở trên, thu nhập thực và sức mua giảm sút, trước hết là vì lương không được điều chỉnh cho phù hợp với giá cả tăng lên. Và thứ ba, xuất khẩu của Nhật Bản đã không tăng mạnh như kỳ vọng sau khi đồng yen mất giá mạnh.

Ngoài ra, về cơ bản người ta phải đặt câu hỏi liệu sự giảm phát nhẹ có thực sự là nguyên nhân mang tính quyết định cho sự tăng trưởng yếu ớt trong nhiều năm và tình trạng đình trệ kéo dài của Nhật Bản hay không – hay nó là một triệu chứng của những tình trạng này. Người ta có thể lập luận rằng sự thiếu niềm tin của các nhà đầu tư vào sự phát triển kinh tế của Nhật Bản có những nguyên nhân mang tính cấu trúc và sự do dự của người tiêu dùng trong nước về cơ bản cũng do sự chuyển đổi sang một xã hội già đi. Nhưng chính sách tiền tệ lại không phù hợp để vượt qua những thiếu sót về cấu trúc hoặc giải quyết các vấn đề về nhân khẩu học.

Mặt khác, lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn đã cho thấy một chính sách tiền tệ mở rộng có thể có những hiệu ứng trì hoãn kéo dài và khác nhau. Chừng nào giai đoạn cuối của chiến lược Abenomics chưa được áp dụng, người ta vẫn sẽ phải chờ đợi những tiến triển tiếp theo của giá cả và chi tiêu của toàn bộ nền kinh tế. Nhưng ngay cả khi việc mở rộng nguồn tiền hết mức có hiệu quả đến đâu hiện vẫn còn chưa rõ ràng, các nguy cơ chắc chắn vẫn tồn tại. 

Thứ nhất, một vòng luẩn quẩn có thể nhanh chóng phát sinh do giá cả và lãi suất danh nghĩa tăng lên, trong đó lợi tức cho trái phiếu chính phủ và gánh nặng lãi suất đối đầu nhau – Nhật Bản sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng nợ công. Thứ hai, việc giữ lãi suất ở mức thấp có thể trở nên khó khăn khi xét tới việc tiền cơ sở bị thổi phồng ở mức rất lớn. Tốc độ lưu thông tiền tệ có tiếng là khó kiểm soát. Một kịch bản không thể loại bỏ là mức lạm phát phi mã và đồng yen mất giá trên thị trường quốc tế sẽ tạo điều kiện cho một cú hạ cánh cứng.

Thứ ba, những hiệu ứng tiêu cực bên ngoài sẽ xuất hiện từ chính sách tiền tệ mở rộng trong khuôn khổ toàn cầu. Việc đồng yen mất giá sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh về giá của các đối tác thương mại của Nhật Bản, và cùng với đồng euro vốn đã yếu có nguy cơ châm ngòi cho một cuộc chạy đua hạ giá đồng tiền quốc tế. Kinh doanh chênh lệch lãi suất với đồng yen, hay việc cấp vốn cho các khoản đầu tư tại nước ngoài sử dụng đồng yen với lãi suất thấp, có nguy cơ đem lại các bong bóng đầu cơ trên toàn cầu. Và thứ tư, danh tiếng của Ngân hàng trung ương Nhật Bản có thể bị tổn hại nếu bản thân cơ quan này trở thành nguồn gốc cho sự bất ổn tài chính. Người ta lo ngại rằng chính sách tiền tệ của Abe trước hết sẽ tạo ra những nguy cơ mới khó kiểm soát ngoài những ảo tưởng về tiền tệ.

Chính sách tài khóa: Hạn chế và thúc đẩy trong nguy cơ nhà nước không trả được nợ

Chính sách tài khóa của Nhật Bản từ hai thập kỷ qua được xác định thông qua một thế tiến thoái lưỡng nan, trong đó một sự kích thích nhu cầu theo học thuyết kinh tế của Keynes là điều cần thiết, nhưng đồng thời một sự củng cố theo hướng tiết kiệm lại được đưa ra. Thế tiến thoái lưỡng nan này hiện đang trở nên tồi tệ hơn.

Một mặt, Nhật Bản vẫn chưa vượt qua được tình trạng nhu cầu yếu ớt của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, các biện pháp kích thích tài khóa luôn luôn cần thiết để ổn định tăng trưởng kinh tế. Gói kích thích tăng trưởng kinh tế được thông qua vào cuối năm 2014 với trị giá lên tới 3.500 tỷ yen (tương đương 24 tỷ euro), mới chỉ là điểm mới nhất của một chính sách hạn chế và thúc đẩy (nhằm duy trì thế cân bằng mong manh giữa hai xu thế đối lập) đã được quan sát thấy từ nhiều năm qua. Người ta trông đợi trong kỳ lập pháp hiện nay, chính phủ liên minh sẽ giảm mức đánh thuế cao nhất của thuế doanh nghiệp (hiện ở mức từ 35,6 tới 39,5%) – như đã được thảo luận từ lâu – nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh và sức đầu tư của các doanh nghiệp trong nước.

Mặt khác, mức nợ công cao ngất buộc chính phủ phải thực hiện một đường lối củng cố. Nền tài chính của Nhật Bản có nguy cơ vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Kể từ năm tài khóa 2010, thâm hụt ngân sách nằm ở mức 7% đến 10% GDP. Tổng nợ công đã tăng lên mức 245% - hiện gần tương đương với tài sản thực của toàn bộ hộ gia đình cá thể của đất nước. Theo tính toán hiện nay, Nhật Bản cần thu thuế của ít nhất 8 năm để có thể trả nợ. Cho tới nay, việc cấp vốn bằng thâm hụt ngân sách thông qua các nhà đầu tư trong nước vẫn chưa gặp vấn đề nào. Nợ công của Nhật Bản chiếm 90% mức nợ trong nước tính bằng đồng yen. Nhưng người ta có thể thấy điều này sẽ thay đổi. Kể từ năm 2013, các hộ gia đình không tiết kiệm được nữa, tỷ lệ tiết kiệm của họ là âm. Thặng dư tài khoản vãng lai trước đây rất cao đã giảm xuống. Nhà nước sẽ sớm phải cần tới các nhà đầu tư nước ngoài, để cấp vốn cho thâm hụt ngân sách, chi phí lãi suất và chi phí trả nợ.

Câu trả lời của Abenomics cho thế tiến thoái lưỡng nan về tài khóa của Nhật Bản là lời hứa tăng trưởng kinh tế cao hơn. Trong một môi trường phát triển kinh tế thuận lợi hơn, theo như thông điệp, mục tiêu không chỉ là thu thuế nhiều hơn, mà còn đạt được mức thuế suất cao hơn và chi tiêu thấp hơn. Đồng thời, lời hứa này là một sự đánh cược vào tương lai. Lời hứa này phải thành công trong việc ổn định kinh tế và tài chính nhà nước, trước khi sự gia tăng các nguy cơ đối với trái phiếu chính phủ của Nhật Bản lên tới mức không thể chấp nhận được.

Chính sách tiền tệ với việc mua với số lượng lớn trái phiếu chính phủ Nhật Bản đã trở thành trợ thủ phục tùng cho chính sách tài khóa. Việc tài trợ cho chi tiêu nhà nước vượt quá mức hiện chủ yếu diễn ra trên thị trường trái phiếu, trong khi phần đóng góp của thu thuế giảm xuống dưới 50%. Trên thực tế, Ngân hàng trung ương Nhật Bản đang thúc đẩy việc tài trợ cho nợ từ máy in tiền. Cơ quan này hàng tháng mua trên thị trường mở một lượng trái phiếu có trị giá từ 8 đến 12 nghìn tỷ yen (tương đương 60 đến 80 tỷ euro), theo thông tin của chính ngân hàng. Hiện nay, quỹ hưu trí của Nhật Bản đã giảm các can dự của mình lên các thị trường trái phiếu và hướng các khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán và ra nước ngài. Các chuyên gia phân tích về thị trường đánh giá rằng Ngân hàng trung ương Nhật Bản sẽ nắm giữ gần 50% toàn bộ trái phiếu chính phủ của nước này trong giai đoạn 2017-2020 nếu xu hướng này tiếp tục diễn ra. Người ta có thể hình dung rằng Ngân hàng trung ương tới một thời điểm nhất định sẽ gạch bỏ số tài sản trái phiếu của mình và bằng cách đó giảm nợ công một cách đột ngột. 

Sự can dự của Ngân hàng trung ương Nhật Bản lên các thị trường trái phiếu của đất nước có những hiệu ứng phụ và nguy cơ gây chấn động. Nhu cầu của Ngân hàng trung ương đã liên tục đẩy lợi tức xuống mức thấp mới, mới nhất là 0,02% cho trái phiếu kỳ hạn 2 năm; 0,05% cho trái phiếu kỳ hạn 5 năm và 0,33% cho trái phiếu kỳ hạn 10 năm. Trên thực tế, vốn trái phiếu tại Nhật Bản có sẵn mà không mất chi phí. Qua đó, chức năng dẫn dắt đặc biệt của lãi suất vốn đã bị loại bỏ. Một tính thanh khoản gần như không mất chi phí và không bị giới hạn đang nuôi dưỡng bong bóng đầu cơ ở Nhật Bản và trên toàn thế giới.

Ngoài ra, một điều còn chưa rõ ràng là chiến lược rút đi. Liệu Ngân hàng trung ương Nhật Bản có thể rút khỏi chính sách thị trường mở của mình một cách có trật tự không? Hay nó sẽ là một sự rút lui không có trật tự? Trường hợp sau có nguy cơ dẫn tới việc các quỹ đầu cơ quốc tế bắt đầu đầu cơ trên thị trường chứng khoán thông qua các thương vụ bán khống lợi tức trái phiếu đang tăng lên, điều mà Bộ Tài chính Nhật Bản không thể kiểm soát.

Đồng thời, việc mua hết trái phiếu chính phủ của Nhật Bản không giải phóng chính sách tài chính khỏi nghĩa vụ sử dụng khung thời gian còn lại để củng cố nền kinh tế thực. Điều chắc chắn là mục tiêu đạt được một ngân sách chính cân bằng (tức là không có các khoản chi cho lãi suất và trả nợ) tới năm tài khóa 2020 khó có thể thực hiện được. Vấn đề thu thuế thấp hiện nay cũng cần phải được giải quyết – bên cạnh đó giai đoạn thứ hai của việc tăng thuế tiêu dùng đã được lùi tới tháng 4/2017. Chính sách tài chính của Nhật Bản cần phải tạo thêm nhiều khoản thu thuế hơn trong ngắn hạn, dù chỉ để bù đắp những thiệt hại do kế hoạch giảm thuế doanh nghiệp.

Ngoài ra, việc xây dựng lại hệ thống thuế của Nhật Bản từ trung hạn tới dài hạn là một nhiệm vụ khó khăn. Vì ngân sách nhà nước không chỉ phải giải quyết vấn đề chi tiêu tăng lên cho lãi suất và trả nợ, mà còn phải gánh các khoản chi phí lớn cho hệ thống y tế quốc gia nhằm đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe cho dân số đang già đi. 25% dân số Nhật Bản hiện đang ở độ tuổi lớn hơn 65. Tới năm 2035, con số này sẽ tăng lên mức 33%. Để giải quyết các gánh nặng trong tương lai, Nhật Bản sẽ cần phải tăng thuế tiêu dùng lên mức trung bình của châu Âu và mở rộng mạnh mẽ cơ sở đánh giá cho thuế thu nhập. Cả hai đều là những biện pháp được coi là không thể thực hiện được xét theo khía cạnh chính trị.

Chính sách cấu trúc thiếu đi sự dũng cảm

Chính sách cấu trúc về cơ bản là một thành phần mang tính quyết định đối với sự hồi sinh nền kinh tế Nhật Bản. Trong khi chính sách tiền tệ và tài khóa trong trường hợp tốt nhất có thể bù đắp nhu cầu yếu của toàn bộ nền kinh tế, tăng trưởng ở mức cao hơn chỉ có thể đạt được thông qua các biện pháp về phía cung. Một sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ bền vững với những tiến bộ lớn về năng suất vì vậy cần tới các cải cách cấu trúc tương ứng. Thủ tướng Abe đã hứa hẹn hiện thực hóa những đề xuất dành cho lĩnh vực lập pháp và quản lý trong nhiệm kỳ thứ ba của mình, những đề xuất đã được Hội đồng về khả năng cạnh tranh công nghiệp soạn thảo. Nhật Bản trước hết lên kế hoạch cải thiện từng bước cơ hội việc làm của phụ nữ, mở cửa việc nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp trong khuôn khổ các thỏa thuận thương mại-chính trị với Mỹ và EU, tạo điều kiện dễ dàng cho lao động nước ngoài có tay nghề tại Nhật Bản tìm việc làm và tự do hóa thị trường điện. Ngoài ra còn có các biện pháp được lựa chọn trong các khu vực nông nghiệp và y tế, cũng như các biện pháp nhằm khuyến khích đổi mới, du lịch cũng như các công ty vừa và nhỏ.

Tuy các bước đi cải cách đã đi đúng hướng, nhưng những bước đi cần thiết cho tăng trưởng năng suất cao hơn lại tụt lại đằng sau. Để có được sự đổi mới về kinh tế, Nhật Bản cần một luật lao động đồng nhất mà giải quyết hai mặt cố định và không cố định của thị trường việc làm, một luật doanh nghiệp thân thiện hơn với các cổ đông mà cho phép thành lập mới và tái cấu trúc nhiều hơn, cũng như sự phá vỡ các cấu trúc người trong nội bộ tại một số ngành kinh tế của đất nước. Nhiệm vụ cuối cần tới một sự bảo vệ hiệu quả chống lại cạnh tranh không lành mạnh, mở cửa rộng rãi cho sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu và một cơ quan điều tiết cạnh tranh có quyền lực – cũng như ý chí để thực hiện những biện pháp này. Khu vực nông nghiệp và y tế không chỉ cần tới các cải cách chọn lọc mà cả các cải cách cơ bản. Và để đối phó với những thách thức về nhân khẩu học của một xã hội đang già đi, việc hỗ trợ phụ nữ và gia đình theo hình mẫu của châu Âu phải được mở rộng đáng kể. Ngoài ra, một việc cần thiết nữa là tự do hóa luật nhập cư và chủ động tuyển dụng lao động có tay nghề.

Để thực thiện được tất cả các biện pháp trên, Chính phủ Abe phải phá vỡ những cấm kỵ của xã hội và vượt qua những kháng cự của bộ máy quan liêu và các nhóm lợi ích kinh tế và chính trị. Khi xét tới quan điểm bảo thủ của Abe và các ưu tiên khác của ông, một cách tiếp cận mang tính công kích như vậy khó có thể xảy ra. Tuy chính phủ có được một sự ủy thác thực hiện cải cách tương ứng và đa số cần thiết trong Quốc hội, nhiều người vẫn lo ngại rằng khung thời gian để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tài chính và quốc gia sẽ không được sử dụng./. 

Theo Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế và an ninh, Đức.

Thùy Anh (gt)