Khu vực Đông Á bao gồm 18 nền kinh tế (7 nền kinh tế thuộc Đông Bắc Á + 11 nền kinh tế thuộc Đông Nam Á) với dân số 2,15 tỷ người (khoảng 1/3 dân số thế giới) và tổng GDP trên 13 nghìn tỷ USD (chiếm gần 1/4 GDP của toàn thế giới). Đông Á cũng chiếm tới gần 30% tổng thương mại của thế giới và hàng năm thu hút gần 1/3 tổng FDI toàn cầu. Đây là khu vực có hai nền kinh tế hàng đầu thế giới (sau Mỹ) là Nhật Bản và Trung Quốc. Trung Quốc hiện đã vươn lên thành nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu và dự trữ ngoại tệ với tổng số 2.450.000 tỷ USD.

 

Những sự trỗi dậy thần kỳ

 

Trong những năm 1960-1990, Đông Á được biết đến nhiều với sự vươn lên thần kỳ của 4 con "con hổ kinh tế" theo sau Nhật Bản, gồm Hàn Quốc, Đài Loan, HongKong và Singapore. Trong hơn 3 thập kỷ liền, các nền kinh tế này đã duy trì được sự tăng trưởng hết sức ngoạn mục với mức tăng bình quân hàng năm trên dưới 8%, có thời kỳ lên tới mức 2 con số, nhanh chóng vượt nghèo khó và lạc hậu để đứng vào hàng ngũ các nền kinh tế phát triển.

 

Kế tiếp và chậm hơn một chút là một số nền kinh tế thuộc ASEAN, như Malaysia, Thái Lan cũng đã đạt sự tăng trưởng đáng nể trong gần hai thập kỷ kể từ cuối thập niên 1970 cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng Đông Á vào năm 1997. Nổi bật hơn cả là sự trỗi dậy mạnh mẽ của "con rồng" Trung Quốc bắt đầu từ thập niên 1980 và đang nhanh chóng vươn tới vị trí nền kinh tế thứ hai thế giới. Liền 3 thập kỷ, Trung Quốc cũng đã đạt được những thành tựu kinh tế vượt bậc, duy trì tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới (trên 8%/năm, nhiều năm trên 10%).

 

Hoà vào sự "thăng hoa" mạnh mẽ của Đông Á, còn có cả những nền kinh tế thuộc hàng khiêm tốn hơn trong ASEAN như Indonesia, Philippines, Việt Nam, Campuchia, Lào. Tuy không gây nhiều ấn tượng lớn như "rồng" và "hổ", nhưng trong nhiều năm trở lại đây, các nền kinh tế này cũng đã và đang vươn lên với tốc độ "không thể xem thường".

 

Ngoại trừ Triều Tiên còn nhiều khó khăn do vẫn duy trì mô hình kinh tế lỗi thời và Đông Timo bé nhỏ bị giằng xé bởi những vấn đề nội bộ sau khi tách khỏi Indonesia, hầu hết các nền kinh tế Đông Á đều đã hoặc đang vươn lên với tốc độ phi thường. Đông Á đã thực sự là một khu vực năng động nhất thế giới, đóng góp cực kỳ quan trọng vào sự tăng trưởng của kinh tế thế giới trong nhiều thập kỷ qua. Đặc biệt cần nhấn mạnh, chính nhờ sự năng động và tăng trưởng cao của Đông Á đã giúp cho suy thoái kinh tế thế giới vừa qua bớt trầm trọng và sớm phục hồi hơn.

 

Niềm hy vọng của thế giới hậu khủng hoảng?

 

Năm 2009, trong khi hầu hết các nền kinh tế quan trọng ở các khu vực khác rơi vào suy thoái nặng (Mỹ -2,4%, khu vực đồng Euro - 3,9%, Anh - 4,6%, Canada - 2,5%) thì Trung Quốc và một số nền kinh tế Đông Á khác vẫn giữ được mức tăng trưởng khá cao (Trung Quốc 8,5%, Việt Nam 5,2%, Indonesia 4,4%). Bước sang 2010, Mỹ và phần lớn các nền kinh tế châu Âu vẫn còn "trầy trật" để thoát ra khủng hoảng, thậm chí EU vẫn đang phải đối mặt với khả năng suy thoái trở lại do khủng hoảng nợ Hy Lạp và nguy cơ tương tự tại Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và một số nước khác. Trong khi đó, phần lớn các nền kinh tế Đông Á vẫn tăng trưởng khá. Đặc biệt, Trung Quốc, quý I/2010, tăng trưởng trên 9% và tháng 4 là 12%. Ngân hàng Standard Chartered dự báo năm 2010, Trung Quốc sẽ tăng trưởng 10%. Như vậy, xem ra đầu tầu kinh tế Đông Á trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu vừa qua là khó có thể phủ nhận và hẳn vẫn đang còn là niềm hy vọng của thế giới hậu khủng hoảng.

 

Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, bức tranh kinh tế Đông Á không phải chỉ có một màu sáng, mà còn có cả những mảng tối, nếu chúng ta quan sát kỹ nó từ các góc độ khác. Những mảng tối chính là những khó khăn mà các nền kinh tế ở Đông Á đang phải đối mặt.

 

Thứ nhất, phát triển mất cân đối và kém bền vững. Đây không chỉ là yếu điểm chính của các nền kinh tế đang phát triển mà kể cả một số nền kinh tế thuộc diện phát triển ở Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan. Phát triển mất cân đối thể hiện ở cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu thương mại, cơ cấu các loại thị trường, cơ cấu vùng miền, cơ cấu kinh tế vĩ mô, cơ cấu nguồn nhân lực và trong các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển các thiết chế chính trị - xã hội, giữa kinh tế với giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, môi trường... Các nền kinh tế ở khu vực đều chưa đạt tới mức độ cân bằng để có thể bảo đảm sự an toàn và phát triển bền vững. Tuy nhiên, mức độ mất cân đối và thiếu bền vững biểu hiện rất khác nhau trong từng nước. Hầu hết các nền kinh tế đang phát triển đối mặt với "căn bệnh này" ở mức nặng, thậm chí là đáng báo động.

 

Thứ hai, bất ổn đáng quan ngại về kinh tế vĩ mô ở một số nước. Trước hết là thâm hụt ngân sách cao, dẫn đến tình trạng nợ công tăng mạnh và trở thành gánh nặng (năm 2009, nợ công của Trung Quốc bằng 89% GDP, Thái Lan 43,5% GDP, Nhật 227% GDP, Philippine 58,7% GDP, Việt Nam 44,5% GDP). Tiếp đến là bất ổn về chính sách tiền tệ, lạm phát cao đang gia tăng áp lực ở một số nước như Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng - tín dụng và việc kiểm soát không chặt các luồng vốn. Một số chuyên gia đã cảnh báo tình trạng "bong bóng" tài chính và bất động sản tăng đến mức báo động hiện nay ở một số nền kinh tế Đông Á, đặc biệt là ở Trung Quốc và Việt Nam, có thể đặt khu vực này trước nguy cơ làn sóng suy thoái thứ ba, tiếp theo làn sóng thứ hai đang có dấu hiệu tràn vào châu Âu hiện nay. Sau cùng là sự mất cân đối trong cán cân thương mại và sự lệ thuộc quá lớn của các nền kinh tế khu vực vào thị trường bên ngoài về xuất - nhập khẩu và FDI. Điều này khiến cho họ dễ bị tổn thương cao khi có những biến động lớn của thị trường quốc tế.

 

Thứ ba, phần lớn các nền kinh tế Đông Á, vẫn còn trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển mạnh theo "chiều rộng", chưa nhiều theo "chiều sâu". Có nghĩa là, sự phát triển còn dựa quá nhiều vào các yếu tố sản xuất như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động nhiều và rẻ. Vốn và công nghệ nhập từ bên ngoài là chủ yếu, chứ chưa dựa nhiều vào khoa học-công nghệ, đặc biệt là khoa học - công nghệ do tự mình tạo ra. Phương thức phát triển này đã và tiếp tục để lại những hậu quả trầm trọng về tính hiệu quả, sự bền vững và khả năng cạnh tranh lâu dài của nền kinh tế cũng như nhiều hậu quả về môi trường.

 

Thứ tư, tình hình chính trị nội bộ tại một số nước ở khu vực còn nhiều bất ổn, xung đột thậm chí gia tăng làm mất ổn định chính trị và xã hội, cản trở đáng kể sự phát triển kinh tế của các nước này, cũng như quá trình tăng cường các liên kết kinh tế khu vực. Thêm nữa, sự gia tăng căng thẳng và tranh chấp giữa các nước trong khu vực đồng thời với sự tăng cường tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc tại khu vực cũng góp phần làm cho các thách thức tại Đông Nam Á thêm phức tạp và khó xử lý hơn.

 

Những khó khăn và thách thức kể trên không hề dễ dàng được khắc phục. Nó đòi hỏi các nước Đông Á phải chi rất nhiều nguồn lực và trong nhiều thập kỷ để sửa chữa, cải tạo di sản của tiến trình hiện tại. Vậy liệu Đông Á có thể tiếp tục là đầu tầu được bao lâu nữa? Câu trả lời không hề đơn giản và nằm chủ yếu ở việc các nước Đông Á sẽ giải quyết các khó khăn thế nào để có thể tiếp tục kéo được cả đoàn tầu kinh tế thế giới.

 

Những phong độ khác nhau

 

Hai nền kinh tế lớn nhất Đông Á hiện nay là Nhật Bản và Trung Quốc đang thể hiện phong độ rất khác nhau. Trung Quốc giống như một con rồng đang bay bổng, còn Nhật Bản lại giống như một con ngựa già mệt mỏi đang uể oải lê bước sau trận phong ba. Với tốc độ tăng trưởng trên dưới 10% như hiện nay, năm 2010, Trung Quốc chắc chắn sẽ vượt trên Nhật Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Cũng khó có thể hy vọng kinh tế Nhật Bản sớm hồi phục vững chắc để lại phi nước đại trên chặng đường sắp tới.

 

Hàn Quốc và Đài Loan cũng không mấy dễ dàng lấy lại đà tăng trưởng cao của quá khứ, các dự báo khả quan nhất cho thấy khả năng tăng trưởng bình quân năm từ 2010-2012 là khoảng trên dưới 4% đối với Hàn Quốc, 5-5,5% đối với Singapore, 4-5% đối với HongKong, 4-4,6% đối với Đài Loan.

 

Triển vọng tăng trưởng chung của ASEAN sáng sủa hơn, có thể đạt 5-6% trong năm nay và vài năm tới, song do quy mô nền kinh tế của hầu hết các nước ASEAN còn nhỏ, nên xem ra gánh nặng sẽ đặt chính trên vai "người khổng lồ" Trung Quốc để vận hành "đầu tầu Đông Á" trong đoàn tầu kinh tế thế giới đang nặng nề vượt "núi suy thoái".

 

Mặc dù Trung Quốc đã chứng tỏ được sự phát triển thần kỳ trong ba chục năm qua và có khả năng còn tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng cao trong những năm tới, nhưng cũng khó có thể đoán định chắc chắn được "con rồng Trung Quốc" sẽ còn bay cao được bao lâu nữa, bởi những yếu tố cản trở và tạo rủi ro đối với sự tăng trưởng của Trung Quốc hiện cũng không ít và ngày càng bộc lộ thành nguy cơ lớn hơn.

 

Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á sẽ được tổ chức ở TP. Hồ Chí Minh vào tháng 6 tới, các nhà lãnh đạo chính phủ và nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới sẽ có dịp nhìn nhận và đánh giá kỹ hơn về vai trò "Đầu tàu Đông Á", đồng thời cũng sẽ thảo luận về nhiều vấn đề của khu vực. Hy vọng Diễn đàn sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc và đầy đủ hơn.

TS. Phạm Quốc Trụ, Học viện Ngoại giao

 

Ý kiến:

Ông Ben Bernanke - Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed):

Sự trỗi dậy của các nền kinh tế châu Á kể từ Thế chiến II đã là một trong những câu chuyện về thành công lớn trong lịch sử phát triển kinh tế. Hiện nay, trong khi những rủi ro vẫn tồn tại trong triển vọng kinh tế thì dường như châu Á vẫn đang đi đầu về hồi phục. Kết quả này có được một phần vì châu Á đã có những cải tổ sau cuộc khủng hoảng những năm 1990 kèm theo những cải tiến các chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống ngân hàng châu Á ở vị trí tốt hơn để kiểm soát những biến động thời gian gần đây.

Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới - Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF):

Kinh tế toàn cầu đang phục hồi mạnh hơn dự kiến và sản lượng toàn cầu dự báo sẽ tăng 4,25% trong năm nay. Chính các thị trường đang nổi ở châu Á chứ không phải cường quốc nào khác, đóng vai trò đầu tàu phục hồi kinh tế toàn cầu. Trong đó, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ dẫn đầu sự phục hồi. Dự báo GDP của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 10% trong cả hai năm 2010 và 2011, còn GDP của Ấn Độ ước tăng 8,8% năm 2010 và 8,4% năm 2011, nhưng riêng Nhật Bản sẽ tụt hậu với GDP chỉ tăng 1,9% năm 2010 và 2% năm 2011.

Giáo sư Paul Krugman - Giải thưởng Nobel kinh tế năm 2008:

Các nền kinh tế châu Á sẽ phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh hơn so với các khu vực khác. Vì các nước châu Á có lợi thế rõ rệt là vốn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn ở các nước phương Tây. Các nền kinh tế châu Á vốn phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất hàng hóa xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn do xuất khẩu giảm mạnh, nhưng tình trạng suy giảm ở các thị trường nhập khẩu hiện nay chỉ là tạm thời.

Nhưng châu Á không thể vượt qua khủng hoảng trong "một sớm một chiều" mà cần nỗ lực rất nhiều cùng các biện pháp tổng quát để giải quyết các vấn đề khó khăn hiện nay.

Báo cáo thường niên về Đông Á và Thái Bình Dương - Ngân hàng Thế giới (WB):

Trung Quốc đã trở thành nhân tố chủ đạo kích thích các quốc gia Đông Á, nhờ nhu cầu tiêu thụ ổn định từ nền kinh tế lớn thứ ba thế giới này. Sự phục hồi nhu cầu quốc tế, trong khi chi tiêu tiêu dùng trong nước tăng nhanh sẽ tiếp tục hỗ trợ kinh tế Đông Á tăng trưởng trong năm 2010. Tuy nhiên, Trung Quốc cần tìm cách giảm bớt phụ thuộc vào xuất khẩu như một đầu tàu tăng trưởng chủ chốt.

Tuy nhiên, các nước có thu nhập trung bình như Việt Nam, Philippines, Thái Lan, Indonesia, cần phải đưa ra các chính sách mới để tạo ra sự đột phá về công nghệ và trong các ngành thu hút nhiều lao động. Các nền kinh tế đang phát triển ở Đông Á cần thắt chặt quan hệ kinh tế khu vực, nhằm thúc đẩy thương mại, giảm chi phí và tăng cường cạnh tranh quốc tế, đồng thời khuyến khích phát triển công nghệ "xanh" và sử dụng năng lượng hiệu quả.