Chuyến thăm gần đây của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tới New Delhi đánh dấu một bước tiến mới trong mối quan hệ ngày càng thân thiết giữa Ấn Độ và Nhật Bản. Được lãnh đạo bởi hai thủ tướng đều theo trường phái bảo thủ với chính sách ngoại giao cứng rắn, hai quốc gia này có chung mục tiêu là đảm bảo sự ổn định tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Hai nước cùng chung quan ngại trước một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và hung hăng, đồng thời cùng có quyết tâm tạo đối trọng với Bắc Kinh. Washington nên hoan nghênh mối quan hệ mới giữa đồng minh Nhật Bản và đối tác chiến lược Ấn Độ, và khuyến khích hai bên tăng cường hơn nữa quan hệ.

Sự nồng ấm trong quan hệ Nhật-Ấn rất có lợi cho Mỹ bởi lẽ trong bối cảnh các nguồn lực của Mỹ đang giảm sút do phải tăng cường những cam kết cho Trung Đông và châu Âu, sự hợp tác Ấn-Nhật góp phần thu hẹp những khoảng trống nảy sinh trong chiến lược tái cân bằng chính sách của Mỹ sang châu Á.

Thậm chí trước khi ông Abe tới Ấn Độ (chuyến đi thứ ba trên cương vị thủ tướng), hai nước đã thiết lập được mối quan hệ mà hai nhà lãnh đạo mô tả là "đối tác chiến lược đặc biệt có quy mô toàn cầu". Kể từ khi nhậm chức, Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi đã đặc biệt chú trọng tăng cường quan hệ với Nhật Bản, trong khi ông Abe tìm cách vừa tăng cường quan hệ kinh tế với Ấn Độ, vừa khuyến khích New Delhi tham gia kế hoạch của ông nhằm tạo ra tính kết nối trên toàn châu Á.

Chuyến thăm gần đây đã chứng kiến một loạt thỏa thuận quan trọng, nổi bật nhất là hiệp định đường sắt cao tốc trị giá 15 tỷ USD và hợp đồng bán máy bay của Nhật Bản cho Ấn Độ. Nhật Bản sẽ tăng cường các cuộc tập trận hải quân thường niên với Ấn Độ và Mỹ. Ngoài ra hai nước cũng đạt được thỏa thuận chia sẻ một số thông tin tình báo.

Bên cạnh đó, hai chính phủ đã đạt được bước khai thông trong các cuộc đàm phán về hợp tác hạt nhân dân sự hướng tới khả năng đạt được thỏa thuận cuối cùng, theo đó, Nhật Bản sẽ xuất khẩu công nghệ sản xuất điện hạt nhân cho Ấn Độ mặc dù Ấn Độ sở hữu kho vũ khí hạt nhân và không tham gia ký kết Hiệp ước Không Phổ biến Hạt nhân (NPT). Thỏa thuận này cũng sẽ tạo điều kiện cho các công ty Mỹ có cổ phần tại ngành điện hạt nhân Nhật Bản có thể đầu tư vào lĩnh vực điện hạt nhân của Ấn Độ.

Thỏa thuận hạt nhân dân dụng Ấn-Nhật, nếu được ký kết, sẽ đánh dấu mốc lần đầu tiên Tokyo đạt được một thỏa thuận như vậy với một quốc gia không tham gia NPT. Thỏa thuận này cũng có khả năng đặt quan hệ Ấn Nhật trong khuôn khổ một thỏa thuận tương tự như văn bản hình thành mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Washington và New Delhi.

Không khó để nhận ra những động lực đằng sau tất cả các động thái nêu trên. Ấn Độ và Nhật Bản có điểm chung ở những giá trị dân chủ, những nền kinh tế thị trường lớn, ảnh hưởng ở châu Á và những khát vọng trên phạm vi toàn cầu. Cả hai nước đều đang gia tăng ngân sách quốc phòng và hiện đại hóa quân đội để thể hiện sức mạnh lớn hơn ở nước ngoài. Hai nước đang tìm cách nhân rộng các thỏa thuận kinh tế để tăng cường các luồng thương mại và đầu tư song phương. Và quan trọng hơn hết, cả Nhật Bản lẫn Ấn Độ đều đang theo đuổi chính sách đối trọng với Trung Quốc.

Washington nên thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ nồng ấm giữa Ấn Độ và Nhật Bản trong tiến trình tạo dựng một mạng lưới các mối quan hệ trên toàn khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Mục tiêu này không phải là để đánh bẫy Trung Quốc mắc kẹt trong mạng lưới đó, mà là nhằm đảm bảo rằng Mỹ và các đối tác của Mỹ có thể cân bằng quyền lực đang ngày một lớn của Trung Quốc và có thể đàm phán với Bắc Kinh với tư thế của "kẻ mạnh". Để làm được điều này, cần phải tăng cường tam giác quan hệ Mỹ-Ấn Nhật và mở rộng thành tứ giác quan hệ bao gồm cả Úc. Mỹ nên nghiên cứu các biện pháp tăng cường chuyển giao công nghệ cho Ấn Độ và Nhật Bản cũng như thăm dò các dự án quân sự chung với cả hai nước. Washington nên tăng cường chia sẻ thông tin tình báo và cùng với Nhật Bản và Ấn Độ tiến hành các hoạt động hải quân và không quân chung trên toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Theo The National Interests

Văn Cường (gt)