Trong thời kỳ đầu của biến động Liên Xô-Đông Âu, rất nhiều người Mỹ từng cảm thấy hân hoan vui mừng vì thời đại đơn cực của Mỹ đã đến gần. Nhưng chưa đầy 20 năm, một loạt thách thức đại diện là “hai cuộc chiến tranh và một cuộc khủng hoảng” (chiến tranh Ápganixtan, chiến tranh Irắc và khủng hoảng tài chính) khiến thực lực chung và ảnh hưởng trên toàn cầu của Mỹ suy yếu nghiêm trọng, và một lần nữa dẫn tới những cuộc tranh luận gay gắt đối với sự suy yếu của bá quyền Mỹ. Chính do vậy, sau khi lên nắm quyền, Chính quyền Obama buộc phải đánh giá lại chính sách của chính phủ tiền nhiệm, đồng thời căn cứ vào môi trường thực tế cân bằng lại thứ tự ưu tiên trong các mục tiêu chiến lược để có những sắp xếp chiến lược tương ứng. Obama nhiều lần bày tỏ rằng trước những thách thức ở trong và ngoài nước phức tạp như hiện nay, bất cứ một quốc gia nào, dù hùng mạnh đến đâu, đều không thể đơn độc đối phó; Mỹ phải có sự chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai, trong khi tạo dựng lại nguồn lực sức mạnh ở trong nước, xây dựng trật tự quốc tế có thể đối phó với các thách thức hiện nay nhằm khôi phục địa vị lãnh đạo. Ông cũng đồng thời đề xuất Mỹ phải “tái cân bằng” kinh tế và “tái cân bằng” an ninh. 

Chính quyền Obama cho rằng chấn hưng kinh tế vừa là nhiệm vụ cấp bách vừa là điểm mấu chốt để xây dựng lại nguồn lực sức mạnh của Mỹ. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của Mỹ trước đây “vừa không liên tục, vừa không được chia sẻ rộng rãi. Nó không phải là sự phồn vinh được thúc đẩy bằng những tư tưởng thông minh và sự đầu tư sáng suốt, mà trên một mức độ nhất định là sự tăng trưởng nhanh nhờ tiền vay ngân hàng và chi tiêu”. Chính mô hình phát triển không cân đối này dẫn tới tỉ lệ dự trữ tịnh của Mỹ không ngừng sụt giảm, do đó, những lỗ hổng giữa dự trữ và đầu tư tất sẽ dẫn tới những vấn đề mất cân bằng như nhập siêu thương mại và nợ nần. Năm 2008, tỉ trọng của nhập siêu thương mại, nợ công và thâm hụt tài chính của Mỹ trong GDP lần lượt là 5,82%, 69,16%, 3,18%, đều đã xích gần hoặc vượt quá mức cảnh giới được quốc tế công nhận. Sự mất cân bằng kinh tế liên tục và chồng chất lên nhau ở trong và ngoài nước là nguyên nhân căn bản dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính chưa từng có lần này. 

Sau khủng hoảng tài chính, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ giảm nhanh, tỉ lệ thất nghiệp tăng mạnh. Theo thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của Mỹ từ 2,1% năm 2007 giảm xuống -0,7% vào quý I năm 2008, tới quý I năm 2009 giảm hơn nữa còn -6,4%. Bên cạnh đó, từ năm 2008 tới đầu năm 2010, Mỹ đã mất đi 7 triệu cơ hội việc làm, cộng với số người thất nghiệp sẵn có, khiến Mỹ có tới 15.612.000 người thất nghiệp, tỉ lệ thất nghiệp vượt trên 10%, là đỉnh cao thứ hai kể từ cuộc đại suy thoái. Khủng hoảng tài chính không những làm cho mâu thuẫn xã hội ở trong nước trầm trọng hơn mà còn làm suy yếu sức ảnh hưởng của mô hình phát triển, thậm chí đe dọa khả năng hành động trên toàn cầu của Mỹ, bao gồm khả năng tiến hành chiến tranh chống khủng bố và kế hoạch đổi mới quân sự. Điều này một lần nữa chứng minh, kiểu tăng trưởng không cân bằng quá lệ thuộc vào thâm hụt tài chính và chi tiêu nhờ vay mượn của Mỹ thời gian dài trước đây chẳng những không bền vững về mặt kinh tế mà còn có hậu quả nghiêm trọng về chính trị.

Để khôi phục kinh tế, thực hiện tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững, ngoài đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu khoa học kỹ thuật và năng lượng, Chính quyền Obama còn nhấn mạnh phải “tái cân bằng” kinh tế ở trong và ngoài nước. “Chiến lược an ninh quốc gia 2010” của Mỹ nêu rõ ở trong nước, “điều này có nghĩa là dự trữ nhiều hơn và chi tiêu ít đi, phải cải cách hệ thống tài chính, cắt giảm các khoản nợ dài hạn của chúng ta. Song song với những thay đổi này, chúng ta sẽ càng phải chú trọng xuất khẩu tới khắp thế giới những thứ mà chúng ta có thể chế tạo, sản xuất và tiêu thụ, cố gắng tới năm 2014 thực hiện xuất khẩu tăng gấp đôi”; “đối với các nước khác trên thế giới, đặc biệt là một số thị trường mới nổi và các nước đang phát triển, một sự cân bằng tốt hơn có nghĩa là nhấn mạnh hơn tới việc coi mở rộng nhu cầu ở các nước này là động lực chủ yếu cho tăng trưởng, và nhấn mạnh hơn tới việc mở cửa thị trường của họ”. 

Chính quyền Obama hy vọng thông qua kiểu “tái cân bằng” kinh tế ở trong và ngoài nước làm cho kinh tế Mỹ được xây dựng trên cơ sở đầu tư mang tính sản xuất nhiều hơn chứ không phải trên cơ sở vay mượn không bền vững. Do các nguyên nhân như truyền thống lịch sử, tỉ lệ dự trữ của Mỹ luôn tương đối thấp. Từ những năm 60 thế kỷ 20 tới nay nhìn chung không vượt quá 11%, giữa những năm 90 thế kỷ 20 còn giảm xuống 5%, năm 2005 thậm chí từng là số âm, thấp hơn hẳn tỉ lệ dự trữ trên 30% của các nước Đông Á như Trung Quốc và Nhật Bản. Việc nâng cao tỉ lệ dự trữ để “tái cân bằng” kinh tế sẽ đứng trước những khó khăn tương đối lớn. Hơn nữa, lâu nay tiêu dùng luôn chiếm trên 2/3 GDP của Mỹ, trong tình hình kinh tế chưa phục hồi ổn định, Chính quyền Obama cũng không hy vọng quá kiềm chế tiêu dùng để tăng dự trữ. Nhưng khác với trước đây, Obama hy vọng trong tương lai tiêu dùng của Mỹ phần nhiều được xây dựng trên cơ sở thu nhập quốc gia khả dụng (NDI), và điều này đòi hỏi một sự tăng trưởng kinh tế có thể mang lại nhiều việc làm. Tình hình hiện nay cho thấy Mỹ có ít biện pháp thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp đang cao, mở rộng xuất khẩu có lẽ là cách tương đối có hiệu quả nhất. Đúng như lời Tổng thống Obama đã nhấn mạnh khi phát biểu về kế hoạch tăng gấp đôi xuất khẩu, “các công ty Mỹ xuất khẩu càng nhiều, sản xuất sẽ càng nhiều. Sản xuất nhiều thì số người cần thuê sẽ nhiều lên, điều này có nghĩa là có càng nhiều cơ hội việc làm”. 

Cuộc khủng hoảng tài chính lần này xảy ra đúng vào thời kỳ Mỹ cô lập nhất và khó khăn nhất kể từ 11/9/2001 tới nay, trong khi thúc đẩy kinh tế hồi phục, khôi phục địa vị lãnh đạo của Mỹ là một nhiệm vụ quan trọng khác của Chính quyền Obama. Vì vậy, Chính quyền Obama không những phải sửa đổi một số cách làm không phù hợp trong thời kỳ Bush con, mà còn phải “tái cân bằng” an ninh căn cứ vào môi trường thực tế. 

Chính quyền Obama trước tiên đã đánh giá lại mối quan hệ giữa chống khủng bố và các thách thức an ninh khác, nêu rõ trong khi kiên trì chống khủng bố, chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với các thách thức an ninh rộng lớn hơn. Sự kiện khủng bố 11/9 trên mức độ rất lớn đã làm đảo lộn thứ tự ưu tiên trong các mục tiêu chiến lược của Mỹ sau Chiến tranh Lạnh, chống khủng bố đã từng trở thành mục tiêu quan trọng hàng đầu áp đảo tất cả. Tuy nhiên, một số quan chức cấp cao của Mỹ cảm thấy việc coi “chống khủng bố” là mục tiêu quan trọng hàng đầu đã làm cho Mỹ ở mức độ nhất định xem nhẹ nhiều thách thức khác đối với an ninh quốc gia và địa vị chủ đạo toàn cầu. Trong “Báo cáo đánh giá quốc phòng 4 năm một” công bố tháng 2/2010, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates nhấn mạnh phải “tái cân bằng” đối với những nhu cầu cấp thiết hiện nay và các mối đe dọa có khả năng nhất, trí mạng nhất trong tương lai, trong khi đảm bảo giành thắng lợi trong cuộc chiến chống khủng bố hiện nay, chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với các thách thức an ninh rộng lớn hơn trong tương lai. Sau khi tổng hợp các nghiên cứu, phán đoán của các bên của Mỹ, “Chiến lược an ninh quốc gia năm 2010” tổng kết, “những cuộc chiến này (chiến tranh Irắc và chiến tranh Ápganixtan) và các nỗ lực toàn cầu của chúng ta nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cực đoan bạo lực chỉ là một yếu tố của môi trường chiến lược của chúng ta, và không thể xác định sự can dự của Mỹ với thế giới. Chủ nghĩa khủng bố chỉ là một trong nhiều mối đe dọa trong kỷ nguyên toàn cầu hóa… chúng ta phải xem xét lại các mục tiêu ưu tiên lâu dài của mình thì mới có thể vượt qua một cách thành công các cuộc chiến tranh hiện nay, đồng thời tập trung sức chú ý và nguồn lực của mình vào một loạt thách thức và quốc gia rộng lớn hơn”. Ngoài các tổ chức bạo lực cực đoan thực hiện các hoạt động khủng bố, những thách thức này còn bao gồm việc phổ biến các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt (đặc biệt là vũ khí hạt nhân) và phương tiện chuyên chở, sự can thiệp và công kích đối với không gian vũ trụ và không gian mạng, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, dịch bệnh lan tràn, tội phạm quốc tế, các nhà nước thất bại dẫn tới các thách thức an ninh và một số nước lớn mới nổi có khả năng thách thức địa vị lãnh đạo của Mỹ. Trong đó, sự trỗi dậy của các nước lớn mới nổi và ảnh hưởng địa chính trị của họ sẽ được Mỹ quan tâm hơn trong khi “tái cân bằng” an ninh vì các nước này có những thách thức sâu xa hơn đối với địa vị chủ đạo toàn cầu của Mỹ. Ngày 29/7/2010, Tiểu ban chuyên gia độc lập đánh giá các đảng phái do Bộ trưởng Quốc phòng William J. Perry thời kỳ Chính quyền Clinton và Cố vấn an ninh cao cấp Stephen J. Hadley thời kỳ Chính quyền Bush con, lãnh đạo được thành lập theo yêu cầu của Quốc hội Mỹ đã công bố những đánh giá lại đối với “Báo cáo đánh giá quốc phòng 4 năm một năm 2010”. Báo cáo này coi việc “duy trì một sự cân bằng lực lượng có lợi ở khu vực Âu-Á” là một trong 4 lợi ích quốc gia lâu dài của Mỹ, cho rằng “sự trỗi dậy của các nước lớn mới nổi ở châu Á” là một trong những mối đe dọa tiềm tàng nghiêm trọng nhất đối với lợi ích quốc gia lâu dài của Mỹ có khả năng xuất hiện trong 20 năm tới. “Trở lại châu Á” đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng để “tái cân bằng” an ninh của Chính quyền Obama. 

Trong khi “tái cân bằng” các mục tiêu chiến lược an ninh quốc gia, Chính quyền Obama cũng đã “tái cân bằng” các biện pháp chính sách tương ứng. “Chiến lược an ninh quốc gia năm 2010” cho rằng duy trì ưu thế quân sự là cơ sở đảm bảo an ninh quốc gia và địa vị lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, nhưng nếu sử dụng vũ lực quá mức hoặc đầu tư không thích đáng cho các biện pháp bổ sung hoặc tự hành động khi thiếu đối tác sẽ dẫn tới sức cùng lực kiệt do bành trướng quân sự quá mức, và đây chính là điều mà đối thủ của Mỹ muốn nhìn thấy. Vì vậy, Mỹ phải đánh giá lại các biện pháp chính sách, củng cố liên minh truyền thống, bồi dưỡng quan hệ đối tác mới, tăng cường các chuẩn mực quốc tế v.v… Do “học thuyết đơn phương” và chiến lược “đánh đòn phủ đầu” của Chính quyền Bush đã làm tiêu hao nghiêm trọng vật chất của Mỹ và bài học kinh nghiệm về đạo nghĩa, nên trong khi kiên trì áp dụng quyền đơn phương hành động khi cần thiết, Chính quyền Obama cũng nhấn mạnh coi trọng học thuyết đa phương, vận dụng tổng hợp các chính sách ngoại giao, phòng vệ và phát triển để thực hiện ngoại giao “sức mạnh thông minh”, dùng phương thức chia sẻ có trách nhiệm đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, dùng phương thức kiềm chế quyền lực đối phó với các thách thức an ninh truyền thống, hai phương thức này phối hợp với nhau sẽ bảo vệ có hiệu quả địa vị chủ đạo của Mỹ. 

Nói tóm lại, bất luận là “tái cân bằng” kinh tế hay “tái cân bằng” an ninh, mục đích cuối cùng của nó là muốn khôi phục và tăng cường thực lực và ảnh hưởng trên toàn cầu của Mỹ, làm cho nó được xây dựng trên cơ sở có hiệu quả lâu dài.

 

Trong chiến lược “tái cân bằng” kinh tế và an ninh của Chính quyền Obama, quan hệ Trung-Mỹ chính là đối tượng được điều chỉnh quan trọng. “Tái cân bằng” kinh tế và an ninh và những ảnh hưởng của nó đã tạo thành khung cơ bản khi Mỹ điều chỉnh chính sách đối với Trung Quốc. 

Một số người Mỹ đổ lỗi cho sự bùng phát của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là do sự mất cân bằng kinh tế thương mại Mỹ-Trung. Niall Ferguson, người đưa ra khái niệm “Trung-Mỹ”, cho rằng trung tâm của cuộc khủng hoảng lần này là sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa Mỹ với thâm hụt tài khoản vãng lai vượt quá 1% GDP của thế giới và các nước thặng dư, các nước này chủ yếu gồm các nước xuất khẩu dầu mỏ, Nhật Bản và các nước châu Á mới nổi, trong đó quan hệ kinh tế thương mại Trung-Mỹ là quan trọng nhất. Chiến lược dự trữ USD của Trung Quốc đã làm gia tăng thói quen nợ nần của Mỹ, sự dự trữ của Trung Quốc là nhân tố then chốt khiến lãi suất của Mỹ thời gian dài dừng ở mức tương đối thấp và vay tiền để duy trì thực hiện. Quan điểm này của Niall Ferguson có tính đại diện nhất định. Chủ tịch Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ Ben Bernanke cũng công khai nêu rõ “sự dự trữ thừa thãi” của các nước châu Á bao gồm Trung Quốc là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ. 

Do vậy, trước cuộc “Đối thoại kinh tế và chiến lược Trung-Mỹ” lần đầu tiên năm 2009, Ngoại trưởng Hilarry Clinton và Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner đã yêu cầu hai nước phải có các hành động hơn nữa để đặt nền móng cho sự tăng trưởng cân bằng và bền vững trong tương lai. Họ đề xuất Mỹ phải xây dựng lại sự dự trữ của mình, tăng cường hệ thống tài chính, đầu tư cho năng lượng, giáo dục và sức khỏe; Trung Quốc phải tiếp tục cải cách hệ thống tài chính, kích thích tiêu dùng trong nước tăng lên, làm cho nền kinh tế Trung Quốc lệ thuộc vào xuất khẩu ít hơn. 

Theo một số người Mỹ, duy trì nhập siêu thương mại số tiền lớn đối với Trung Quốc là sự thể hiện tập trung của tình trạng mất cân bằng kinh tế thương mại giữa hai nước. Nhiều năm qua, mặc dù hai nước có những bất đồng tương đối lớn về mặt các con số cụ thể, nhưng việc Trung Quốc duy trì thời gian dài xuất siêu với Mỹ, hơn nữa chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong nguồn nhập siêu của Mỹ đã là một sự thực khách quan. Theo thống kê của Cục thống kê của Mỹ, vào đầu và giữa những năm 80 thế kỷ 20 Mỹ bắt đầu nhập siêu thương mại đối với Trung Quốc nhưng trước những năm 1990 thì không nhiều. Năm 1990 là 10 tỷ USD, sau đó nhanh chóng tăng mạnh, năm 2008 đạt mức kỷ lục 268,04 tỷ USD. Từ năm 2000, Trung Quốc thay thế Nhật Bản luôn đứng đầu nguồn nhập siêu thương mại đối ngoại của Mỹ và tỉ lệ này tiếp tục tăng lên, từ 19,22% năm 2000 nâng lên 32,84% năm 2008. Mặc dù nhập siêu thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc năm 2009 có phần sụt giảm nhưng do mức độ sụt giảm trong toàn bộ nhập siêu thương mại của Mỹ, tỉ trọng của Trung Quốc trong nhập siêu thương mại của Mỹ ngược lại tăng lên đến 45,05%. 

Trong tình hình sự suy thoái kinh tế do khủng hoảng dẫn tới chưa qua đi và vấn đề thất nghiệp vẫn nghiêm trọng, thương mại Trung-Mỹ mất cân bằng là một vấn đề rất dễ làm kích động tình cảm chính trị trong nước Mỹ. Một số người Mỹ cho rằng chính do những cách làm của Trung Quốc như bán phá giá, bù lỗ xuất khẩu và định giá thấp đồng nhân dân tệ đã dẫn tới Mỹ nhập siêu thương mại số tiền lớn với Trung Quốc và dẫn tới thất nghiệp quy mô lớn, phải có sự đáp trả. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, chủ nghĩa bảo hộ thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc liên tục nổi lên. Theo thống kê của Bộ thương mại Trung Quốc, trong năm 2009 Mỹ khởi xướng 10 vụ điều tra vừa chống bán phá giá chống bù lỗ đối với Trung Quốc, số tiền liên quan tới các vụ án là 4,54 tỷ USD; hai vụ điều tra chống bù lỗ với số tiền 480 triệu USD; 1 vụ là áp dụng biện pháp đảm bảo đặc biệt, số tiền là 220 triệu USD; 8 vụ “điều tra theo khoản 337”. Những biện pháp này đã khiến Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ, một thời gian từng làm dấy lên sự lo ngại của cộng đồng quốc tế đối với cuộc chiến thương mại giữa hai nước. 

Trên thực tế, rất nhiều người kể cả ở Mỹ cho rằng hạn chế Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ chỉ có thể làm dịu tạm thời hoặc dịch chuyển một chút sức ép chính trị trong nước, và không thể giải quyết vấn đề mất cân bằng của nền kinh tế Mỹ về căn bản vì xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ phần lớn được các công ty xuyên quốc gia của Mỹ thực hiện, họ là người được hưởng lợi lớn nhất. Các ngành trong nước Mỹ thật sự chịu ảnh hưởng của việc xuất khẩu của Trung Quốc và tỉ lệ việc làm của nó không lớn. Hơn nữa, hạn chế Trung Quốc xuất khẩu sẽ nâng cao giá thành sản xuất và đời sống trong nước Mỹ - ở đây vẫn chưa tính tới giá thành và những rủi ro do Trung Quốc trả đũa. Do sự lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai nước sâu sắc như vậy, chiến tranh thương mại sẽ mang lại những tổn thất nặng nề mà hai nước khó có thể chịu đựng. Đúng như những điều được chỉ rõ trong “Báo cáo kinh tế của tổng thống năm 2010”, khác với những nước dựa nhiều vào xuất khẩu khác, trong chu kỳ kinh tế hơn 30 năm qua, tỉ lệ thất nghiệp và nhập siêu tài khoản vãng lai của Mỹ đã xuất hiện một mối quan hệ đi ngược lại nhau, tức là khi kinh tế phồn vinh, tỉ lệ thất nghiệp xuống thấp, nhập siêu tài khoản vãng lai tăng lên; ngược lại cũng vậy. Về phía Mỹ, trong thời gian trung và ngắn hạn, chu kỳ thương mại chính chứ không phải là tình hình tài khoản phi vãng lai mới chính là cái chủ yếu quyết định tỉ lệ thất nghiệp. Vì vậy, thúc đẩy kinh tế hồi phục mới là điều then chốt để giải quyết vấn đề thất nghiệp, và mở rộng xuất khẩu là con đường có hiệu quả để thực hiện mục tiêu này. Là thị trường mới nổi lớn nhất toàn cầu, không còn nghi ngờ gì, chính Trung Quốc là đối tượng được lựa chọn đầu tiên khi Mỹ mở rộng xuất khẩu. 

Ngoài mở rộng xuất khẩu, tăng cường đầu tư sang Trung Quốc là một kênh có hiệu quả khác để Mỹ “tái cân bằng” kinh tế đối với nước này. Mở rộng đầu tư sang Trung Quốc không những giúp thúc đẩy xuất khẩu các công nghệ và sản phẩm liên quan của Mỹ mà còn giúp làm giảm nhập siêu các hạng mục thường xuyên, thúc đẩy cân bằng thu chi quốc tế của Mỹ. Cho tới nay, số tiền Mỹ đầu tư sang Trung Quốc rất không cân xứng với quy mô kinh tế và thương mại của hai nước, thậm chí đứng sau một số nước nhỏ và khu vực. Từ năm 1979 tới 2009, Mỹ tổng cộng đầu tư trực tiếp sang Trung Quốc 63,475 tỷ USD, chỉ chiếm 6,73% tổng số tiền đầu tư trực tiếp của bên ngoài cùng kỳ đối với Trung Quốc. Do các doanh nghiệp Mỹ có ưu thế lớn về tiền vốn, kỹ thuật, thông tin và tổ chức, sự khá thua kém này cũng có nghĩa là đầu tư của Mỹ sang Trung Quốc trong tương lai có không gian mở rộng rất lớn. Cùng với việc tăng cường giám sát quản lý tài chính sau cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn, các cơ quan tài chính Mỹ cũng không dám đầu cơ bừa bãi như trước đây mà phải đầu tư có giá trị thật sự. Ngoài đầu tư ở trong nước, Trung Quốc là đối tượng đầu tư ở nước ngoài lý tưởng của Mỹ. Theo điều tra của Tổ chức hiệp hội kinh doanh doanh nghiệp Mỹ như Hội đồng kinh doanh Mỹ-Trung, Ủy ban thương mại chung Trung-Mỹ và Hội đồng kinh doanh Mỹ ở Thượng Hải, phần lớn các doanh nghiệp có vốn của Mỹ tỏ ra lạc quan trước triển vọng phát triển ở Trung Quốc và coi Trung Quốc là một trong những thị trường quan trọng hàng đầu hoặc quan trọng nhất để đầu tư trên toàn cầu. Hơn một nửa doanh nghiệp bày tỏ muốn tiếp tục mở rộng đầu tư sang Trung Quốc, phần lớn các doanh nghiệp cho biết mục tiêu kinh doanh của họ ở Trung Quốc là tiến vào hoặc phục vụ cho thị trường nước này. Về lâu dài, đầu tư sang Trung Quốc sẽ dần trở thành một con đường quan trọng khác cho lợi ích kinh tế thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc. 

Về cơ bản, mục đích chính của Obama trong việc “tái cân bằng” kinh tế đối với Trung Quốc không phải là muốn làm suy yếu sự trao đổi kinh tế giữa hai nước mà là muốn làm cho mô hình kinh tế thương mại “Trung-Mỹ” (Trung Quốc xuất khẩu và dự trữ, Mỹ đi vay và nhập khẩu) trước đây được sửa đổi phần nào. Mở rộng xuất khẩu và đầu tư sang Trung Quốc là con đường cơ bản để thực hiện mục tiêu này. Chính vì vậy, Mỹ yêu cầu Trung Quốc mở cửa thị trường hơn nữa. Bất luận Mỹ yêu cầu Trung Quốc mở rộng nhu cầu trong nước hay nâng giá đồng nhân dân tệ cũng như không thừa nhận địa vị kinh tế thị trường của Trung Quốc đều không nằm ngoài mục đích này. 

Trong khi tích cực dốc sức “tái cân bằng” kinh tế, Chính quyền Obama cũng đang từng bước thúc đẩy “tái cân bằng” an ninh đối với Trung Quốc. Ngay từ thời Chính quyền Bush con, một số quan chức cấp cao của Mỹ đã lo ngại việc coi “chống khủng bố” là mục tiêu chiến lược quan trọng hàng đầu có khả năng tạo cơ hội thừa thắng cho Trung Quốc bành trướng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt là vào lúc Mỹ sa vào vũng lầy cuộc chiến ở Ápganixtan và Irắc, kinh tế Trung Quốc lại duy trì tăng trưởng với tốc độ cao, sức mạnh tổng hợp không ngừng tăng lên, ảnh hưởng quốc tế liên tục mở rộng, đã làm dấy lên những mối lo ngại chiến lược ngày càng lớn đối với đảng cầm quyền và đảng đối lập của Mỹ. Do đó, tăng cường sự phòng ngừa đối với Trung Quốc ngày càng trở thành một mục tiêu quan trọng trong khi Chính quyền Obama “tái cân bằng” an ninh. 

Ngay sau khi nhậm chức Ngoại trưởng, bà Hillary đã đích thân tới Đông Nam Á bày tỏ quyết tâm Mỹ “trở lại châu Á”, sau đó lại nhiều lần nhấn mạnh lập trường này trong các trường hợp khác nhau. “Báo cáo đánh giá quốc phòng 4 năm một năm 2010” nêu rõ “Mỹ hoan nghênh những khoản lợi tích cực trong hợp tác (với Trung Quốc) nhưng do Bắc Kinh thiếu minh bạch về quân sự cũng như đặc điểm về trình tự phát triển và quyết sách đã dẫn tới tính hợp pháp trong các hành động và ý đồ của Trung Quốc ở trong và ngoài châu Á trong tương lai bị nghi ngờ. Để tránh gây tranh cãi, “Báo cáo đánh giá quốc phòng 4 năm một năm 2010” đã xoa dịu một số chuyện đối với Trung Quốc nhưng sau đó Tiểu ban đánh giá độc lập các đảng phái do W. Perry và Stephen Hadley lãnh đạo đã coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là một trong những thách thức tiềm tàng nghiêm trọng nhất đối với Mỹ, và cho rằng “cơ cấu sức mạnh có thể không đủ để các quốc gia khác tin tưởng Mỹ có thể thực hiện các cam kết hiệp ước của mình trước khả năng quân sự không ngừng hùng mạnh của Trung Quốc. Vì vậy, kiến nghị đặt việc đánh bại ‘chống can thiệp’ và ‘cách trở khu vực’ vào vị trí ưu tiên hơn” như được nêu trong “Báo cáo đánh giá quốc phòng 4 năm một năm 2010”, đòi hỏi Mỹ dốc toàn lực ủng hộ xây dựng hải quân, tăng cường hệ thống tấn công chính xác tầm xa, khai thác khả năng tác chiến trong môi trường chia cắt thông tin. 

Nếu nói sự phòng ngừa của Mỹ đối với Trung Quốc trước đây chủ yếu dựa trên những mối lo ngại thông thường về thực lực của Trung Quốc tăng lên thì sự phòng ngừa trong những năm gần đây ngày càng dựa vào những lo ngại về ý đồ của Trung Quốc. Trong báo cáo hàng năm về sức mạnh quân sự Trung Quốc công bố ngày 16/8/2010, Mỹ cho rằng việc xây dựng lực lượng quân sự của Trung Quốc đã vượt quá nhu cầu thông thường, ngoài chuẩn bị đối phó với xung đột ở eo biển Đài Loan, quân giải phóng nhân dân vẫn đang khai thác những sân chơi mới và khả năng mới có thể mở rộng phạm vi tác chiến của họ, những sân chơi và khả năng mới này giúp giải quyết vấn đề ở Biển Hoa Đông và Biển Nam Trung Hoa, thậm chí là Ấn Độ Dương và chuỗi đảo thứ hai. Vì vậy, Mỹ sẽ tiếp tục áp dụng các phương thức triển khai giao lưu quân sự với Trung Quốc để chứng tỏ việc Mỹ giữ cam kết đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời khuyến khích Trung Quốc phát huy vai trò mang tính xây dựng ở khu vực này, chung sức đối phó với các thách thức an ninh công cộng. Bên cạnh đó, Bộ Quốc phòng Mỹ còn đảm nhận sứ mệnh đặc biệt giám sát tiến trình hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc cũng như ngăn chặn xảy ra xung đột. Mỹ sẽ thông qua tình hình lực lượng quân sự, sự hiện diện quân sự, phát triển năng lực và hành động cũng như những cách làm như củng cố quan hệ đồng minh và đối tác, thể hiện ý muốn và khả năng bảo vệ hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Hiện nay, Mỹ đang từng bước tăng thêm quy mô lực lượng quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời bố trí các loại vũ khí tiên tiến nhất hiện nay như máy bay trinh sát không người lái Global Hawk, máy bay ném bom tàng hình B-2, máy bay chiến đấu tàng hình F-22 và tàu ngầm hạt nhân tấn công nhiều chức năng lớp Virginia, tăng cường khả năng tấn công tầm xa của những loại vũ khí này. Bên cạnh đó, Mỹ còn tăng cường quan hệ đồng minh quân sự với Nhật Bản, Hàn Quốc và Ôxtrâylia, tăng cường giao lưu quân sự với Ấn Độ, Xinhgapo, Thái Lan và Philíppin, tích cực tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á, nâng cấp Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN cũng như tăng cường sự kiềm chế song phương và đa phương với Trung Quốc. 

Xét cho cùng, Mỹ “tái cân bằng” an ninh đối với Trung Quốc chính là muốn tăng cường bố trí quân sự tuyến trước và liên minh an ninh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc thời đại hậu khủng hoảng, đảm bảo quyền chủ đạo của Mỹ ở khu vực này và trật tự của nó không chịu sự tác động của việc Trung Quốc trỗi dậy. 

Mỹ “tái cân bằng” an ninh không tránh khỏi sẽ ảnh hưởng tới việc “tái cân bằng” kinh tế đối với Trung Quốc. Như trên đã trình bày, mở rộng đầu tư và xuất khẩu sang Trung Quốc là con đường quan trọng để “tái cân bằng” kinh tế Mỹ-Trung. Nhưng do sự phòng ngừa đối với Trung Quốc, Mỹ luôn hết sức nghiêm khắc đối với việc xuất khẩu sang Trung Quốc các sản phẩm kỹ thuật cao có sức cạnh tranh nhất của nước mình – đây cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới Mỹ nhập siêu thương mại đối với Trung Quốc. Mặc dù lên tiếng muốn điều chỉnh chính sách kiểm tra nghiêm ngặt về xuất khẩu nhưng Mỹ cũng chỉ tiến hành trong phạm vi khuôn khổ chiến lược an ninh quốc gia của mình. Mỹ vẫn sẽ hạn chế phạm vi tăng trưởng và tốc độ xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao sang Trung Quốc trong tương lai, những kỹ thuật và sản phẩm liên quan giúp nâng cao sức mạnh quân sự của Trung Quốc như “hệ thống định hướng và kiểm soát, công nghệ năng lượng tiên tiến, công nghệ nano, hệ thống không gian vũ trụ và chống lại không gian vũ trụ, sức mạnh hạt nhân, vật liệu mới, hàng không vũ trụ và thiết bị hàng không v.v… sẽ bị nghiêm ngặt hơn. Về phương diện mở rộng xuất khẩu sang Trung Quốc, ngoài các sản phẩm truyền thống như ô tô, máy bay và các mặt hàng nông sản, theo khái niệm và chiến lược phát triển của Obama, các công nghệ và sản phẩm xanh như năng lượng mới và bảo vệ môi trường sẽ trở thành điểm tăng trưởng mới. Việc xuất khẩu các sản phẩm công nghệ này tuy không trực tiếp thúc đẩy nâng cấp kỹ thuật quân sự của Trung Quốc nhưng lại giúp tháo gỡ vấn đề năng lượng và môi trường. 

Về phương diện mở rộng đầu tư sang Trung Quốc, ngoài nguyên vật liệu, các ngành tiết kiệm năng lượng bảo vệ môi trường, ngành chế tạo truyền thống và ngành dịch vụ, tài chính luôn là một lĩnh vực Mỹ mong muốn tạo được đột phá nhất. So với đầu tư với các hình thức khác, tính lưu động của đầu tư tài chính mạnh hơn, dễ dàng thu được những khoản lợi do kinh tế Trung Quốc phát triển mang lại, lại không đến mức trực tiếp thúc đẩy sự tiến bộ quân sự của Trung Quốc, vẫn có thể duy trì quyền tự do ra vào Trung Quốc và có ảnh hưởng lớn hơn tới sự vận hành kinh tế của nước này. Nhiều năm qua, đầu tư tài chính của Mỹ đối với Trung Quốc đứng đầu bảng đầu tư tài chính của bên ngoài vào Trung Quốc, tỉ lệ vượt trên một nửa, hơn hẳn tỉ lệ đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Trung Quốc với các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, do mức độ mở cửa thị trường tài chính của Trung Quốc hiện nay còn hạn chế, tổng lượng đầu tư tài chính của Mỹ đối với Trung Quốc vẫn có hạn, thúc đẩy Trung Quốc mở cửa thị trường tài chính sẽ là một mục tiêu quan trọng của Mỹ trong tương lai. Hiện nay, mục đích chủ yếu của Mỹ trong vấn đề tỉ giá đồng nhân dân tệ không hẳn chỉ là yêu cầu nâng giá đồng tiền này, mà mục tiêu cuối cùng là muốn thúc đẩy thị trường hóa tỉ giá đồng nhân dân tệ và mở cửa hơn nữa thị trường tài chính Trung Quốc, quét sạch trở ngại để Mỹ đầu tư sang Trung Quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính. 

Nói chung, do lợi ích phức tạp mà nhạy cảm và mối quan hệ mâu thuẫn giữa hai nước, việc Chính quyền Obama “tái cân bằng” an ninh sẽ ảnh hưởng tới phương hướng cụ thể trong “tái cân bằng” kinh tế đối với Trung Quốc, nhằm trong khi ra sức giành lấy cơ hội do kinh tế Trung Quốc phát triển mang lại, hết sức tránh “có lợi” cho sự tiến bộ kỹ thuật quân sự của Trung Quốc. 

Nghiên cứu Biển Đông (giới thiệu)

Còn tiếp