Sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc, về kinh tế và quân sự, có khả năng dẫn tới một phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc mà trong đó Đông Nam Á được coi là “sân sau” của Trung Quốc. Đối với những học giả theo xu hướng hiện thực, vai trò lãnh đạo khu vực của Trung Quốc tạo nên một kết quả không thể chống lại về công nghệ, các lực lượng quân sự, quy mô kinh tế và dân số của nước này. Trong số đó, các chỉ dấu về quân sự và kinh tế là hai nhân tố chủ chốt quyết định mức độ ảnh hưởng của nước này. Các chuyên gia ủng hộ cách tiếp cận mang tính lịch sử-văn hóa nhấn mạnh thêm rằng Đông Nam Á bao gồm các nước thuộc “hệ thống triều cống Trung Hoa” trong quá khứ. Khái niệm nổi tiếng của John King Faibank về “trật tự thế giới Trung Hoa” đem lại một mô hình để hiểu được các mối quan hệ quốc tế ở châu Á, mà mô tả vai trò trung tâm và ưu thế vượt trội của Trung Quốc trong hệ thống này. Với lịch sử dài của trật tự theo hệ thống thứ bậc ở châu Á, triển vọng rằng Vương quốc trung tâm (Trung Quốc) sẽ trở lại vị trí trung tâm với tư cách là cường quốc thống trị mạnh nhất trên nấc thang khu vực sẽ không có gì ngạc nhiên.

Trong tất cả các nước ở Đông Nam Á, Việt Nam có mối quan hệ đa diện và phức tạp nhất với Trung Quốc. Những sự tương tác Trung-Việt phức tạp hơn nhiều so với chỉ riêng các vấn đề lịch sử, văn hóa hay hệ tư tưởng. Trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh, bốn nhân tố mô tả đặc điểm những lợi ích chính của Trung Quốc ở Việt Nam: 1) giành được lợi thế trong các tranh chấp lãnh thổ với Hà Nội; 2) ngăn cản Hà Nội quay sang Mỹ; 3) khuyến khích Hà Nội theo đuổi các chính sách ủng hộ Trung Quốc đối với vấn đề Đài Loan và các vấn đề quốc tế khác; và 4) khuyến khích Hà Nội đối xử ưu đãi đối với các sản phẩm và doanh nghiệp Trung Quốc. Kể từ khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vào đầu những năm 1990, Hà Nội đã kiên trì theo đuổi chiến lược nước đôi đối với Trung Quốc: Một mặt, Việt Nam tiến hành các biện pháp nhằm gia tăng sự can dự về kinh tế cũng như làm sâu sắc mối quan hệ giữa hai đảng; mặt khác, Việt Nam đã tìm cách đa dạng hóa các mối quan hệ chiến lược bên ngoài của mình bằng việc chìa tay ra với các cường quốc khác (ví dụ Nga, Ấn Độ và Mỹ) nhằm kiểm soát những hành động phiêu lưu mạo hiểm về lãnh thổ của Trung Quốc.

Trong khi Bắc Kinh và Hà Nội hợp tác ở những lĩnh vực họ có thể, cũng có cuộc đấu tranh ngày càng sâu sắc trong mối quan hệ này. Bối cảnh đã chuyển sang cái được gọi là “cùng phát triển trong đấu tranh”, khi cả hai nước đang không ngừng tìm kiếm một “chất keo” để gắn kết quan hệ của họ với nhau đối với cả các vấn đề trong nước lẫn quốc tế của họ. Trong khi đó, Bắc Kinh muốn kiểm soát Hà Nội trong phạm vi ảnh hưởng của mình càng nhiều càng tốt, và Việt Nam cố gắng xử lý những sự thiếu cân xứng để duy trì quyền tự chủ của mình. “Cùng phát triển trong đấu tranh” giữa hai nước ngày càng toàn diện: thương mại, chính trị, ngoại giao và công nghệ, thậm chí cả trong thế giới “lý tưởng” nơi mà Trung Quốc cố gắng đem lại sự hiểu biết “chung và mang tính khách quan” ủng hộ việc lập kế hoạch và hợp tác khu vực và tạo ra hình ảnh về một trật tự khu vực do họ dẫn dắt.

Phụ thuộc thương mại thiếu cân xứng và lôgích bao gồm-loại trừ

Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế hiếm khi có nghĩa là sự bình đẳng về kinh tế; bên này được lợi nhiều hơn trong một mối quan hệ như vậy và, kết quả là, có lực đòn bẩy mạnh mẽ hơn đối với bên kia. Quan hệ kinh tế Trung-Việt là ví dụ tiêu biểu cho thực tế này. Trong khi Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, Việt Nam không phải là đối tác hàng đầu của Trung Quốc. Việt Nam phụ thuộc mạnh mẽ vào hàng xuất khẩu giá rẻ từ Trung Quốc và đầu tư từ các doanh nghiệp Trung Quốc, trong khi không có điều tương tự đối với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc đóng cửa biên giới phía Nam của nước này với Việt Nam, thì cả hai nước sẽ bị tổn thương về mặt kinh tế, nhưng do nền kinh tế Việt Nam nhỏ hơn và phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều hơn là ngược lại, Việt Nam sẽ có ít khả năng hơn trong việc duy trì những kết quả kinh tế. Trung Quốc nắm giữ một lợi thế kinh tế quan trọng, và sự trỗi dậy của nước này sẽ gây ra mối đe dọa ngày càng tăng đối với Việt Nam khi sức mạnh của Trung Quốc tiếp tục gia tăng tương đối so với của Việt Nam. Năm 1991, thương mại song phương chỉ là 32 triệu USD. Giờ đây, Trung Quốc là đối tác lớn nhất của Việt Nam, với tổng thương mại đạt 50,21 tỷ USD vào năm 2013 và được cho là đạt 60 tỷ USD trong năm nay, trong khi thương mại song phương với Mỹ năm 2013 là 30 tỷ USD.

Trung Quốc cũng là nước mà với Trung Quốc thì Việt Nam có khoảng cách thương mại lớn nhất, một sự mất cân bằng ngày càng tăng trong nhiều năm. Các hàng hóa chưa qua chế biến, chẳng hạn như dầu thô và than đá, chiếm một tỷ lệ đáng kể trong rổ xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. Các vấn đề này còn sâu sắc hơn đối với ngành công nghiệp sản xuất của Việt Nam, khi các doanh nghiệp, ngay cả các doanh nghiệp lấy xuất khẩu làm trung tâm, đang trở nên ngày càng phụ thuộc vào đầu vào Trung Quốc đối với sản xuất chuỗi giá trị. Hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc bao gồm các nguyên vật liệu thiết yếu khác nhau phục vụ cho sản xuất chuyên về xuất khẩu, bao gồm nguyên liệu thô, máy móc và trang thiết bị, thép, hóa chất, dầu lửa và sợi. Việt Nam giờ đây đang nhập khẩu từ Trung Quốc 50% chỉ và sợi cần cho ngành công nghiệp dệt may của mình. Nếu Trung Quốc làm gián đoạn nguồn cung sợi chỉ, nó sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngành công nghiệp may mặc cần nhiều lao động của Việt Nam, dẫn tới thất nghiệp hàng loạt.

Việt Nam có những mối lo ngại về việc nằm dưới cái bóng của con rồng này và bị tri phối về lâu dài bởi sức mạnh kinh tế và chính trị đang tăng lên của Trung Quốc, nhưng các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn có thể khiến Hà Nội miễn cưỡng thực hiện một chính sách chống lại Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ của họ. Chẳng hạn, Việt Nam có thể rút ra được bài học đang diễn ra từ châu Âu khi nền kinh tế Ukraine bị tác động nặng nề bởi sức ép và các biện pháp từng phạt kinh tế của Nga. Một báo cáo của Việt Nam nói ảnh hưởng của việc Trung Quốc đơn phương triển khai giàn khoan dầu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014 gây phí tổn cho nền kinh tế Việt Nam 1-1,5 tỷ USD. Con số có thể lớn hơn nếu Trung quốc không đơn phương rút giàn khoan sớm hơn dự kiến.

Thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc và sự phân chia Bắc-Nam bất cân xứng giữa các nền kinh tế của họ là những lý do quan trọng giải thích tại sao Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có ý nghĩa trong con mắt của người Việt Nam. Lợi ích của việc mở ra một thị trường khác cần được hiểu trong bối cảnh này: Việt Nam có thể phải trả phí tổn cao hơn của những cơ hội bị bỏ lỡ, đặc biệt sau khi các sáng kiến thương mại mới do Trung Quốc dẫn dắt đang nổi lên. Ngày 1/1/2010, Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) đã chính thức được thiết lập với mức thuế quan bằng 0 được thực hiện giữa Trung Quốc và 6 nước sáng lập của ASEAN đối với hơn 90% sản phẩm. Đối với các thành viên kém phát triển hơn trong ASEAN, chẳng hạn như Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam, chính sách thuế quan bằng 0 đối với 90% các sản phẩm của Trung Quốc sẽ được thực hiện vào năm 2015 (và 2016).

Các đối tác TPP, trong đó có Mỹ và Nhật Bản, sẽ bổ sung cho thị trường Việt Nam. Kể từ vòng đàm phán đầu tiên vào năm 2009, TPP đã được coi là công cụ để đảm bảo những lợi ích kinh tế của Việt Nam trước Trung Quốc. Hà Nội lo ngại rằng quy mô, sự gần gũi về địa lý và các chính sách theo chủ nghĩa trọng thương của Trung Quốc sẽ gây hại cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Dưới cái bóng của con rồng này, lo ngại rằng những ngành công nghiệp cốt lõi có thể bị các công ty Trung Quốc xóa sổ hay ít nhất là chi phối đang trở nên thực tế. Tuy nhiên, Việt Nam có thể bù đắp cho thâm hụt thương mại của mình với Trung Quốc thông qua một khoản thặng dư trong thương mại với các thành viên TPP, đặc biệt là với Mỹ. Nó cũng có thể có tác động bao trùm dưới hình thức hợp tác sâu sắc hơn trong các lĩnh vực như sở hữu trí tuệ, dịch vụ và đầu tư. Tư cách thành viên TPP là ván cá cược tốt nhất đối với Việt Nam vào lúc này, giúp nước này mở rộng thị trường xuất khẩu và gián tiếp giảm bớt cán cân thương mại bất lợi của nước này với Trung Quốc.

Tuy nhiên, kể từ đầu năm 2014, một số nghi ngờ đã bắt đầu nổi lên giữa các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam. Các nhà kinh tế đặt câu hỏi về khả năng xác định số lượng những sự trao đổi đối với nền kinh tế và xác định những bên thua thiệt trong nước theo TPP. Các chuyên gia khác nghi ngờ bản thân mô hình này, chẳng hạn lập luận rằng sự cạnh tranh thương mại của Trung Quốc về lâu dài tỏ ra rất khó quản lý đối với Việt Nam. Điều này cần phải có nghĩa là tác động “loại trừ Trung Quốc” của TPP sẽ trở nên có giá trị, đặc biệt trong các ngành công nghiệp dệt may và da giày mà trong đó khả năng cạnh tranh của Việt Nam được cho là gặt hái được lợi thế tương đối so với của Trung Quốc. Tuy nhiên, những lợi ích kinh tế của Việt Nam còn lâu mới chắc chắn. Các quy định về nguồn gốc xuất xứ “từ sợi trở đi” được Mỹ nhấn mạnh trong các cuộc đàm phán khiến cần phải bàn đến một số trong những lợi ích rõ ràng này. Chuỗi cung ứng của Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào vải và các đầu vào khác của Trung Quốc, những thứ không đủ tiêu chuẩn theo quy định “từ sợi trở đi” mà đòi hỏi các bên ký kết TPP phải sử dụng sợi vải do các thành viên TPP sản xuất. Để các thị trường hàng may mặc của Việt Nam tiếp cận được các mức thuế quan bằng 0 theo TPP, họ phải tìm kiếm các nguồn cung cấp thay thế bên trong khu vực hiệp ước.

Trong thời gian trước mắt, triển vọng cho việc thúc đẩy quan hệ song phương Mỹ-Việt thông qua TPP là mờ mịt, và cơ hội sử dụng khối thương mại như một “liên minh mềm” chống lại Trung Quốc cũng vậy. Chính phủ Việt Nam đã quyết định các lựa chọn thay thế theo lộ trình nhanh, trong đó có các đàm phán thương mại tự do với Hàn Quốc (hoàn tất vào tháng 5/2015), Liên minh Hải quan Âu-Á do Nga dẫn đầu gắn với Liên minh Kinh tế Á-Âu (hoàn tất vào tháng 5/2015) và các cuộc đàm phán với EU, với tư cách là các thị trường thay thế đầy hứa hẹn.

Trong khi Việt Nam đang nỗ lực giảm bớt sự phụ thuộc của nước này vào kinh tế Trung Quốc, ngoại giao kinh tế gần đây dưới thời Chính quyền Tập Cận Bình đã một lần nữa đặt các nhà lãnh đạo Hà Nội vào tình huống khó khăn. Sáng kiến “Một vành đai, một con đường” của Trung Quốc, được công khai hoàn toàn tại hội nghị thượng đỉnh APEC 2014 ở Bắc Kinh, không nhằm vào cái gì ngoài việc thiết lập một mạng lưới giao thông, vận tải và thông tin liên lạc giữa Trung Quốc và các khu vực lân cận, trong đó có Trung Á, vùng Viễn Đông của Nga, Đông Nam Á và cuối cùng là châu Âu. Xương sống tài chính cần thiết sẽ được cung cấp bởi một số thể chế tài trợ mới do Trung Quốc đứng đầu, đáng chú ý nhất là Quỹ Con đường tơ lụa trị giá 40 tỷ USD và Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng (AIIB) trị giá 100 tỷ USD. Nhiệm vụ của cả hai cơ quan này là sử dụng các công cụ tài chính của mình để thiết lập “các mối quan hệ đối tác kết nối”. Tầm nhìn của Bắc Kinh là vô cùng sâu rộng, đặc biệt khi so sánh với những mục tiêu tương đối hạn chế của nó trong hơn 3 thập kỷ qua. Những sáng kiến Con đường tơ lụa nói riêng và những tham vọng chính sách đối ngoại của Bắc Kinh nói chung ngày càng hiện thân cho ước mơ của Tập về “sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc Trung Hoa”.

Những tính toán hợp lý về những phí tổn dự kiến, trực tiếp và gián tiếp, của việc đi theo (hay không đi theo) nằm đằng sau những quyết định của Hà Nội. Việc loại khỏi một hiệp định thương mại tự do có thể làm cho một nền kinh tế nhỏ mất đi tính cạnh tranh của nó trước các nước khác. Tuy nhiên, chính sách gây cảm tình của Trung Quốc từ nhiều dự án quy mô lớn và các sáng kiến mang tính hợp tác đôi khi được phản chiếu trong tranh cãi về chủ quyền kinh tế và ưu tiên chính trị. Đây rõ ràng là một tình thế tiến thoái lưỡng nan bởi lợi ích kinh tế gắn chặt với an ninh.

Trung Quốc không chỉ sẽ hùng mạnh hơn rất nhiều so với hiện nay, mà theo đánh giá ở Hà Nội, nó cũng sẽ tiếp tục cam kết sâu sắc với việc làm cho Việt Nam trở thành một phần của phạm vi ảnh hưởng của nước này. Đối với Việt Nam, gia nhập TPP có thể là bước đi thứ hai của công cuộc Đổi mới mà Đảng Cộng sản phát động năm 1986 bằng việc mở cửa cho sự cầm quyền có năng lực và công khai minh bạch hơn và gây sức ép buộc phải “đại tu” để các công ty trong nước trở nên cạnh tranh hơn. Phải chăng việc gia nhập “Một vành đai, một con đường” hay AIIB cũng như vậy? Cho đến nay điều này vẫn chưa rõ ràng đối với Việt Nam.

Những động lực ba bên

Biển Đông, “sân nhà” của Trung Quốc, có tầm quan trọng đặc biệt trong bối cảnh quan hệ Trung-Việt. Nó không chỉ nắm giữ giá trị kinh tế lớn (ví dụ do ý nghĩa rất lớn của nó đối với các tuyến đường liên lạc trên biển - SLOC - toàn cầu cũng như nó vẫn thường được lưu ý rằng vẫn khó có thể xác định sự giàu có về năng lượng và hải sản của nó), mà nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với chiến lược khu vực và vai trò khu vực trong tương lai của Trung Quốc. Quả thực, công bằng mà nói Biển Đông là vùng biển quan trọng nhất trong thời đại của chúng ta về SLOC nối Singapore với Đông Bắc Á. Cách đây một năm, giá trị kinh tế và khối lượng hàng hóa trong SLOC này đã vượt quá của SLOC giữa Rotterdam và New York. Khoảng 2/3 tuyến đường châu Á đi qua Biển Đông, làm cho nó trở thành đường băng kinh tế biển của châu Á-Thái Bình Dương có ý nghĩa thiết yếu đối với sự phát triển kinh tế trong tương lai của khu vực.

Bằng việc nỗ lực đưa Biển Đông trở thành một bộ phận của Trung Quốc như là vùng lãnh thổ không bị tranh chấp, Bắc Kinh có thể gây sức ép chiến lược đối với các SLOC có ý nghĩa quan trọng đối với 3 đồng minh khu vực của Mỹ (Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan) để giành được một khu vực giàu năng lượng tiềm tàng ngay ở cửa ngõ của mình, và bởi vậy, giảm hơn nữa sự phụ thuộc của Trung Quốc vào việc vận chuyển năng lượng bằng tàu từ Trung Đông và châu Phi (điều dễ tổn thương về mặt chiến lược đối với các tài sản hải quân của các quốc gia khác) cũng như để chứng minh cho các nước láng giềng khả năng định hình “vùng nước ngoài gần” của mình. Nhà tư tưởng về hàng hải của Trung Quốc như đô đốc Lưu Hoa Thanh đã nhấn mạnh rằng các nhà nước dân tộc đang can dự vào một cuộc cạnh tranh căng thẳng đối với các khu vực giàu tài nguyên và rằng hải quân Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ những lợi ích biển của Trung Quốc và trong việc phát triển Trung Quốc thành một cường quốc biển.

Trung Quốc, bên hùng mạnh nhất trong các tranh chấp, có vẻ bề ngoài của một lực lượng giữ ổn định bá quyền bằng việc thúc đẩy các cuộc đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử (COC) với ASEAN kể từ năm 1998 như một lực lượng cho việc xây dựng một trật tự dựa trên nguyên tắc. Kết quả là trật tự dựa trên luật pháp và chuẩn mực vẫn chưa đạt được, nhưng một kết quả tạm thời đã đạt được từ việc thiết lập Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), được coi như cơ chế giải quyết xung đột ở Biển Đông. Hiệp định này có ý nghĩa bởi Trung Quốc đã can dự vào một “tiến trình thúc đẩy hòa bình” để hình thành các mối quan hệ lâu dài với các nước láng giềng của mình. Khi cán cân quyền lực đã và đang thay đổi theo hướng có lợi cho Trung Quốc kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, thái độ của Trung Quốc đối với DOC/COC về Biển Đông đã thay đổi đáng kể. Trái ngược với cách tiếp cận tương đối hòa bình trước đây của mình, những phản ứng gần đây của Trung Quốc khiến các bên tuyên bố chủ quyền khác lo lắng khi nước này cạnh tranh giành chủ quyền, quyền tài phán và quyền kiểm soát Biển Đông. Trung Quốc đang trở nên quá hùng mạnh và đã không đồng ý hạn chế sức mạnh của mình bởi các khuôn khổ thể chế.

Sự thay đổi này là kết quả của sự thay đổi sức mạnh khu vực kể từ năm 2008 với ưu thế quân sự rõ ràng của Trung Quốc ở Biển Đông trước các lực lượng hỗn hợp của các nước ASEAN. Mặc dù cả Philippines và Việt Nam hiện đều can dự vào các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc đối với các hòn đảo ở Biển Đông, Việt Nam đối mặt với hai bất lợi khác biệt so với Philippines. Thứ nhất, Việt Nam xung đột với Trung Quốc cả ở quần đảo Hoàng Sa lẫn Trường Sa. Trong khi quần đảo Trường Sa liên quan đến các quốc gia biển khác và tác động trực tiếp đến quyền tự do hàng hải khu vực, các tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa vẫn là vấn đề song phương. Thứ hai, quan trọng hơn, chính sách không liên minh “3 không” lâu đời của Việt Nam – không liên minh quân sự, không cho phép bất kỳ nước nào thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và không liên minh với bất kỳ nước nào để chống lại các nước khác – làm cho nước này trở nên nổi bật, mặc dù nó đã trở nên gây tranh cãi hơn.

Sau các sự kiện liên quan đến giàn khoan Hải Dương-981, các nhà chiến lược của Việt Nam đã thừa nhận rằng khó mà đưa ra lập luận rằng các xung đột lãnh thổ là những thách thức về quyền tự do hàng hải, một lo ngại rõ ràng của Mỹ. Bởi vậy, với việc không liên minh hay không hỗ trợ quân sự, Việt Nam sẽ bị tổn thương nặng nề về vật chất khi đối đầu với Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa. Một động thái chậm nhưng chắc chắn đối với sự hợp tác quân sự với Mỹ khó có thể là điều tất yếu. Vào tháng 4/2014, hai tàu hải quân Mỹ đã tham gia cuộc tập trận chung phi chiến đấu kéo dài 6 ngày hàng năm lần thứ 5 với hải quân Việt Nam, biểu tượng cho sự hợp tác phòng thủ chặt chẽ hơn giữa hai nước từng là kẻ thù của nhau. Chúng tạo dựng nền tảng cho việc xây dựng lòng tin và hiểu biết lẫn nhau giữa Mỹ và Việt Nam, hi vọng đáp ứng những ưu tiên của nhau. Trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 12/2014, Ngoại trưởng John Kerry đã tuyên bố rằng lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam sẽ nhận được 18 triệu USD viện trợ với 5 tàu tuần tra cao tốc nhằm tăng cường khả năng cảnh sát biển của lực lượng này.

Việt Nam sẽ không thiết lập một liên minh chính thức với Mỹ trong tương lai có thể thấy trước, chủ yếu do các nhà hoạch định chính sách không muốn chứng kiến một mối quan hệ được tăng cường với Mỹ không cân xứng với mối quan hệ Việt-Trung căng thẳng trong trò chơi được mất ngang nhau. Hà Nội sẽ không liều lĩnh hủy hoại quan hệ với Trung Quốc để tạo lập liên minh với Mỹ. Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập một cơ chế được thể chế hóa để củng cố quan hệ song phương của họ với các chuyến thăm hàng năm của các quan chức cấp cao và các cuộc thảo luận thường xuyên về các vấn đề biên giới, an ninh hàng hải, hợp tác phòng thủ, lãnh hải và các hoạt động đánh cá chung. Thậm chí dù Trung Quốc ngày càng hiếu chiến trong tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam vẫn nhắc đi nhắc lại tầm quan trọng then chốt của mối quan hệ thân thiện với Trung Quốc.

Vấn đề cơ bản đối với giới tinh hoa chính trị của Việt Nam là thiếu vắng sự hội tụ trong “nhận thức về mối đe dọa” đối với Trung Quốc. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 10 Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11 vào đầu năm nay, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã phải đối mặt với câu hỏi đã tồn tại từ lâu về việc “Trung Quốc là đối tác hay đối tượng”, nhấn mạnh rằng câu trả lời có thể được tìm thấy trong các văn kiện đảng và nghị quyết của Ban chấp hành trung ương. Nghị quyết số 28 về các chiến lược cho quốc phòng hiện nay tuyên bố rằng Thường vụ Ban chấp hành trung ương đảng tiếp tục tập trung vào việc xác định “đối tác và đối tượng”. Cái gì cấu thành một “đối tác” chiến lược. Văn kiện khẳng định: “Những người tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, tìm cách thiết lập và mở rộng mối quan hệ hữu nghị và sự bình đẳng, hợp tác cùng thắng của họ với Việt Nam, được coi là đối tác của chúng ta; tuy nhiên, những kẻ có kế hoạch phá hoại các mục tiêu của dân tộc chúng ta, cũng như dự án của chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được coi là kẻ thù của chúng ta”.

Các lực lượng ủng hộ các chính sách và sự phát triển của Việt Nam được coi là các đối tác (chiến lược). Ngược lại, những kẻ phá vỡ và gây hại cho Việt Nam được coi là kẻ thù – buộc phải có các hành động đối phó thích hợp. Theo cách mô tả trên thì thật khó đặt Trung Quốc vào một phạm trù cụ thể; Trung Quốc có thể được coi vừa là đối tác, chủ yếu về mặt kinh tế, vừa là mối đe dọa, đặc biệt khi xét tới những tranh chấp lãnh thổ sâu sắc ở Biển Đông. Vì lý do này, Việt Nam sẽ phải thực hiện chiến lược nước đôi, một mặt duy trì các mối quan hệ kinh tế ổn định với Trung Quốc với tư cách là một đối tác chiến lược, trong khi đồng thời thăm dò các biện pháp để duy trì trong tầm kiểm soát những tham vọng biển của Trung Quốc bên trong các vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Đây là nơi mà Mỹ có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Do quan hệ tay ba Mỹ-Việt-Trung, chuyến thăm cấp nhà nước rất được chú ý của nhà lãnh đạo quan trọng của Việt Nam đến Washington hồi tháng Bảy được cho là gây tranh cãi, đặt ra những câu hỏi then chốt về những động lực đang tiến triển của chiến lược phòng ngừa lâu đời đối với các nước lớn. Sau sự chuẩn bị kỹ càng và suy tính chiến lược, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm quan trọng đến cả Trung Quốc và Mỹ vào mùa Hè vừa qua. Một số nhà phân tích đã diễn giải điều này là tín hiệu cho thấy Hà Nội tiếp tục hết sức chú trọng vào việc duy trì các mối quan hệ ổn định, nếu không nói là thân mật, với người láng giềng khổng lồ của mình, bất chấp sự tranh giành căng thẳng giữa họ ở Biển Đông, điều có thể làm xói mòn tính hợp pháp bên trong của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số học giả đã diễn giải các chuyến thăm đó là biểu thị của sự phụ thuộc và thiên về một phía của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Bắc Kinh. Những lập luận như vậy bị tác động sâu sắc bởi tư duy Chiến tranh Lạnh và chỉ nói một mặt của vấn đề. Các nhà chiến lược trong giới thân cận của Hà Nội coi việc này là một công cụ ngoại giao để thuyết phục Trung Quốc định hướng lại sự tập trung của nước này đối với những ưu tiên của Hà Nội. Quả thực, dựa vào sự kiểm tra chặt chẽ hơn, điều trở nên rõ ràng là chuyến thăm đến Bắc Kinh nhìn chung được thiết kế như một “cái giảm sóc” – để cân bằng tác động chiến lược từ chuyến thăm của ông Trọng đến Washington. Chính sách đối ngoại của Việt Nam là gia tăng các cơ hội phòng thủ và kinh tế với Mỹ trong khi duy trì mối quan hệ tốt đẹp với người khổng lồ phương Bắc. Điều Hà Nội muốn không phải là đánh bại quân đội Trung Quốc, mà thay vào đó khiến cho Bắc Kinh phải trả cái giá rất đắt trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công phòng ngừa ở Biển Đông. Họ tin rằng với sự răn đe thông thường, tiến hành một hành động cân bằng tế nhị giữa hai siêu cường này có thể vẫn có tác dụng.

Việt Nam có động cơ chiến lược hợp lý để yên tâm với những dàn xếp đa phương trong việc đối phó với Trung Quốc hùng mạnh. Quả thực, ASEAN có thể đưa lên bàn của Việt Nam hai điều quan trọng: Thứ nhất là ảnh hưởng được tiêu chuẩn hóa của tổ chức này. Các tiêu chuẩn là một khía cạnh quan trọng của những tranh chấp ở Biển Đông. Các bên cạnh tranh nhau hình thành nên các tuyên bố chủ quyền tương ứng của họ trong những bối cảnh tiêu chuẩn hóa khác biệt. Sự minh họa chính là trong khi Trung Quốc viện dẫn khái niệm về “các vùng biển lịch sử” và tính hợp pháp lịch sử để hậu thuẫn cho những tuyên bố chủ quyền bành trướng của mình, bên tuyên bố chủ quyền khác như Việt Nam, Philippines hay Indonesia phản đối điều đó bằng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS). Cách diễn giải về quyền và nghĩa vụ của các nước theo UNCLOS và việc áp dụng công ước này trong bối cảnh Biển Đông giữa các nước cũng khác nhau. Theo quan điểm của Việt Nam, do sự trái ngược về sức mạnh với Trung Quốc, việc có ASEAN bảo vệ giá trị pháp lý của các nguyên tắc và thủ tục đang tồn tại, và tính hữu ích của chúng trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông là tài sản chính. Tất cả các bên tuyên bố chủ quyền tìm kiếm cơ sở cao về đạo đức.

Thứ hai là tăng cường sức mạnh mặc cả. Một khuôn khổ đa phương như ASEAN có xu hướng ủng hộ các bên tham gia yếu hơn bằng việc đem lại cho họ nhiều cơ hội “lên tiếng” hơn đối với bên hùng mạnh (so với các dàn xếp song phương, nơi Trung Quốc có thể tối đa hóa lực đòn bẩy chính trị của mình đối với các bên tham gia yếu hơn lúc đó), đúng như các thể chế đa phương cho phép bên yếu hơn lên tiếng tập thể để chi phối quá trình ra quyết định. ASEAN và các sáng kiến khác nhau của tổ chức này đã không chỉ trở thành một sự cân nhắc quan trọng cho việc giữ ổn định quan hệ chính trị và kinh tế Trung Quốc-ASEAN, mà còn có thể được coi như một cơ chế bảo vệ các nước Đông Nam Á yếu hơn khỏi những lợi thế của cường quốc bá quyền. Trong trường hợp tranh chấp Biển Đông, lập luận tương tự cho cách giải quyết hòa bình và thể chế hóa đối với quyền tự trị chính trị lớn hơn có thể được tìm thấy trong thái độ phổ biến hơn của các nước yếu hơn đối với cách giải quyết tranh chấp.

Thách thức chủ yếu để ASEAN trở thành một nhóm hài hòa sử dụng thành công việc thể chế hóa là sự chia rẽ nội bộ của nó. Các nước thành viên nhìn chung có thể được chia thành 3 nhóm liên quan đến cách ứng xử của họ trong tranh chấp Biển Đông: những nước ở tuyến đầu về vấn đề chủ quyền (Việt Nam và Philippines); những nước có lợi ích đáng kể trong kết quả cuối cùng của cuộc xung đột (Indonesia, Malaysia, Singapore và Brunei); và những nước nghiêng về ủng hộ Trung Quốc (Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan). Sự chia rẽ này báo hiệu một vấn đề lớn mà ASEAN phải đối mặt với tư cách là một khối duy nhất trong việc phản ứng thống nhất với Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Bộ trưởng Luật pháp Singapore K. Shanmugam đã tổng kết một cách nổi bật tình trạng tư duy thắng thế của đa số các quốc gia ASEAN khi ông tuyên bố thẳng thừng: “Nếu anh bắt đầu nhìn vào quan hệ ASEAN-Trung Quốc thông qua lăng kính của Biển Đông, anh sẽ đánh giá nó hoàn toàn sai… Những thực tế trên thực địa là quan hệ rất thực chất về kinh tế, an ninh và chính trị giữa Trung Quốc với từng nước ASEAN và với ASEAN nói chung. Biển Đông hình thành nên một phần của nó, và chúng ta sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình vì đất nước và người dân chúng ta nếu chúng ta quên đi điều đó”. Nói tóm lại, những tranh chấp Biển Đông không được và không nên xác định kết cấu toàn diện của quan hệ Trung Quốc-ASEAN. Lập luận này cho rằng không đáng làm các đối tác thương mại then chốt xa lánh vì các tranh chấp về bản chất mang tính song phương.

Một thế giới, những quan điểm khác nhau

Việc tăng cường sự thống trị khu vực của Trung Quốc là kỹ năng khoa học và thiết kế của nước này. Nhờ vào kinh nghiệm lớn trong việc xây dựng đập và có ngành công nghiệp xây dựng khổng lồ hoạt động trên khắp thế giới, các bên tham gia Trung Quốc có được vị trí thống trị liên quan đến việc lập kế hoạch, xây dựng và vận hành cơ sở hạ tầng lớn. Việc phát triển thủy điện ở Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) là một ví dụ. Các bên tham gia khác dọc sông Mekong phụ thuộc vào dữ liệu, kỹ năng kỹ thuật công trình và các đánh giá khoa học mà nước láng giềng phương Bắc của họ cung cấp. Điều này đặc biệt thích đáng đối với việc thực hiện những đánh giá về tác động môi trường (và xã hội) đối với hàng chục dự án đập được lên kế hoạch. Lập trường không hợp tác trước đây của Trung Quốc trong việc chia sẻ thông tin giữa các nước thượng nguồn và hạ nguồn làm cho sự hiểu biết chung dựa trên lòng tin cũng như sự hiểu biết khách quan về tác động xuyên biên giới quy mô lớn của các con đập trở nên khó khăn. Tuy nhiên, vai trò toàn diện của Trung Quốc có thể được coi là “người đem lại phương sách cuối cùng” về thông tin, liên quan đến việc quản lý việc xây nhà máy thủy điện đối với sông Mekong.

Việc khai thác con sông này tác động đến lợi ích của các nước trong khu vực. Tác động đối với các loài cá và đời sống người dân trên và dọc sông Mekong phụ thuộc vào sự cân bằng giữa các vấn đề phát triển kinh tế, an sinh xã hội và môi trường. Bên cạnh những hình ảnh gây tranh cãi về việc “chủ quyền” và công nghệ có thể hòa hợp như thế nào, tầm nhìn về một “khu vực Mekong thịnh vượng và hòa bình” đem lại một vấn đề tranh cãi chính. Trung Quốc đã sử dụng những dự án của nước này trong việc phát triển thủy điện như một công cụ để theo đuổi tầm nhìn lâu đời của mình về “sự thịnh vượng chung” cho toàn khu vực. Tuy nhiên, trong việc xây dựng các nhà máy thủy điện trên sông Mekong và đánh giá tác động môi trường, người ta có thể quan sát một sự chia rẽ tiêu chuẩn giữa Trung Quốc và các nước GMS, đặc biệt là Việt Nam. Cơ sở hạ tầng này gắn với những tầm nhìn tập thể khác nhau về điều tốt đẹp chung. Trong khi một số nước GMS đã chấp nhận Trung Quốc như đối tác của họ hỗ trợ họ xây dựng các con đập (Lào và Campuchia) và các nước khác là những nhà nhập khẩu điện lớn từ Trung Quốc (Thái Lan và Việt Nam), 3 nước hạ nguồn Thái Lan, Campuchia và Việt Nam theo đuổi những lợi ích khác nhau trong việc phát triển GMS. Giải quyết những vấn đề môi trường và hướng tới một tương lai bền vững hơn có thể đòi hỏi phải hi sinh những lợi ích kinh tế ngắn hạn bằng việc kiểm soát sự bùng nổ về thủy diện, đi ngược lại những giả định ăn sâu trong quan điểm của Chính phủ Trung Quốc, tức là ưu tiên tạo ra điện và phát triển kinh tế nói chung.

Ở trung tâm, sự hiểu biết đáng tin cậy là phức hợp và chắc chắn không phải phi chính trị. Bởi vậy, vấn đề “ai” đem lại sự hiểu biết khách quan hỗ trợ việc lập kế hoạch và ra quyết định là quan trọng. Trên thực tế, để đối trọng với khoảng cách rất lớn về sự hiểu biết có liên quan đến Trung Quốc, các nước khác đã có những nỗ lực lớn. Những sáng kiến hợp tác do Mỹ dẫn đầu như nỗ lực Sáng kiến hạ nguồn Mekong nhằm tái cân bằng sự bá quyền về chuyên môn khu vực. Thay vì tập trung vào các dự án lớn được nhà nước bảo trợ, LMI đưa ra “các dự án liên quan đến các công nghệ đổi mới của Intel, sự vượt trội về giáo dục của Trường Harvard Kennedy, và sự tư vấn về những đánh giá về tác động và tiêu chuẩn từ Ủy hội sông Mississippi của Mỹ và Khảo sát Địa lý Mỹ”.

Là một phần then chốt của chương trình mở rộng rất lớn LMI 2015, một nhóm có xu hướng hành động đã được thiết lập ở Myanmar, tập trung chủ yếu vào “môi trường và nước”. Mục tiêu của nhóm này là giúp gia tăng sự hiểu biết và những khả năng nghiên cứu của các nước ASEAN kém phát triển hơn, là Campuchia, Lào và Việt Nam. Việc thiết lập Viện Dragon ở miền Nam Việt Nam là một trong những ví dụ thích hợp nhất. Dragon là một sản phẩm hợp tác của hai chính phủ Mỹ và Việt Nam, nhằm phát triển một trung tâm nghiên cứu nổi bật về các hệ sinh thái và tính bền vững của các vùng châu thổ sông lớn trong một vùng khí hậu đang biến đổi. Trong khi các nước ven sông chấp nhận sự chi phối của Trung Quốc đối với việc xây dựng và các thị trường, Dragon và các sáng kiến theo hướng chuyên môn hơn nữa cho thấy họ đang ít có xu hướng hơn chấp nhận một sự gần như là bá quyền của Trung Quốc đối với việc đưa ra sự hiểu biết khoa học. Nhiều triển vọng khác nhau đối với việc quản lý nguồn nước và phát triển thủy điện trong khu vực làm giảm sự phụ thuộc về nhận thức luận vào Trung Quốc.

Đầu óc sáng tạo của xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành một “GMS chung” bởi nó tạo ra sự hiểu biết, những sự trông đợi và kiến thức chung, và bởi vậy định hướng hành vi. Những đối thủ cạnh tranh chính của Trung Quốc trong việc thúc đẩy một trật tự khu vực là Mỹ và Nhật Bản. Sự cạnh tranh để trở thành “lãnh đạo tinh thần” là rõ ràng. Chẳng hạn, nó được thể hiện trong cuộc đấu tranh giữa ý tưởng “phát triển bao gồm”, xem xét nhiều khía cạnh nhu cầu của con người (bao gồm việc quản lý các nguồn nước xuyên biên giới, các bệnh truyền nhiễm và sự dễ bị tổn thương trước tình trạng biến đổi khí hậu) và “sự tăng trưởng chiết xuất”, tập trung vào việc thúc đẩy sự năng động kinh tế bao gồm các nước GMS nhằm tạo ra một nền kinh tế khu vực với thủy điện làm trung tâm. Nói cách khác, cuộc đấu tranh giành hình ảnh của thủy điện gắn với sự ủng hộ của các bên tham gia bên ngoài khác nhau.

Tiến trình nằm bên dưới không phải là đường một chiều. Nó phức tạp hơn nhiều so với sự mô tả của các nước khu vực chia sẻ “tầm nhìn của nước bá quyền về trật tự quốc tế và một mình chấp nhận nó”. Tiến trình tìm kiếm các nguyên tắc và nhất trí đối với một số đánh giá về giá trị đối với việc sử dụng nguồn nước sông Mekong vẫn còn để ngỏ. Những tầm nhìn khác nhau này cắt ngang các xã hội, các bên tham gia chính trị, các giới tinh hoa, dân chúng và các nhóm lợi ích giữa Trung Quốc và Việt Nam. Quan trọng hơn, họ là một phần của những hình ảnh lớn hơn về công nghệ thủy điện trong khu vực. Gây phương hại cho Trung Quốc, cuộc đấu tranh về tương lai của việc phát triển thủy điện một cách nổi bật kéo theo vấn đề bên tham gia “bên ngoài” nào cần phải được đưa vào sự cai trị và hình thức cai trị nào cần phải được thực hiện. Sự dai dẳng của các quan điểm và các liên minh khác nhau đối với cả hai vấn đề có nghĩa là không trật tự khu vực nào được giữ ổn định.

Kết luận

Sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc là nền tảng cơ bản cho khoa học tiên tiến, quân đội hùng mạnh của nước này, và một sự gia tăng về ảnh hưởng chính trị của nước này đối với các nước xung quanh. Những hậu quả của sự trỗi dậy này, về cơ bản, được khẳng định bởi sự lo ngại gia tăng của khu vực và thế giới về cách thức Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh và ảnh hưởng của mình. Việc Bắc Kinh theo đuổi hoặc các chính sách thực chất hài hòa với lợi ích chung của các nước khác trong khu vực hoặc các chính sách bác bỏ các nguyên tắc chung hiện đang tồn tại sẽ dẫn đến một tác động khác biệt đối với an ninh khu vực. Việc các nước khác đánh giá như thế nào về Trung Quốc cũng là một vấn đề quan trọng.

Giới tinh hoa Trung Quốc cần phải nhận ra rằng việc theo đuổi một chính sách sức mạnh cứng có thể thu hút sự chú ý của Mỹ và dẫn đến đối đầu. Kể từ năm 2009, Trung Quốc đã đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan của việc lựa chọn giữa sử dụng sức mạnh đang tăng lên của nước này hay tuân thủ luật pháp và các thể chế quốc tế. Những thảo luận nội bộ của Trung Quốc (giữa giới tinh hoa và các tổ chức tư vấn chiến lược) là về những đường hướng và quan điểm khác nhau. Trong khi bên này tin rằng bối cảnh hiện nay đem lại cơ hội để Trung Quốc đưa ra sáng kiến trong việc giải quyết những tranh chấp chủ quyền, bên kia thì kêu gọi thận trọng hơn. Khoảng cách sức mạnh hiện đang tồn tại giữa Mỹ và Trung Quốc có nghĩa rằng bất kỳ sự đối đầu trực tiếp, hay gián tiếp, nào ở Biển Đông cũng sẽ phá hoại nền kinh tế Trung Quốc.

Mối lo ngại chính của Việt Nam là sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ tăng cường hay làm xói mòn an ninh quốc gia của Việt Nam. Thực sự là sự lo lắng này đã nảy sinh ngay cả trước khi cường quốc Trung Quốc nổi lên một cách nhanh chóng, bắt nguồn từ lịch sử lâu đời của việc Trung Quốc thống trị khu vực và chính sách xâm lược của nước này đe dọa các nước láng giềng, đáng chú ý là xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc năm 1979 hay những tranh chấp lãnh thổ hiện nay ở Biển Đông. Việt Nam không có một loạt rộng rãi những sự lựa chọn thay thế đối với việc rơi vào cái bóng của con rồng này, điều sẽ trở thành một “cơn ác mộng” đối với Việt Nam. Bởi vậy, điều then chốt là tạo ra một “hợp đồng xã hội” với các cường quốc từ bên trong và bên ngoài khu vực, bao gồm một cam kết về việc sử dụng sức mạnh, các cách thức để giải quyết các vấn đề chung, và những nguyên tắc được sử dụng như những tiêu chuẩn chung của cộng đồng. Đối với Việt Nam, đây là thời điểm thích hợp để thúc đẩy tiến trình này, trước khi cán cân quyền lực nghiêng hẳn về một phía.

Theo The Asan Forum

Văn Cường (gt)