Tóm tắt 

Dưới thời Chính quyền Obama, quan hệ Việt-Mỹ đã trải qua một sự cải thiện đáng kể, cụ thể là về phương diện hợp tác an ninh. Sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông đã giúp quan hệ song phương trở nên nồng ấm. Hiệp định quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng đem lại triển vọng về việc thoát khỏi quỹ đạo kinh tế của Trung Quốc. Nhưng đúng khi việc nối lại quan hệ hữu nghị về an ninh khó khăn mới có được bắt đầu đạt được đà, thì Tổng thống Mỹ mới đắc cử Donald Trump đã tuyên bố Mỹ rút khỏi TPP. Ngay sau đó, chính sách tái cân bằng sang châu Á được tuyên bố chính thức chấm dứt. Cả hai điều này đều không phải là tin tốt đối với Việt Nam. 

Tuy nhiên, bất chấp sự lo ngại ban đầu về việc Trump không sẵn lòng can dự với Đông Nam Á, có một số dấu hiệu cho thấy mối quan hệ này có thể tiếp tục phát triển. Các cuộc gặp cấp cao, bao gồm các chuyến thăm Washington của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch trong năm 2017, đã trấn an Hà Nội rằng Chính quyền Trump có một lợi ích liên tục trong việc làm sâu sắc thêm quan hệ song phương. Việc Tổng thống Trump tham dự Hội nghị cấp cao Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11/2017 tại Đà Nẵng và một chuyến thăm bên lề đến Hà Nội theo lịch trình ra tín hiệu cho thấy nếu không phải là một số sự phát triển mới trong quan hệ Việt-Mỹ thì ít nhất cũng là sự rõ ràng nào đó về chính sách Việt Nam và châu Á của Tổng thống Trump. 

Quan hệ Việt-Mỹ đã trải qua một sự thay đổi lớn kể từ khi quan hệ giữa hai nước được bình thường hóa vào năm 1995. Mặc dù việc xây dựng lòng tin giữa hai nước từng là kẻ thù không hề dễ dàng, nhưng trong những năm gần đây, sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông đã giúp gia tăng sự nồng ấm của quan hệ song phương. Tuy nhiên, việc Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ đã làm dấy lên những câu hỏi về việc liệu những nỗ lực của Chính quyền Obama củng cố mối quan hệ này có tiếp diễn hay không. 

Một trong các hành động đầu tiên của Tổng thống Trump khi nhậm chức là rút khỏi TPP, một hiệp định quan trọng về kinh tế và chính trị đối với Việt Nam. Hà Nội cũng có những sự nghi ngờ về việc liệu chính quyền mới có cùng chung những quan ngại an ninh của họ đối với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông hay không. Do đó, chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Trump để tham dự Hội nghị cấp cao APEC vào tháng 11/2017 mang một tầm quan trọng lớn lao và đóng vai trò chính trong việc thiết lập tinh thần chung và các điều kiện cho mối quan hệ này trong những năm tới. 

Mục đích của bài phân tích này là xem xét liệu chiều hướng tích cực của quan hệ Việt-Mỹ dưới thời Chính quyền Obama có khả năng tiếp diễn dưới thời người kế nhiệm ông hay không. Bài viết xem xét một vài trong số các động lực chủ chốt và các yếu tố của mối quan hệ này dưới thời Obama trước khi chuyển sang thảo luận về các nhân tố chính có khả năng sẽ định hình mối quan hệ này dưới thời Trump. 

Động lực

Trong một chuyến thăm Việt Nam vào năm 2013, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã nói rằng không có hai đất nước nào đã “nỗ lực hơn, làm được nhiều điều hơn, và làm được tốt hơn để cố gắng xích lại gần nhau, thay đổi lịch sử và thay đổi tương lai”. Quả thực, việc nối lại tình hữu nghị thời hậu chiến giữa Việt Nam và Mỹ đã không đến một cách dễ dàng đối với cả hai bên. 

Những năm đầu bình thường hóa quan hệ dưới thời Chính quyền Clinton đã được điều chỉnh có chừng mực để ứng phó với những sự nhạy cảm trong nước, vốn vẫn mạnh mẽ trong Quốc hội. Hầu hết sự tập trung ban đầu là về thương mại. Vào năm 1994, Tổng thống Clinton đã dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và không lâu sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995, hai chính phủ đã ký kết Hiệp định thương mại song phương. Điều này đã mở đường cho tăng trưởng thương mại đều đặn và đáng kể giữa hai nền kinh tế, với một cán cân thương mại ngày càng có lợi cho Việt Nam. Vào năm 2006, Quốc hội Mỹ đã chấp thuận quy chế quan hệ thương mại bình thường lâu dài với Việt Nam, điều này thể hiện việc hoàn thành quá trình bình thường hóa quan hệ kinh tế, và cho phép Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 với tư cách là thành viên thứ 150 của tổ chức này. 

Trong giai đoạn này, Hà Nội vẫn thận trọng đối với việc mở rộng hợp tác quân sự với Mỹ. Thậm chí sau sự nồng ấm quan hệ đáng kể dưới thời Chính quyền Obama, Việt Nam vẫn từ chối một lời mời của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter để các sĩ quan quân đội Việt Nam quan sát các cuộc tuần tra trên biển bằng máy bay P8 Poseidon trên Biển Đông. Việt Nam nằm trong số 3 thành viên ASEAN duy nhất, cùng với Myanmar và quốc gia không tiếp giáp với biển - Lào, không tham gia các cuộc tập trận CARAT (Hợp tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trên biển) do Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ chỉ huy.

Chính sách quốc phòng của Việt Nam theo truyền thống chú trọng mạnh mẽ vào sự tự lực. Chính sách “3 không – không có các căn cứ quân sự nước ngoài; không có các liên minh quân sự nước ngoài; và không sử dụng một nước thứ ba để chống lại nước khác – là các yếu tố chủ chốt trong chiến lược quốc phòng của họ. Chính sách này được thông qua sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1991. Nó nhằm mục đích trấn an Bắc Kinh rằng Hà Nội không có ý định thù địch đối với nước này . 

Cho đến nay, mối quan hệ quan trọng nhất duy nhất của Việt Nam vẫn là với Trung Quốc. Đây là một mối quan hệ phức tạp, được xác định bởi một chênh lệch sức mạnh rất lớn, nhưng cũng là sự tương đồng về chính trị và kinh tế nào đó, trao đổi thương mại sâu rộng, một lịch sử tương tác lâu dài và một sự gần gũi về địa lý mà một số người gọi đây là một tai họa. Brantly Womack viết trong cuốn “Trung Quốc và Việt Nam: Nền chính trị của sự bất cân xứng”: “Việt Nam nhìn nhận Trung Quốc như là gã khổng lồ phương Bắc bí hiểm. Ngay cả trong thời bình, gã khổng lồ cũng bị kinh sợ vì quyết định chiến tranh hay hòa bình mang tính định mệnh nhìn chung nằm trong tay gã khổng lồ này”. Thêm vào các tình hình vốn gây thách thức của sự bất cân xứng về sức mạnh, Việt Nam và Trung Quốc có các tuyên bố chủ quyền đối lập ở Biển Đông. Các nước láng giềng này đã có những nỗ lực nhằm giải quyết những căng thẳng về chủ quyền thông qua thông tin liên lạc thường xuyên qua một loạt kênh khác nhau, bao gồm các cuộc đàm phán giữa hai đảng, các cuộc đối thoại của bộ trưởng quốc phòng và việc thiết lập một đường dây nóng trên biển. 

Các biện pháp mà nước này đã thực hiện để bảo vệ và khẳng định các lợi ích của họ ở Biển Đông bao gồm: duy trì các cuộc đối thoại thường xuyên giữa các quan chức chính phủ Việt Nam và Trung Quốc, các công chức của đảng Cộng sản và sĩ quan quân đội; ủng hộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 của ASEAN, mà họ hy vọng tuyên bố này cuối cùng có thể phát triển thành một Bộ quy tắc ứng xử; nâng cao nhận thức về vấn đề Biển Đông trong các diễn đàn khu vực và quốc tế; đẩy nhanh các chương trình hiện đại hóa quốc phòng với một sự tập trung vào việc cải thiện các khả năng hàng không và trên biển của quân đội; và đa dạng hóa các quan hệ nước ngoài của họ bằng cách mở rộng các quan hệ đối tác với một loạt rộng rãi các quốc gia. 

Vào tháng 5/2014, Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc đã triển khai một giàn khoan dầu di động Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Động thái này đã khiến Hà Nội bất ngờ, làm xói mòn nghiêm trọng lòng tin khó khăn mới có được của nước này. Giàn khoan dầu này vẫn được đặt ở vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa trong một vài tuần, làm gia tăng căng thẳng giữa hai nước. Cuối cùng, Trung Quốc đã di dời giàn khoan dầu này, nhưng sự việc đã có một tác động lớn đến nhìn nhận của Hà Nội về những tham vọng của Bắc Kinh ở trong khu vực và hối thúc hơn nữa những nỗ lực của Hà Nội tìm kiếm các đối tác nước ngoài để tạo thế cân bằng với Trung Quốc. 

Diễn biến quan trọng nhất trong tranh chấp Biển Đông kể từ sự việc giàn khoan Hải Dương-981 là phán quyết của Tòa trọng tài tại La Hay vào tháng 7/2016 về vụ kiện Trung Quốc do Philippines đưa ra liên quan đến cách hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông.Tòa đã ra phán quyết rằng các đảo nhân tạo của Trung Quốc không có vị thế hợp pháp và vùng đặc quyền kinh tế 12 hải lý không thể được áp dụng đối với chúng. Phán quyết này là một chiến thắng về tinh thần cho Manila, cũng như cho tất cả các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông khác. 

Việt Nam là 1 trong 7 nước – bao gồm Philippines, Úc, Canada, Nhật Bản, New Zealand và Mỹ - đã công khai hoan nghênh phán quyết này và kêu gọi sự tuân thủ. Các nước khác, bao gồm một số nước bạn thành viên ASEAN của Việt Nam, đã áp dụng một cách tiếp cận thận trọng hơn nhiều, lo sợ về cách thức Trung Quốc có thể phản ứng. Việt Nam đã nổi lên thành nước giữ vai trò chủ đạo chính còn lại ở Đông Nam Á về vấn đề Biển Đông. Điều này đã không đạt được hiệu quả ở Bắc Kinh. 

Vào tháng 6/2017, có tin Trung Quốc đã gây áp lực buộc Việt Nam phải dừng các hoạt động thăm dò khí đốt của công ty Talisman-Việt Nam, một công ty con của tập đoàn Repsol Tây Ban Nha, hoạt động trong một khu vực gọi là Lô 136-03 (khoảng 400 km từ bờ biển Việt Nam). Tướng Phạm Trường Long, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, đã rút ngắn chuyến thăm Việt Nam của ông trước khi diễn ra một cuộc gặp song phương về quốc phòng biên giới đã dự kiến diễn ra. Một vài tuần sau, Việt Nam rời khỏi Lô 136-03 sau khi Trung Quốc đe dọa nước này về quân sự. Một số nhà quan sát lập luận rằng quyết định này là hợp lý khi xét tới các lựa chọn hạn chế của Hà Nội. Những người khác nhìn nhận đây là một sự rút lui chiến thuận để tránh một cuộc đối đầu lớn trước thềm Hội nghị cấp cao APEC 2017 mà Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức. 

Sự cần thiết phải đa dạng hóa 

Quan ngại ngày càng tăng của Việt Nam về Trung Quốc không phải là lý do duy nhất giải thích tại sao mối quan hệ của họ với Mỹ trở nên nồng ấm. Việc tăng cường quan hệ song phương với Mỹ là một phần trong một tiến trình dài hạn mà ở đó Việt Nam tìm cách đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của họ. Cách đây không lâu Việt Nam đã bị cô lập trên toàn thế giới. Ngay khi cuộc chiến tranh của họ với Mỹ chấm dứt, họ đã phải tiếp tục cuộc chiến chống Polpot và cuộc xâm lược của Trung Quốc. Một thập kỷ sau, đồng minh duy nhất còn lại của nước này - Liên Xô - đã sụp đổ. 

Việt Nam đã học được từ kinh nghiệm lịch sử rằng việc quá phụ thuộc vào một đối tác có thể là nguy hiểm. Sau khi bị cô lập trong quá khứ, nước này tìm cách mở rộng phạm vi các quan hệ đối tác song phương và đa phương. Hà Nội đã nhanh chóng nhận ra tầm quan trọng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Sự hợp tác lớn hơn với ASEAN là một trụ cột then chốt của chính sách đối ngoại Việt Nam kể từ khi gia nhập vào năm 1995. Những nỗ lực của Việt Nam hội nhập chặt chẽ hơn với tổ chức này phần lớn là thành công và nước này đã trở thành một thành viên then chốt. Tổng thư ký ASEAN, Lê Lương Minh, là người Việt Nam đầu tiên đảm trách vị trí này. 

Bên ngoài ASEAN, Nhật Bản và Ấn Độ đã nổi lên thành các đối tác then chốt. Kể từ cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981, những trao đổi giữa Việt Nam và Nhật Bản đã tăng lên. Những mức độ tin tưởng giữa hai nước là mạnh mẽ do Nhật Bản liên tục là một trong các nhà đầu tư và viện trợ nước ngoài hàng đầu cho Việt Nam. Một hiệp định đối tác chiến lược đã được ký kết vào năm 2006, mà kể từ đó đã được nâng cấp thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, và một hiệp định hợp tác phòng thủ được ký kết vào năm 2011. Sau cuộc đối đầu về giàn khoan dầu, Tokyo đã cung cấp cho Hà Nội 6 tàu tuần tra trên biển đã qua sử dụng. Các chuyến thăm thường xuyên của các phó thủ tướng và bộ trưởng quốc phòng hai nước đã giúp duy trì đà này. 

Sự cộng tác chặt chẽ hơn với Nhật Bản có hai lợi ích cho Việt Nam. Đó là một cách để Việt Nam dần dần tăng mức độ thoải mái trong việc tiến gần hơn về phía Mỹ và mạng lưới đồng minh của nước này trong khu vực. Nó cũng mang lại một lựa chọn thay thế cho việc trở nên chỉ phụ thuộc vào Mỹ. Nói cách khác, các mối quan hệ chặt chẽ hơn với Nhật Bản giúp Việt Nam làm cân bằng với Trung Quốc, củng cố các năng lực quân sự, và củng cố nền kinh tế mà không phải trải qua chấn thương về hệ tư tưởng và lịch sử của việc củng cố nhanh chóng với Mỹ. Nếu đà này tiếp tục, mối quan hệ này có khả năng trở thành mối quan hệ 3 bên Mỹ-Nhật-Việt. 

Ấn Độ và Việt Nam đã ký kết một quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2007, mà sau đó cũng đã nâng cấp thành một quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Sự cố giàn khoan dầu đã làm tăng thêm một cú hích cho sự thúc đẩy các mối quan hệ song phương. Trong chuyến thăm New Delhi của Thủ tướng Việt Nam khi đó, Nguyễn Tấn Dũng, vào tháng 10/2014, hai nước đã đồng ý mở rộng hợp tác trong nhiều lĩnh vực bao gồm phòng thủ, năng lượng, thương mại và đầu tư, và không gian. Ấn Độ cũng đề nghị cung cấp huấn luyện cho Hải quân Việt Nam. 

Việt Nam và sự tái cân bằng của Mỹ 

Chính trong bối cảnh những phát triển này, các mối quan hệ đang tiến triển giữa Việt Nam với Mỹ cần được xem xét. Vào năm 2010, trong một hội nghị Diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nói rằng Mỹ có lợi ích quốc gia ở Biển Đông và ủng hộ một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp. Bà ngầm đề cập đến Trung Quốc trong tuyên bố của bà, nói rằng Mỹ “phản đối việc sử dụng hay đe dọa vũ lực của bất cứ bên tuyên bố chủ quyền nào” và rằng “các tuyên bố chủ quyền hợp pháp đối với không gian biển ở Biển Đông cần được xuất phát duy nhất từ những tuyên bố chủ quyền hợp pháp đối với các cấu trúc địa hình trên đất liền”. 

Bài diễn văn này là điều gì đó mang tính đột phá trong các mối quan hệ Mỹ-Việt. Nó rất được đón nhận ở Hà Nội, mà coi nội dung bài diễn văn và thực tế là nó được đưa ra ở Hà Nội là một chiến thắng ngoại giao. Chỉ 1 tháng sau bài diễn văn của Clinton, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành cuộc đối thoại quốc phòng và chiến lược cấp thứ trưởng thường niên đầu tiên ở Hà Nội. Cùng năm đó, Hạm đội 7 của Mỹ đã thực hiện các cuộc tập trận huấn luyện chung với Hải quân Việt Nam. Kể từ đó, hai nước đã thực hiện các cuộc tập trận huấn luyện thường xuyên tập trung vào tìm kiếm và cứu nạn, an ninh môi trường và rà phá bom mìn chưa phát nổ còn sót lại. 

Dưới thời Chính quyền Obama, Việt Nam là một trong 3 nước duy nhất ở Đông Nam Á nhận được sự tăng cường hỗ trợ quốc phòng của Mỹ. Vào năm 2011, Hà Nội và Washington đã ký một Biên bản ghi nhớ Thỏa thuận sơ bộ về việc thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương, mà gắn với các cuộc đối thoại quốc phòng cấp cao thường xuyên và sự hợp tác về an ninh biển, cũng như hợp tác về gìn giữ hòa bình, viện trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa. Trong năm 2012, lần đầu tiên kể từ cuộc Chiến tranh Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đến thăm cảng dân sự ở Vịnh Cam Ranh. Trong chuyến thăm đó, ông đã thành lập Văn phòng hợp tác quốc phòng tại sứ quán Mỹ ở Hà Nội. Việt Nam đã trở thành quan sát viên tại cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) 2012 – cuộc tập trận hải quân lớn nhất thế giới. 

Những tiến triển này là một bối cảnh cần thiết cho chuyến thăm của Chủ tịch Việt Nam khi đó, Trương Tấn Sang, đến Washington vào năm 2013, khi một hiệp định quan hệ “đối tác toàn diện” được ký kết giữa hai quốc gia. Thỏa thuận này là cột mốc phản ánh những mức độ tin tưởng mới giữa hai kẻ thù trước đây và chuẩn bị cho những nỗ lực hơn nữa làm sâu sắc thêm mối quan hệ này. Cũng trong năm đó, Ngoại trưởng John Kerry đã đến thăm Việt Nam và tuyên bố sẽ mang lại gói trợ giúp 18 triệu USD để cải thiện năng lực thực hiện các chiến dịch tuần tra trên biển, tìm kiếm và cứu nạn, và cứu trợ thảm họa của nước này. Gói này bao gồm cung cấp cho Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam 5 tàu tuần tra. Sau sự cố giàn khoan Hải Dương 981, Mỹ đã dỡ bỏ từng phần những hạn chế bán các vũ khí gây sát thương cho Việt Nam. 

Mối quan hệ kinh tế cũng phát triển. Đặc biệt, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, một yếu tố kinh tế then chốt trong chiến lược tái cân bằng sang châu Á của Chính quyền Obama, hứa hẹn kéo nền kinh tế Việt Nam đến gần nền kinh tế Mỹ hơn. Đối với Việt Nam, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương quan trọng không chỉ về kinh tế mà còn có ý nghĩa chiến lược bởi vì đó là một cơ hội để Việt Nam đa dạng hóa nền kinh tế rời xa khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc. 

Trong khi trong quá khứ, Hà Nội đã xem xét mối quan hệ với Mỹ bằng sự thận trọng và hoài nghi lớn, một trạng thái mới đã đạt được trong giai đoạn này. Các trí thức nổi bật của Việt Nam đã bắt đầu công khai ủng hộ sự liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ. Trong năm 2015, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm chính thức đến Washington và đã có buổi gặp chính thức với Tổng thống Obama. Đó là lần đầu tiên người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam có cuộc gặp chính thức với tổng thống Mỹ tại Phòng Bầu dục trong Nhà Trắng. Việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tham gia các sáng kiến ngoại giao là tương đối hiếm. Chuyến thăm của ông cho thấy sự cần thiết phải làm sâu sắc các mối quan hệ với Mỹ. 

Hiệu ứng Obama 

Sự tái cân bằng sang châu Á của Chính quyền Obama đã để lại ấn tượng sâu sắc ở Hà Nội, đặc biệt là việc nước này chìa tay ra với ASEAN. Tại một hội nghị thượng đỉnh ở Sunnylands, California vào năm 2016, một tuyên bố chung do Tổng thống Obama và các nhà lãnh đạo ASEAN đưa ra bao gồm một cam kết “duy trì hòa bình, an ninh và sự ổn định trong khu vực, đảm bảo an ninh và an toàn trên biển, bao gồm quyền tự do hàng hải và hàng không và những sự sử dụng biển hợp pháp khác, và thương mại trên biển hợp pháp không bị cản trở như được miêu tả trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 cũng như sự phi quân sự hóa và tự kiềm chế trong khi thực hiện các hành động”. 
Việc đề cập đến sự phi quân sự hóa là đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam do vấn đề này theo truyền thống bị tránh một cách cẩn trọng trong những tuyên bố chính thức của ASEAN. Thực tế là ở chính nơi Tổng thống Obama tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ông đã tái đảm bảo với các nhà lãnh đạo ASEAN rằng Mỹ sẽ không hy sinh những lợi ích của họ vì mối quan hệ với Trung Quốc. 

Uy tín cá nhân của Tổng thống Obama là một yếu tố then chốt nữa trong việc cải thiện hình ảnh của Mỹ ở Việt Nam, không chỉ với công chúng mà còn với các nhà hoạch định chính sách. Trong chuyến thăm của ông vào tháng 5/2016, ông đã được chào đón nồng nhiệt trên đường phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong bài diễn văn ở Hà Nội, Obama đã khéo léo đánh vào tâm lý của một nước nhỏ bằng việc lặp đi lặp lại rằng mọi quốc gia là ngang bằng bất kể nhỏ hay lớn. Ông hiểu nỗi lo lắng chiến lược của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc trong khi làm yên lòng ban lãnh đạo Việt Nam rằng Mỹ không có ý định can thiệp vào những sắp xếp nội bộ của Việt Nam. 

Quyết định của Obama tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam trong chuyến thăm này cũng rất được đón nhận. Obama đã biện minh quyết định này là một cách “để đảm bảo rằng Việt Nam tiếp cận được với các trang thiết bị mà nước này cần để tự bảo vệ mình”. Quyết định này theo nhiều cách là sự kết thúc hợp lý tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, nhưng cũng là sự khởi đầu một chương mới trong các mối quan hệ địa-chiến lược ở châu Á-Thái Bình Dương. Về lý thuyết, nó cho phép Việt Nam đa dạng hóa các nguồn trang thiết bị quân sự. Tuy nhiên, bất cứ sự thay đổi nào cũng là một sự thay đổi dần dần, đặc biệt là căn cứ vào các rào cản ngôn ngữ và huấn luyện đối với việc mua trang thiết bị từ các nguồn mới. Tuy nhiên, Việt Nam có nhu cầu ngày càng tăng về thiết bị theo dõi bao gồm máy bay tuần tra trên biển và do thám cũng như thiết bị chỉ huy và kiểm soát, mà có thể các nhà cung cấp trang bị phòng thủ của Mỹ đáp ứng được.

Mối quan hệ Mỹ-Việt dưới thời Trump 

Căn cứ vào việc Tổng thống Obama gắn bó với việc làm sâu sắc mối quan hệ Mỹ-Việt như thế nào, sự thay đổi chính quyền ở Mỹ tất yếu dẫn đến những câu hỏi về tương lai mối quan hệ này. Theo quan điểm của Hà Nội, một số trong những hành động ban đầu của Chính quyền Trump dấy lên những hồi chuông cảnh báo, nổi bật nhất là việc nước này rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương. Đó là một sự thất vọng lớn đối với Việt Nam. Hơn nữa, bất chấp Chính quyền Trump tiếp tục tự do thực hiện các hoạt động hàng hải, ở Hà Nội, người ta cho rằng vấn đề Biển Đông có vị trí tương đối thấp trong các ưu tiên chính sách đối ngoại của Trump. 

Trên thực tế, sau 9 tháng cầm quyền, và giữa lúc căng thẳng gia tăng ở khu vực này, hầu như không có dấu hiệu nào cho thấy Trump đang tạo ra một chiến lược toàn diện cho châu Á. Cuộc khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên đã thu hút phần lớn sự chú ý của Washington khi đề cập đến châu Á. Hơn nữa, cuộc đối thoại ban đầu của Trump với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã khiến một số người ở Đông Nam Á lo sợ rằng đường hướng mềm mỏng hơn của Mỹ ở Biển Đông có thể là để đổi lấy việc Bắc Kinh hợp tác về Triều Tiên. 

Bất chấp những quan ngại của mình, lãnh đạo Việt Nam đã chủ động trong việc theo đuổi sự can dự trực tiếp với vị tổng thống mới. Vào tháng 5/2017, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc là vị nguyên thủ đầu tiên ở Đông Nam Á, và là vị nguyên thủ thứ ba đến từ châu Á (sau Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình) đến thăm Tổng thống Trump sau khi ông lên cầm quyền. Cuộc gặp được xem là thành công và đặt ra một khí thế tích cực cho mối quan hệ dưới thời chính quyền mới này. 

Mỹ có thâm hụt thương mại lớn với Việt Nam, mà tổng cộng lên tới 32 tỷ USD trong năm 2016. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ, Việt Nam được Trump cho vào danh sách một trong nhiều nước có hàng hóa giá rẻ tràn lan ở Mỹ. Mỹ cũng chỉ trích việc Việt Nam thiếu sự bảo vệ quyền sở hữu tài sản trí tuệ, đặt nước này vào danh sách theo dõi trong năm 2016. Trong chuyến thăm của ông vào tháng 5/2017, Thủ tướng Việt Nam đã tìm cách xoa dịu những quan ngại này và những quan ngại khác. Ông Phúc đã ký một thỏa thuận trị giá 15-17 tỷ USD về trao đổi hàng hóa công nghệ và dịch vụ, mà Tổng thống Trump miêu tả là một kết quả cùng thắng: “Họ (Việt Nam) chỉ vừa mới tạo một đơn đặt hàng rất lớn ở Mỹ - và chúng tôi đánh giá cao điều đó – trị giá hàng tỷ USD, mà có nghĩa là tạo công ăn việc làm cho Mỹ và trang bị rất lớn cho Việt Nam”. 

Tuyên bố chung từ cuộc gặp đã tái khẳng định cam kết của Mỹ với quan hệ đối tác toàn diện hiện nay giữa hai nước, cũng như các nguyên tắc được thiết lập trong tuyên bố chung được đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ở Sunnylands. Việt Nam được làm yên lòng bằng những hứa hẹn của Mỹ tiếp tục mối quan hệ quốc phòng và mở rộng hợp tác sang lĩnh vực tình báo. Tuy nhiên, ngược lại với những trao đổi giữa các nhà lãnh đạo Việt-Mỹ vào năm 2016 khi Obama đến thăm Hà Nội, cuộc gặp dường như về bản chất là mang tính giao dịch, phù hợp với đường hướng chính sách đối ngoại của vị tổng thống mới. Các nhà lãnh đạo ở Hà Nội tích cực tìm cách đáp lại sự thay đổi này, hy vọng không chỉ thúc đẩy các mối quan hệ song phương, mà còn thu hút sự chú ý của Trump vào những thách thức địa-kinh tế và địa-chính trị trong khu vực này. Tiếp sau đó, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch đã đến thăm Washington vào tháng 8/2017. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis đã khẳng định rằng sự hợp tác hải quân giữa hai nước sẽ tiếp tục mở rộng: “Hai nhà lãnh đạo đã nhất trí rằng mối quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt mạnh mẽ thúc đẩy an ninh khu vực và toàn cầu. Mối quan hệ này dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung, bao gồm quyền tự do hàng hải ở Biển Đông và trên toàn cầu, tôn trọng luật pháp quốc tế, và công nhận chủ quyền quốc gia”. 

Sự đề cập đến chủ quyền quốc gia rất được đón nhận ở Việt Nam như một dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy sự ủng hộ của Mỹ. Có khả năng sau cuộc gặp, một tàu sân bay của Mỹ có thể cập cảng tại Vịnh Cam Ranh vào năm 2018. Đây là lần đầu tiên một tàu chiến của Mỹ đến cảng này kể từ sau Chiến tranh Việt Nam. 

Sự hợp tác quân sự cũng gia tăng. Vào tháng 5/2017, Chương trình đối tác Thái Bình Dương 17 của Mỹ - một nhiệm vụ đa phương nhằm tăng cường hợp tác khu vực về sẵn sàng cung cấp thuốc men và sẵn sàng đối phó với các thảm họa do con người và tự nhiên gây ra – đã bắt đầu ở Khánh Hòa và Đà Nẵng, miền Trung Việt Nam. Cũng trong tháng đó, Mỹ đã chuyển giao một tàu tuần tra cỡ lớn lớp Hamilton trước đây thuộc Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ cho Việt Nam. Vào tháng 7/2017, Washington và Hà Nội đã thực hiện Hoạt động giao lưu hải quân lần thứ 8. Mỹ cũng đang ủng hộ việc Việt Nam tham gia các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tất cả các hoạt động này chứng tỏ thói quen hợp tác đang hình thành dần dần nhưng vững chắc giữa hai nước. Sự hăm hở hợp tác hiện nay của phía Việt Nam đặc biệt mạnh mẽ hơn so với vài năm trước. 

Tương lai mối quan hệ kinh tế-an ninh sau Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương 

Một câu hỏi chính về mối quan hệ Mỹ-Việt tập trung vào sự kết thúc Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương. Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương quan trọng đối với Việt Nam theo 2 cách: nó là một cách để tiến gần hơn đến Mỹ về mặt kinh tế; trong khi đồng thời rời xa khỏi quỹ đạo kinh tế của Trung Quốc. Khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến thăm Washington vào tháng 7/2015, ông đã cam kết Việt Nam thực hiện “mọi cải cách cần thiết” để thực thi thỏa thuận này. Riêng việc này đã thử thách tầm quan trọng của thỏa thuận thương mại này không chỉ đối với tương lai chính trị và kinh tế của Việt Nam mà còn như một cơ chế thúc đẩy “sự tin tưởng chiến lược” với Mỹ. 

Do đó, quyết định của Tổng thống Trump từ bỏ Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương gây thất vọng sâu sắc đối với Việt Nam. Việt Nam đang tham gia các nỗ lực của các bên tham gia khác ký kết một thỏa thuận mà không có Mỹ. Phía Việt Nam đã thảo luận về những hy vọng của nước này đàm phán một thỏa thuận tự do thương mại với Mỹ. Tuy nhiên, bất cứ thỏa thuận thương mại nào cũng khó có thể đàm phán đặc biệt là do quan điểm của Trump về thương mại. Tuy nhiên, quy mô kinh tế của mối quan hệ này có tầm quan trọng đặc biệt đối với Việt Nam, khi việc duy trì một nền kinh tế mạnh quyết định tính toán chiến lược của nước này. Thách thức của Hà Nội là phải thuyết phục Tổng thống Trump rằng Việt Nam là một thị trường có triển vọng cao cho những đầu tư của Mỹ. Hội nghị cấp cao APEC, với sự tập trung vào thương mại và quản lý kinh tế, là một cơ hội quan trọng để làm điều đó. 

Hướng tới một quan hệ đối tác chiến lược? 

Trong vài năm, có sự thảo luận về việc nâng cao quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Mỹ lên thành kiểu quan hệ đối tác chiến lược. Ý tưởng về một quan hệ đối tác chiến lược được bàn luận ngay từ chuyến thăm Hà Nội của bà Hillary Clinton vào năm 2010, nhưng ý tưởng này bị xem là chưa chín muồi. Có các thách thức đối với việc tán thành một mối quan hệ đối tác chiến lược, bao gồm mối quan hệ quốc phòng mong manh” giữa Washington với Hà Nội so với các mối quan hệ Washington đã có với Singapore hoặc thậm chí với Kuala Lumpur. Tuy nhiên, sự nhiệt tình ở cả hai phía không loại trừ một tiến triển như vậy. 

Mặc dù cả Mỹ lẫn Việt Nam đều không có khả năng sẽ tìm kiếm một liên minh chính thức gần giống như các thỏa thuận của Mỹ với Thái Lan, Philippines hay Úc, nhưng một quan hệ đối tác chiến lược linh hoạt hơn – tương tự như quan hệ với Singapore – là một mô hình có khả năng. Nó sẽ đòi hỏi các cam kết hơn nữa từ cả hai bên. Mỹ được kỳ vọng sẽ đóng một vai trò lớn hơn trong việc củng cố năng lực của lực lượng quốc phòng Việt Nam – bao gồm việc cung cấp vũ khí và công nghệ phòng thủ. Việt Nam được kỳ vọng sẽ đáp lại. Một khả năng là nước này sẽ cho Hải quân Mỹ tiếp cận căn cứ hải quân Vịnh Cam Ranh. Vịnh Cam Ranh được xem là cảng nước sâu tốt nhất ở Đông Nam Á. Nó được dùng làm một căn cứ hải quân và không quân cho các lực lượng của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Cho đến nay, Mỹ, giống như các nước khác, kể cả Trung Quốc, đã có quyền tiếp cận đến thương cảng ở Vịnh Cam Ranh. Chỉ Nga có sự tiếp cận đặc quyền đến căn cứ hải quân. Các chuyến ghé thăm của tàu chiến Mỹ cũng bị hạn chế ở mức 1 lần/1 năm. Trước đây, Hà Nội đã từ chối đề xuất của Washington cho binh lính và tàu chiến Mỹ lần lượt đóng quân ở căn cứ hải quân này, một phần vì những sự nhạy cảm mang tính lịch sử. 

Một cách khác để Việt Nam nâng cao cấp độ hợp tác chiến lược sẽ là tiến hành các cuộc tuần tra chung cũng như tham gia các hoạt động tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông. Điều này sẽ không chỉ là một phản ứng thẳng thừng đối với việc Trung Quốc ngày càng quân sự hóa khu vực này, mà còn củng cố quan hệ an ninh với Mỹ. Trong dài hạn hơn, một quan hệ chiến lược được tăng cường sẽ dẫn đến việc tham gia các cuộc tập trận như RIMPAC, mặc dù điều này sẽ đòi hỏi các lực lượng hải quân của Việt Nam phải hiện đại hóa đáng kể. 
Dĩ nhiên, bất kỳ động thái nào trong số trên cũng sẽ kích động sự bất an sâu sắc ở Trung Quốc, một điều gì đó sẽ được tính đến trong những tính toán của cả Việt Nam lẫn Mỹ. Một sự thay đổi mạnh mẽ về quan hệ song phương như vậy có lẽ sẽ ít có khả năng hơn là một sự phát triển dần dần nhưng đều đặn trong sự hợp tác và can dự giữa hai quốc gia này. 

Kết luận 

Mặc dù thái độ của Tổng thống Trump đối với Việt Nam vẫn chưa rõ ràng, nhưng các quan chức cấp cao trong chính quyền của ông đã và đang làm việc tích cực để đảm bảo rằng những nỗ lực của Chính quyền Obama nhằm củng cố mối quan hệ này sẽ tiếp diễn. 

Tuy nhiên, sau cùng, Trung Quốc sẽ hiện ra rõ nét nhất trong những tính toán của cả hai bên. Việt Nam là một trong số ít nước trong khu vực sẵn sàng áp dụng một đường lối cứng rắn hơn đối với vấn đề Biển Đông. Xét tới quan ngại của Việt Nam về Trung Quốc, thì có lẽ không còn thời điểm nào thuận lợi hơn để Mỹ can dự với Việt Nam. Ở một số khía cạnh, mối quan hệ Việt-Mỹ trở nên nồng ấm hơn nữa phụ thuộc vào một sự hạ nhiệt trong quan hệ Việt-Trung và có lẽ cũng như quan hệ Mỹ-Trung. Chắc chắn, mối lo ngại lớn nhất của Hà Nội sẽ là một tình huống mà ở đó cả hai mối quan hệ này cùng lúc trở nên nguội lạnh.

Tiến sĩ Lê Thu Hương là nhà nghiên cứu liên kết tại Trường nghiên cứu Châu Á – Thái Bình Dương Coral Bell, Đại học Quốc gia Úc. Lĩnh vực nghiên cứu của bà là về chính trị nội bộ và chính sách đối ngoại Việt Nam, mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc. Bài phân tích được đăng trên Lowy Institute.

Văn Cường (gt)