Tóm tắt

Quan hệ kinh tế Việt – Trung đã và đang là lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trong và ngoài nước. Trong đó, sự tác động của mối quan hệ kinh tế này đến quốc phòng là một trong những nội dung đáng được chú ý. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu trên thực tế đối với lĩnh vực này không nhiều, đặc biệt chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu những nhân tố cơ bản chi phối sự tác động của quan hệ kinh tế Việt – Trung đến quốc phòng Việt Nam.  Bằng cách tiếp cận coi quan hệ kinh tế Việt – Trung là chủ thể tác động và quốc phòng là đối tượng chịu tác động thì sự tác động này sẽ chịu sự chi phối của ba nhân tố cơ bản. Đó là hiệu quả quan hệ kinh tế Việt – Trung; khả năng thẩm thấu những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực tới quốc phòng Việt Nam; và môi trường diễn ra sự tác động. Trên cơ sở phân tích, đánh giá ba nhân tố cơ bản này, bài viết đưa ra một số giải pháp chủ yếu hướng những nhân tố vào phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quan hệ kinh tế Việt – Trung đến quốc phòng Việt Nam.

Từ khóa: Quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc, tác động, quốc phòng Việt Nam

Đặt vấn đề

Kể từ khi bình thường hóa quan hệ (năm 1991) đến nay, quan hệ kinh tế Việt - Trung đã có sự phát triển mạnh mẽ và đang từng bước đi vào thực chất và chiều sâu. Cùng với sự phát triển này là sự tác động của nó đến Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Đối với lĩnh vực quốc phòng, quan hệ kinh tế Việt – Trung có những tác động tích cực tới Việt Nam, bên cạnh những tác động tiêu cực không thể xem thường. Để phát huy hơn nữa những tác động tích cực, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực, yêu cầu hàng đầu đặt ra là cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu sự tác động này nói chung, đặc biệt cần đẩy mạnh nghiên cứu những nhân tố cơ bản chi phối đến sự tác động nói riêng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu trên thực tế đáp ứng yêu cầu này không nhiều, có chăng chỉ nghiên cứu ở những góc độ, khía cạnh hẹp. Gần đây, tác giả Nguyễn Đình Liêm (2012) đã nghiên cứu, đánh giá đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam; tác giả Trần Thu Hường (2015) trong Hội thảo khoa học “Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc về an ninh, quốc phòng và phòng tuyến hợp tác cạnh tranh kinh tế quốc tế – Từ thực tiễn Quảng Ninh” đã công bố công trình nghiên cứu “Phát triển thương mại và du lịch vùng biên giới: Những vấn đề còn đặt ra”. Tuy nhiên, các công trình khoa học này cũng không đề cập trực tiếp đến nhân tố cơ bản chi phối sự tác động của quan hệ kinh tế Việt – Trung đến quốc phòng. Vì vậy, để tìm hiểu sâu hơn về quan hệ kinh tế Việt – Trung, bài viết “Những nhân tố cơ bản chi phối sự tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc đến quốc phòng Việt Nam” được xây dựng trên nền tảng lý thuyết về quan hệ kinh tế đối ngoại; lý thuyết về quốc phòng; lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh và quốc phòng phần nào đáp ứng được khoảng trống trên.

Nhân tố cơ bản chi phối sự tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc đến quốc phòng Việt Nam

Tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc đến quốc phòng Việt Nam được hiểu là sự ảnh hưởng, sự chi phối cả trực tiếp và gián tiếp của tổng thể các hoạt động quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với Trung Quốc đến quốc phòng Việt Nam theo cả hai chiều đan xen giữa chiều tích cực (làm cho quốc phòng mạnh lên) hoặc chiều tiêu cực (làm suy yếu quốc phòng). Kết quả của sự tác động đó có thể thấy ngay được, định lượng được, hoặc thẩm thấu dần khó thấy và không định lượng được. Từ cách hiểu về tác động của quan hệ kinh tế Việt - Trung đến quốc phòng nói trên cho thấy những nhân tố cơ bản chi phối đến sự tác động này bao gồm: hiệu quả quan hệ kinh tế Việt – Trung; khả năng thẩm thấu những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của quốc phòng Việt Nam; và môi trường diễn ra sự tác động.

Hiệu quả quan hệ kinh tế Việt – Trung

Nếu như quan hệ này phát triển theo hướng tích cực, đúng với bản chất của ngoại thương là khai thác lợi thế so sánh, những điểm mạnh của mỗi bên để bổ sung cho nhau từ đó mang tới lợi ích hay đem lại “sự cùng thắng”cho các chủ thể thì nó có tác động tích cực góp phần phát triển tiềm lực kinh tế, tạo “nền cốt vật chất” thúc đẩy quốc phòng. Thời gian qua, quan hệ kinh tế Việt – Trung đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt trên các lĩnh vực sau:

Đối với lĩnh vực thương mại, với những nỗ lực của cả hai bên, thương mại giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng kể từ khi bình thường hóa. So sánh giá trị xuất nhập khẩu hai nước năm 1991 là trên 30 triệu USD[1]với kim ngạch đạt 66,7 tỷ USD năm 2015 thì kim ngạch thương mại hai nước đã tăng trên 2.200 lần trong vòng 25 năm. Con số này cho thấy sự gia tăng nhanh chóng tốc độ phát triển của thương mại song phương giữa hai nước. Đặc biệt, tốc độ này được đẩy nhanh hơn khi kim ngạch thương mại hai nước năm 2016 đạt mức 71,6 tỷ USD (Việt Nam xuất khẩu 21,8 tỷ USD, nhập khẩu 49,8 tỷ USD) và 100 tỷ USD là mục tiêu hai nước đặt ra cho năm 2017 nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 1 năm 2017.

Bảng 1: Tình hình thương mại Việt - Trung từ khi hai nước thiết lập quan hệ hợp tác đối tác chiến lược đến năm 2016 (triệu USD)

Năm

Kim ngạch
xuấtnhập khẩu

Kim ngạch
xuất khẩu

Kim ngạch
nhập khẩu

2008

20.187,80

4.535,70

15.652,10

2009

21.046

4.746

16.300

2010

27.376,60

7.308,80

20.018,80

2011

35.720,30

11.126,60

24.593,70

2012

41.172,60

12.387,80

28.784,80

2013

50.187,30

13.233

36.954,30

2014

58.773,57

14.905,64

43.867,92

2015

66.668

17.141

49.526

2016

71.600

21.800

49.800

Nguồn: Hạ Thị Hồng Vân (2016), Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến năm 2020, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 65, 71.

Trong thương mại Việt - Trung, ngoài hoạt động buôn bán chính ngạch qua cửa khẩu quốc gia, quốc tế, hoạt động buôn bán tiểu ngạch (biên mậu) cũng diễn ra sôi động qua 29 cửa khẩu biên giới và nhiều cửa khẩu phụ, đường mòn. Kim ngạch thương mại hai nước diễn ra theo hình thức tiểu ngạch này chiếm một số lượng đáng kể trong tổng kim ngạch thương mại hai nước.

Bảng 2: Tổng hợp kim ngạch thương mại biên mậu Việt – Trung: Giai đoạn 2008 – 2015 (triệu USD)

Năm

 2008

2010

2011

2012

2013

2014

2015

 Tổng

KN xuất khẩu

2.273,1

1.845,1

2.795,9

2.323,9

3.038,3

3.032,3

2.712,0

20.122,3

KN nhập khẩu

2.371,2

1.920,7

2.373,5

2.611,0

2.029,6

2.272,3

3.345,4

18.778,2

Các phương thức khác (tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu, kho ngoại quan)

 3.313,8

4.162,1

5.118,5

3.656,8

11.126,7

11.819,4

17.745,3

58.628,7

Trao đổi cư dân biên giới

39,0

41,8

 64,7

 70,4

 71,5

 78,7

347,8

737,3

Tổng KN TM  biên giới

7.997,1

7.969,7

10.352,6

8.662,1

16.266,1

17.202,7

24.150,5

98.266,6

Nguồn: Bộ Công thương, năm 2016

Đối với đầu tư trực tiếp (FDI) của Trung Quốc vào Việt Nam, qua hơn 23 năm kể từ dự án đầu tiên vào cuối tháng 11 năm 1991, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam không chỉ tăng về quy mô, đa dạng về hình thức, lĩnh vực mà còn mở rộng về địa bàn và liên tục vươn lên trong vị trí xếp hạng. Lũy kế tính đến cuối năm 2014 (chưa kể Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao) đã có 1.082 dự án có hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký 7,94 tỷ USD, chiếm 6,2% số dự án và 3,29% tổng vốn đăng ký, đứng thứ 9 trong tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam”.[2] Năm 2015, theo tính toán, Trung Quốc vẫn đứng thứ 9 trong số 58 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam. Tuy nhiên tổng số vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam năm 2015 đã đạt 665,5 triệu USD với 169 dự án, chiếm 4,3% vốn đầu tư của cả nước.[3]

Đối với ngành công nghiệp không khói (du lịch), Trung Quốc đang trở thành thị trườnglớn nhất của Việt Nam. Năm 2014, lượng du khách Trung Quốc đến Việt Nam chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số lượng khách du lịch nước ngoài với khoảng 1,95 triệu lượt người, tăng 2,1% so với năm 2013. Năm 2015, do tình hình căng thẳng trên biển Đông, lượng khách Trung Quốc đến Việt Nam có giảm; tuy nhiên với khoảng 1,4 triệu lượt khách trong 10 tháng đầu năm 2015 thì Trung Quốc vẫn là một trong những nước có lượng du khách đến Việt Nam đông nhất.[4] Nổi bật trong lĩnh vực du lịch hai nước thời gian qua là tuyến du lịch biển duy nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc đi từ Bắc Hải, tỉnh Quảng Tây tới Hạ Long được mở ra đã thu hút lượng du khách lớn đến từ Trung Quốc đến Việt Nam. Theo tính toán, “lượng du khách Trung Quốc đến Việt Nam hàng năm lên tới gần 2 triệu lượt khách. Việt Nam cũng trở thành thị trường du lịch lớn thứ 4 của Trung Quốc, với 1,5 triệu lượt khách Việt Nam đi du lịch Trung Quốc hàng năm”.[5]

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật đạt được, quan hệ kinh tế Việt – Trung cũng nảy sinh nhiều vấn đề bất cập. Những bất cập đó không những kìm hãm sự phát triển quan hệ kinh tế hai nước mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến quốc phòng. Rõ nhất là tình trạng nhập siêu liên tục của Việt Nam trong nhiều năm và lợi dụng “sức nặng” kinh tế, Trung Quốc buộc Việt Nam trong “vòng ảnh hưởng” của mình. Chỉ tính riêng năm 2015, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc ước tính đạt 32,3 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014.[6] Nằm trong “vòng ảnh hưởng” của nền kinh tế Trung Quốc, sự phụ thuộc của kinh tế Việt Nam vào Trung Quốcđược thể hiện qua sự lệ thuộc vào thị trường xuất nhập khẩu của Trung Quốc: (i) Đối với thương mại, đầu ra và đầu vào của một số mặt hàng chủ lực như nông sản, dệt may, da giày, cao su, … đều phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc; (ii) Đối với lĩnh vực đầu tư, các dự án thực hiện theo gói thầu EPC do Trung Quốc đảm nhiệm tại Việt Nam đặt Việt Nam vào tình trạng phụ thuộc vào các nhà thầu Trung Quốc cả về mặt tiến độ và công nghệ. Nhiều nghiên cứu chỉ ra có đến 90% hợp đồng xây dựng, trong đó có các dự án năng lượng là do Trung Quốc thắng thầu. Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc tới hơn 80% vào nền kinh tế Trung Quốc, trong khi theo lý thuyết kinh tế thế giới, nếu một quốc gia lệ thuộc trên 30% vào một quốc gia khác đã là phụ thuộc rồi.[7]

Khả năng thẩm thấu những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực tới quốc phòng Việt Nam

Nếu như quan hệ kinh tế Việt – Trung chi phối quyết định mức độ tác động nhiều hay ít, mạnh hay yếu đến quốc phòng thì kết quả của sự tác động hay sự biến đổi của quốc phòng còn phụ thuộc vào chính bản thân quốc phòng. Nói cách khác, nếu như quốc phòng khai thác, hấp thu được những tác động tích cực, đồng thời có sức đề kháng, hạn chế thấp nhất sự tác động tiêu cực thì bản thân quốc phòng sẽ mạnh lên dưới tác động của quan hệ kinh tế Việt - Trung, còn ngược lại sẽ bị ảnh hưởng theo chiều tiêu cực.

Thời gian qua, mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn nói chung và Trung Quốc nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta xác định cần “Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và an ninh”.[8] Cũng bởi coi trọng mối quan hệ với Trung Quốc, vì “đại cục” hai nước mà thời gian qua dẫu có những bất đồng, căng thẳng giữa hai bên song Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn “kiên quyết, kiên trì” giải quyết mọi bất đồng trên nền tảng hòa bình, đối thoại.

Phát huy vai trò tích cực của quan hệ kinh tế Việt - Trung cho quốc phòng còn được tiến hành bằng việc quán triệt và thực hiện đường lối “Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; các dự án phát triển kinh tế xã hội trong các khu vực phòng thủ phải bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, nhất là ở những vị trí trọng yếu chiến lược”.[9] Ví dụ như nhiều công trình với sự hỗ trợ của đối tác Trung Quốc đã được triển khai, có công trình đã đưa vào sử dụng như một số công trình giao thông đường bộ, cảng biển, kết nối các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc với các tỉnh biên giới và các tỉnh nội địa Việt Nam không chỉ góp phần phát triển kinh tế xã hội mà còn có vai trò tích cực đối với quốc phòng. Quan hệ kinh tế hai nước nói chung, trong đó có quan hệ kinh tế biên giới được khai thông còn góp phần phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân hai nước, nhất là nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc. Bên cạnh đó, sự hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu trên tuyến biên giới đất liền Việt – Trung hay đang xúc tiến xây dựng ba Khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới giữa hai nước đi kèm với chính sách tăng nguồn thu có được hướng trở lại đầu tư đã góp phần thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng khu vực biên giới, các công trình phục vụ quốc phòng như đồn, trạm biên phòng, kè sông suối biên giới, … qua đó cũng được xây dựng và đưa vào sử dụng. Những kết quả đó đã góp phần tăng thêm sức mạnh của nền biên phòng toàn dân trong sự gắn kết chặt chẽ với nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.

Với vai trò là chủ thể nòng cốt của quốc phòng, lực lượng vũ trang cũng đã chủ động, tích cực tăng cường khai thác những thuận lợi có được để tăng cường đối ngoại quốc phòng. Đơn cử như các hình thức tuần tra song phương trên bộ và trên biển, giao lưu hữu nghị biên giới Việt - Trung, trao đổi thông tin, phối kết hợp trong đấu tranh chống tội phạm; trao đổi giữa các đoàn quân sự cấp cao hai nước; phối hợp diễn tập chống khủng bố, … không chỉ góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quốc phòng, qua đó giữ vững môi trường hòa bình chung cho quan hệ kinh tế hai nước phát triển.

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng yêu cầu gắn kết giữa phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng an ninh trong các dự án của quan hệ kinh tế Việt – Trung còn chưa chặt chẽ. Đáng quan tâm nhất là một số dự án được triển khai ở vị trí quan trọng, có ý nghĩa chiến lược về quốc phòng, an ninh, ảnh hưởng trực tiếp đến thế trận khu vực phòng thủ. Quản lý nhà nước đối với số công nhân “tràn” sang làm việc tại các dự án của Trung Quốc ở Việt Nam còn nhiều lỏng lẻo. Tình trạng buôn lậu, vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới vẫn chưa được ngăn chặn triệt để. Còn tồn tại hoạt động mua bán theo kiểu “nâng rồi dìm giá” với những “mặt hàng không tưởng” như sừng trâu, móng bò, hoa thanh long, … của một số tiểu thương Trung Quốc xét về cả trước mắt và lâu dài đã phá hoại sản xuất, phá vỡ quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, làm ảnh hưởng đến “thế trận kinh tế” của quốc phòng.  Bên cạnh đó, sự tồn tại hàng lậu, hàng nhái, hàng giả, thực phẩm bẩn cùng những hàng hóa mà “vật hóa” trong nó là những giá trị phản văn hóa như phim ảnh, băng hình đồi trụy, … từ phía Trung Quốc thẩm lậu rồi xuất hiện trên thị trường Việt Nam đã không chỉ “bóp chết” sản xuất trong nước, gây ra khó khăn cho nền kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến “sức dân”, làm phai nhạt bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc - những nhân tố quan trọng tạo thành sức mạnh quốc phòng. Công tác quản lý nhà nước đối với số công nhân Trung Quốc sang làm việc tại các dự án của Trung Quốc tại Việt Nam cũng như công tác quản lý, kiểm soát việc thực hiện yêu cầu bảo vệ môi trường ở một số dự án của Trung Quốc còn nhiều lỏng lẻo. Hay nói cách khác, vai trò của chủ thể quốc phòng trong giảm thiểu những tác động tiêu cực của quan hệ kinh tế Việt – Trung đến quốc phòng còn nhiều hạn chế.

Môi trường diễn ra sự tác động

Sự tác động của quan hệ kinh tế Việt – Trung luôn diễn ra trong một môi trường địa lý, chính trị, kinh tế - xã hội nhất định. Môi trường thuận lợi không chỉ giúp cho quan hệ kinh tế hai nước phát triển mà còn thúc đẩy tác động tích cực của nó đến quốc phòng. Ngược lại, diễn ra trong một môi trường bất lợi, quan hệ kinh tế Việt - Trung sẽ bị kìm hãm và những tác động tiêu cực của nó đến quốc phòng cũng gia tăng.

Một trong những đặc trưng của quan hệ kinh tế Việt - Trung là quan hệ kinh tế của hai nước có chung đường biên giới. Đặc điểm về môi trường tự nhiên này không chỉ tạo thuận lợi cho quan hệ kinh tế Việt - Trung phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế, lợi thế về địa hình mà còn tạo điều kiện để quan hệ kinh tế hai nước có thể mở rộng thông qua xác lập các hình thức nội dung hợp tác liên quan đến biên giới như thương mại biên giới, du lịch biên giới hay hình thành các khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới. Tuy nhiên, đặc điểm về địa hình này cũng làm gia tăng mức độ, cường độ tác động tiêu cực của quan hệ kinh tế Việt – Trung đến quốc phòng khi các hiện tượng tiêu cực phía Trung Quốc dễ dàng xâm nhập, ảnh hưởng đến Việt Nam thông qua con đường kinh tế như các hoạt động vận chuyển, tiêu thụ tiền giả, ma túy, các loại tội phạm xuyên biên giới, v.v…

Thời gian qua, môi trường bên ngoài hay môi trường quốc tế cũng đã ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc bởi “bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm; khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại nhiều khu vực; diễn biến phức tạp của tình hình biển Đông, … đã tác động bất lợi đến nước ta”[10] kéo theo là sự ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế hai nước. Đặc biệt, vấn đề biển Đông đang diễn biến phức tạp, khó lường trước mưu đồ “độc chiếm biển Đông” của Trung Quốc. Các hoạt động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế, trái với đạo lý của Trung Quốc trên biển Đông đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư cùng các hoạt động kinh tế giữa hai bên, đưa vấn đề biển Đông trở thành trở ngại lớn nhất kìm hãm sự phát triển quan hệ kinh tế hai nước. Bên cạnh đó, lợi dụng bối cảnh này, “đục nước thả câu”, các thế lực thù địch ra sức công kích, chống phá đường lối chính sách của Đảng, chia rẽ quan hệ Việt – Trung thông qua nhiều con đường từ lợi dụng mạng internet, phương tiện truyền thanh đến tung người, phương tiện, “chuyển lửa” về nước hoạt động.

Xem xét sự chi phối của môi trường bên ngoài cũng không thể không đề cập đến quan hệ với đối tác Trung Quốc. Phương châm 16 chữ "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" đã được lãnh đạo Trung Quốc đưa ra nhằm xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước Việt – Trung. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy Trung Quốc thực hiện chính sách “ngoại giao hai mặt” với Việt Nam, vừa quan hệ vừa kiềm chế, hướng Việt Nam vào quỹ đạo phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc. Chính từ thực chất này mà một mặt quan hệ kinh tế hai nước trên nhiều nội dung chưa đi vào thực chất và chiều sâu, mặt khác có những chính sách, chiến lược của Trung Quốc gây tổn hại đến kinh tế và ảnh hưởng tiêu cực đến quốc phòng Việt Nam như chính sách biên mậu linh hoạt nhưng “thất thường”; chính sách phá giá tiền tệ để gia tăng lợi thế xuất khẩu hàng giá rẻ để “ăn mày hàng xóm – beggar-thy-neighbor”; chiến lược làm lạc hậu hóa hay “thấp hèn hóa” công nghệ và năng lực quản lý của Việt Nam.[11] Thời gian tới, quan hệ Việt – Trung sẽ có những biến động khi nhiều nội dung liên quan đến quan hệ kinh tế hai nước đang được Trung Quốc triển khai theo “Cương yếu quy hoạch phát triển 5 năm lần thứ 13 (2016-2020)”, gọi tắt là Quy hoạch 15/3. Vì vậy việc dự báo, xác định những biến động này là cần thiết để có những đối sách phù hợp nhằm hướng quan hệ kinh tế Việt – Trung phát triển, đồng thời phát huy hơn nữa những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến quốc phòng.

Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực

Một là, tiếp tục thực hiện đầy đủ có hiệu quả các nội dung hợp tác với Trung Quốc cả ở phương diện song phương và đa phương, cả ở cấp nhà nước và cấp địa phương. Đặc biệt cần quán triệt và thực hiện tốt các nội dung hợp tác kinh tế giữa hai nước như trong "Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc" nhân dịp Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ ngày 10 đến ngày 15/9/2016. Theo đó cần thực hiện tốt ‘Thỏa thuận gia hạn và bổ sung Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại giữa Chính phủ hai nước Việt – Trung’; sớm xác định danh mục các dự án hợp tác trọng điểm phù hợp với nhu cầu và lợi ích của hai bên, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, mở rộng lĩnh vực và nâng cao mức độ hợp tác; thực hiện tốt ‘Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản’; sớm phê chuẩn và thực hiện ‘Hiệp định Thương mại biên giới’(sửa đổi); đẩy nhanh nghiên cứu, bàn bạc thống nhất ‘Phương án tổng thể xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới’ theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với quy định pháp luật của mỗi bên, bên cạnh thúc đẩy hợp tác đầu tư và kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước.

Hai là, tiếp tục nâng cao sức mạnh của nền kinh tế, đặc biệt là năng lực cạnh tranh trên cơ sở đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung thực hiện tốt ba đột phá chiến lược để xóa đi ba điểm nghẽn: thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng; quán triệt và thực hiện có hiệu quả những định hướng và giải pháp hội nhập kinh tế quốc tế trong Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 40/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cùng các chiến lược phát triển kinh tế cụ thể khác như Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011- 2020; Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Ba là, tích cực, khẩn trương tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp để hạn chế tình trạng nhập siêu, tiến tới xuất siêu trong thương mại biên giới Việt – Trung như tìm kiếm, mở rộng thương mại quốc tế với các nước và các bạn hàng khác trên thế giới; phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm lấy lại thị phần trong nước; tăng cường quản lý nhập khẩu, thắt chặt nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu tiểu ngạch; ngăn chặn, hạn chế thấp nhất luồng hàng nhập lậu từ Trung Quốc vào Việt Nam cũng như luồng hàng xuất lậu từ Việt Nam sang Trung Quốc; chủ động ứng phó với xu hướng quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ. Đặc biệt cần tăng cường xúc tiến thương mại, đầu tư, chú trọng thiết lập các kênh thông tin để tìm hiểu và nắm bắt thị trường, đối tác Trung Quốc; trong đó coi trọng tìm kiếm thị trường ngách, tìm hiểu phân khúc thị trường đối với những mặt hàng của Việt Nam có sức cạnh tranh, có sự “khác biệt” và “độc đáo”;  phối hợp, thiết lập hệ thống thông tin, nghiên cứu thị trường cụ thể, minh bạch, kịp thời, đặc biệt là những thông tin về nhu cầu và chính sách biên mậu.

Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với quan hệ kinh tế Việt – Trung theo hướng gắn kết hơn nữa giữa phát triển quan hệ kinh tế Việt – Trung với củng cố quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội. Theo đó cần:

(i) Tổ chức thực hiện trên thực tiễn có hiệu quả các quy hoạch, đề án liên quan đến quan hệ kinh tế hai nước trên cơ sở chú trọng yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng như Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 -2020, tầm nhìn đến năm 2030; Đề án quản lý nhập khẩu đến năm 2020 phù hợp với các cam kết quốc tế; Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, thương mại tuyến biên giới Việt – Trung đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch phát triển kho hàng hóa tại các cửa khẩu khu vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; Quy hoạch xây dựng vùng biên giới Việt – Trung đến năm 2020; Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng thương mại trên tuyến hành lang kinh tế Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh đến năm 2020, có xét đến năm 2025; Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng thương mại trên tuyến hành lang kinh tế Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh giai đoạn đến năm 2020, có xét đến năm 2025; Chương trình sắp xếp, ổn định cư dân biên giới Việt – Trung giai đoạn 2013 - 2017; Hoàn thiện chính sách đầu tư ra nước ngoài, có cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Nhà nước mở đường, đầu tư sang thị trường Trung Quốc;

(ii) Khắc phục hạn chế trong hoạt động đấu thầu và quản lý dự án Trung Quốc tại Việt Nam qua việc triển khai thực hiện nghiêm Luật đấu thầu mới năm 2013 và Nghị định số 63/2013/NĐ – CP ngày 26/6/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu nhằm khắc phục những hạn chế của Luật đấu thầu cũ, nhất là khắc phục được tình trạng lấy tiêu chuẩn giá rẻ làm ưu tiên hàng đầu; nâng cao năng lực và đẩy mạnh công tác quản lý đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đấu thầu; đẩy mạnh việc triển khai kho dữ liệu về đấu thầu trong nước và nước ngoài; với chủ đầu tư, thay vì mời thầu EPC, cần tách gói thầu lớn nếu có thể thực hiện được để tạo cơ hội cho nhà thầu nội có cơ hội cọ xát, qua đó mà trưởng thành lớn mạnh, tiến tới làm chủ các dự án thầu EPC lớn trong tương lai;

(iii) Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với số lao động Trung Quốc làm việc trong các dự án ở Việt Nam trên cơ sở hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước về lao động nước ngoài; hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật liên quan đến người nước ngoài vào làm việc; tăng cường công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật lao động nước ngoài đối với cả người sử dụng lao động và người lao động; tăng cường phối hợp giữa các bộ, ban ngành chức năng trong việc thanh kiểm tra người nước ngoài vào làm việc.

Năm là, nâng cao nhận thức cho các chủ thể quốc phòng, nhất là lực lượng vũ trang về tác động của quan hệ kinh tế Việt - Trung, đồng thời khẩn trương thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc điều chỉnh quốc phòng theo hướng giảm thiểu đến mức thấp nhất hậu quả của những tác động tiêu cực.

Nâng cao nhận thức cho các chủ thể quốc phòng, nhất là lực lượng vũ trang về tác động của quan hệ kinh tế Việt - Trung nhằm tạo sự đồng thuận về nhận thức và trách nhiệm của toàn xã hội bằng các biện pháp như đưa vấn đề “tác động của quan hệ kinh tế Việt - Trung đến quốc phòng Việt Nam” thành nội dung trong chương trình giáo dục quốc phòng, trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng ở đơn vị; đẩy mạnh công tác tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng của trung ương và địa phương hướng tới cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác nhằm định hướng nhận thức đúng đắn về quan hệ kinh tế Việt - Trung, về sự tác động của nó, đồng thời đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu của các thế lực lợi dụng quan hệ này để tuyên truyền chống phá.

Đối với những dự án hay hoạt động kinh tế trong quan hệ kinh tế Việt – Trung đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến quốc phòng đòi hỏi chủ thể quốc phòng cần khẩn trương thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc điều chỉnh quốc phòng theo hướng giảm thiểu đến mức thấp nhất hậu quả tác động. Đặc biệt cần khẩn trương điều chỉnh thế trận biên phòng toàn dân, thế trận khu vực phòng thủ ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Trường hợp vượt quá thẩm quyền của các chủ thể, cần tham mưu cho Đảng và Nhà nước có phương sách xử lý kịp thời, tránh để tác động tiêu cực lan rộng dẫn tới hậu quả nghiêm trọng, khó giải quyết hơn.

Quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quan hệ kinh tế Việt – Trung để bảo đảm mọi hoạt động kinh tế của quan hệ kinh tế này đều góp phần củng cố quốc phòng, đồng thời mọi hoạt động quốc phòng không những không cản trở mà còn thúc đẩy quan hệ kinh tế hai nước phát triển. Ở đây, vấn đề mấu chốt đặt ralà cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc có hiệu quả “Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 1059/NQ-UBTVQH-K13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh”.

Sáu là, tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình ổn định, cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế hai nước, tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư Trung Quốc khi đồng vốn bỏ ra không chỉ được bảo toàn mà còn sinh lời, lớn thêm. Quán triệt quan điểm vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đặt lợi ích quốc gia dân tộc, trong đó có lợi ích quốc phòng lên hàng đầu trong quan hệ với Trung Quốc; kiên quyết và kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thúc đẩy giải quyết vấn đề trên biển nhằm tháo gỡ trở ngại lớn nhất trong quan hệ Việt - Trung trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và quy tắc ứng xử của khu vực (DOC); tiếp tục thực hiện chiến lược cân bằng nước lớn để vừa xây dựng môi trường thuận lợi nhằm giữ vững, phát triển quan hệ kinh tế Việt - Trung vừa khai thác tối đa ngoại lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khai thác đặc trưng về địa hình “núi liền núi, sông liền sông” cho mở rộng, nâng cao hiệu quả các hình thức quan hệ kinh tế với Trung Quốc trên cơ sở tính toán cân nhắc thận trọng, kỹ lưỡng, trong đó cần đảm bảo hài hòa cả về yêu cầu chính trị, quan hệ hữu nghị với lợi ích kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh cả trước mắt và lâu dài; chú trọng kết hợp phát triển các hoạt động kinh tế Việt – Trung ở khu vực biên giới với xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh nhằm xây dựng “phên dậu” vững chắc cho đất nước phát triển, đi lên.

Kết luận

Trong phạm vi của một bài báo khoa học, bài viết bước đầu đề cập đến ba nhân tố cơ bản chi phối sự tác động của quan hệ kinh tế Việt - Trung đến quốc phòng, chỉ ra thực trạng sự chi phối của ba nhân tố này trong thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp hướng những nhân tố vào phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của quan hệ kinh tế Việt - Trung đến quốc phòng Việt Nam. Mặc dù những kết quả nghiên cứu trên cho thấy một cách tiếp cận nghiên cứu về sự tác động của quan hệ kinh tế Việt – Trung đến quốc phòng nhưng đây là vấn đề rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót như chưa đánh giá toàn diện hiệu quả của quan hệ kinh tế Việt - Trung, chưa chỉ ra đầy đủ những tác động tiêu cực của quan hệ kinh tế Việt - Trung đến quốc phòng và mới đề cập đến một số giải pháp chủ yếu. Vì vậy, để kết quả nghiên cứu được hoàn thiện, có giá trị khoa học hơn, yêu cầu đặt ra cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu chủ đề bài viết với sự phong phú về số liệu thực tế cùng sự kết hợp đa dạng, hiệu quả các phương pháp nghiên cứu khoa học./.

PGS, TS Nguyễn Trọng Xuân & ThS Bùi Đức Anh, hệ Sau đại học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc Phòng. Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Học viện Ngoại giao, Số 1 (108), tháng 3/2017.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Đinh Trọng Thịnh (2014), “Tích cực, chủ động điều chỉnh quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc”, Tạp chí Tài chính Quân đội, Số 5 (222).

2.  Hạ Thị Hồng Vân (2016), Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến năm 2020, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

3.  Nguyễn Đình Liêm (2012), Nghiên cứu, đánh giá đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4.  Phương Nguyễn (2016), “Nhìn lại quan hệ Việt Trung năm 2015 và dự báo năm 2016”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 3 (175).

5.  Trần Thu Hường (2015), “Phát triển thương mại và du lịch vùng biên giới: Những vấn đề còn đặt ra”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc về an ninh, quốc phòng và phòng tuyến hợp tác cạnh tranh kinh tế quốc tế – Từ thực tiễn Quảng Ninh”, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản – Tỉnh ủy Quảng Ninh – Bộ Khoa học và Công nghệ, Quảng Ninh.

6.  Nguyễn Bá Lan, Chúc Bá Tuyên (2015), “Quan hệ Việt - Trung 65 năm: Thành quả và Triển vọng”, Tạp chí Quan hệ quốc phòng, Số quý II, 2015.

7.  Nguyễn Quang Thuấn và Mazyrin V.M (2016), Con đường củng cố an ninh và hợp tác ở Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

8.  Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9.  Nguyễn Thường Lạng(2016), “Điều chỉnh chính sách kinh tế của Trung Quốc năm 2016 và tác động tới Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 4 (176).



[1] Đinh Trọng Thịnh (2014), “Tích cực, chủ động điều chỉnh quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc”, Tạp chí Tài chính Quân đội, số 5(222), tr.10.

[2] Nguyễn Đình Liêm (2012), Nghiên cứu, đánh giá đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.12.

[3] Phương Nguyễn (2016), “Nhìn lại quan hệ Việt Trung năm 2015 và dự báo năm 2016”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3 (175), tr. 32.

[4] Trần Thu Hường (2015), “Phát triển thương mại và du lịch vùng biên giới: Những vấn đề còn đặt ra”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc về an ninh, quốc phòng và phòng tuyến hợp tác cạnh tranh kinh tế quốc tế – Từ thực tiễn Quảng Ninh”, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản – Tỉnh ủy Quảng Ninh – Bộ Khoa học và Công nghệ, Quảng Ninh, tr. 427.

[5] Nguyễn Bá Lan, Chúc Bá Tuyên (2015), “Quan hệ Việt - Trung 65 năm: Thành quả và triển vọng”, Tạp chí Quan hệ quốc phòng, Số quý II, 2015, tr. 20.

[6] Phương Nguyễn (2016), “Nhìn lại quan hệ Việt Trung năm 2015 và dự báo năm 2016”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 3 (175), tr. 31.

[7] Nguyễn Quang Thuấn và Mazyrin V.M (2016), Con đường củng cố an ninh và hợp tác ở Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.444.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.155.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.312.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.57.

[11] Nguyễn Thường Lạng (2016), “Điều chỉnh chính sách kinh tế của Trung Quốc năm 2016 và tác động tới Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (176), tr.13 và 15.