Chúng ta biết rằng Donald Trump đang quay trở lại với chủ nghĩa song phương, nếu không muốn nói là chủ nghĩa đơn phương, trong các mối quan hệ quốc tế; nhưng nhìn nhận một cách hệ thống, Tổng thống Mỹ đang làm đảo lộn một cách nguy hiểm nền kinh tế thế giới vốn đã rất mỏng manh do tình trạng nợ nần, chiến tranh thương mại và tiền tệ. Ông Trump chứng tỏ bằng hành động rằng sức mạnh nền kinh tế phải đi đôi với chủ quyền quốc gia và khôi phục vị thế dẫn đầu về chính trị cho điều tốt nhất và… cả điều tồi tệ nhất.

Ngày nay, xuất hiện những dấu hiệu về một sự lung lay nghiêm trọng, với hiệu ứng domino, ở các nước mới nổi. Đầu tiên phải kể đến trường hợp Thổ Nhĩ Kỳ, nguyên nhân chính là sự phụ thuộc vào các nguồn vốn nước ngoài tính bằng đồng USD, cũng như phần lớn các nước đang trong tình trạng khó khăn khi không thu đủ số USD này để giải quyết các món nợ.

Đồng Lira (TRY) của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục bị sụt giảm 6,3%, ở mức 6,86 TRY/USD vào trung tuần tháng 8/2018. Đồng USD đã nhanh chóng chạm mức cao kỷ lục ở mức 7,61 TRY. Quỹ Kapstream đánh giá rằng một sự gia tăng với biên độ rộng của tỷ giá hối đoái từ 5 đến 10% là cần thiết để hi vọng lật ngược tình thế. Vấn đề của Thổ Nhĩ Kỳ có chút giống với trường hợp của châu Âu: muốn tránh rủi ro tài chính và tiền tệ gây ra bởi cuộc khủng hoảng ngân hàng. Theo Ngân hàng Goldman Sachs, sự sụt giảm của đồng Lira ở mức 7,1 TRY/USD là mối đe dọa cho tính ổn định của hệ thống ngân hàng địa phương. Trên thị trường chứng khoán Istanbul, khu vực ngân hàng đã mất gần 10%. Trong những điều kiện này, việc đầu cơ quốc tế là nguyên nhân khiến đồng Lira giảm: ở London, thị trường số 1 thế giới về hoạt động trao đổi tỷ giá, trung bình mỗi ngày xử lý 56,2 tỷ USD về cặp tỷ giá USD/TRY trong tháng 4/2018 (gần bằng với cặp USD/CNY - đồng nhân dân tệ của Trung Quốc, ở mức 62 tỷ USD). Phản ứng yếu ớt của Chính quyền Erdogan cho thấy sự bất lực khi quyết định tiến hành điều tra đối với những chủ thể “đe dọa an ninh kinh tế của đất nước” và phát tán những tin đồn thất thiệt về ngân hàng và các công ty lớn của Thổ Nhĩ Kỳ với án phạt lên đến 5 năm tù. Trên các hệ thống mạng xã hội, gần 350 tài khoản nằm trong tầm kiểm soát của giới cầm quyền Thổ Nhĩ Kỳ, vốn buộc tội những chủ thể nói trên đã cố tình gây ra sự sụt giảm của đồng Lira.

Tất cả các thị trường mới nổi đều phải chịu áp lực ngay sau Thổ Nhĩ Kỳ. Nhất là đồng Rand (ZAR) của Nam Phi và đồng Rupi (IDR) của Indonesia. Một hiệu ứng domino đang diễn ra và bắt đầu lây nhiễm sang các đồng tiền của các nước được đánh giá là mỏng manh, vì phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. Đồng ZAR là một minh họa nổi bật khi phải chịu sự mất giá tồi tệ nhất kể từ năm 2008, thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng tín dụng. Những đồng tiền khác cũng chịu áp lực, đồng IDR giảm xuống gần với mức giá thấp nhất trong lịch sử năm 1998 sau cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á. Vì thế Ngân hàng trung ương Indonesia đã phải can thiệp trở lại để bảo vệ đồng tiền của họ. Từ đó, việc đồng USD tăng giá ít được diễn giải bởi thành quả của nền kinh tế Mỹ hơn do ảnh hưởng của dòng tiền “trú ẩn” mà nó hưởng lợi. Đồng Ruble của Nga, đồng Peso của Argentina, đồng Real của Brazil và đồng Peso của Mexico cũng đồng loạt giảm từ 4 đến 6 % giữa mùa hè vừa qua. Thật vậy, các nhà đầu tư lo ngại về những hậu quả việc đồng USD tăng giá sẽ làm đội chi phí của các khoản nợ bằng USD. Vì đồng USD luôn tồn tại và nó là “đồng tiền của chúng tôi và là vấn đề của các bạn”, theo phát ngôn của John Connolly, Bộ trưởng Tài chính dưới thời Nixon năm 1971. Ông Trump tuyên bố đấu tranh chống một đồng USD mạnh, nhưng có những cơ chế chống lại những điều mà không ai có thể làm gì được.

Châu Âu không phải là ngoại lệ, các cổ phiếu ngân hàng phải chịu nhiều áp lực. JP Morgan nhắc lại rằng “các mối liên kết tài chính và thương mại của Thổ Nhĩ Kỳ với châu Âu mạnh mẽ hơn nhiều so với những nền kinh tế mới nổi khác”. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đặc biệt lo ngại cho UniCredit và BNP Paribas vốn đầu tư rất nhiều vào nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ. Một chỉ dấu chính xác: Thị trường Credit defauts swap (Hợp đồng hoán đổi nợ xấu - ND), sản phẩm phái sinh xuất sắc dùng làm bảo hiểm chống những rủi ro trên thị trường cơ sở, được nhắm tới. Trong cùng thời gian, FED có thể sẽ nâng lãi suất, điều này thông thường sẽ gây những hệ quả xấu đối với tài sản của những nước mới nổi. Nếu Thổ Nhĩ Kỳ không thể xử lý tình trạng mất giá của đồng nội tệ, nền kinh tế của họ sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng và thu nhập của 83 triệu dân nước này sẽ sụt giảm thê thảm. Thủ tướng Erdogan cũng có phần trách nhiệm trong cuộc khủng hoảng này: đầu tiên bởi việc chi tiêu ngân sách bừa bãi của ông cho bầu cử (tài trợ cho những lá phiếu ở miền Đông Thổ Nhĩ Kỳ của những cử tri nghèo nhưng bầu cho đảng Công lý và Phát triển - AKP), và nhất là tự ban cho mình những quyền lực gần như là độc tài kể từ sau vụ đảo chính bất thành năm 2016. Những quyết định này theo đó đã khiến các chủ nợ của đất nước lo sợ. Tất cả đều có thể mất mát trong cuộc khủng hoảng này. Trong khi đó, châu Âu với vai trò là nhà cung cấp và khách hàng, song cũng là nơi tiếp nhận người di cư bất chấp những thỏa thuận với Ankara về vấn đề nhập cư. Tiếp đó, Mỹ, đồng minh của Thổ Nhĩ Kỳ trong NATO, đã không còn bận tâm nhiều đến nước này, tạo điều kiện cho Tổng thống Nga Putin tiếp cận và ve vãn giấc mơ mà nước này tìm kiếm. Hơn nữa, Chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ tạo ra một cơ hội mới cho cuộc tranh cãi với Mỹ về số phận của mục sư Andrew Brunson bị buộc tội hoạt động “đe dọa an ninh quốc gia” và bị giam trong một trung tâm chống khủng bố. Tóm lại, thế giới đa cực này ngày càng có nhiều xung đột liên quan tới nhiều bên, lĩnh vực tài chính và kinh tế cũng bị cuốn vào trong đó.

Trump: Trung Quốc đang lo lắng

Như chúng ta đã biết, Donald Trump đã tuyên bố một “cuộc chiến thương mại” với toàn thế giới. Hậu quả là lạm phát nhập khẩu tại Mỹ tăng lên vì thuế hải quan làm tăng chi phí: ước tính lên đến 100 tỷ USD đối với người tiêu dùng Mỹ. Nhưng hiện tại, ngay cả khi những sản phẩm nhập khẩu bị đánh thuế, người Mỹ vẫn chưa cảm nhận được điều đó vì sức mua của đồng USD ở nước ngoài cũng tăng lên. Thị trường chứng khoán tăng; điều này chắc chắn mang lại lợi ích cho Trump, người tự cho mình là một thiên tài kinh tế, đã nhanh chóng quên đi rằng những hàng xuất khẩu tiếp tục bị trừng phạt bởi việc tăng giá của đồng USD bất chấp những cam kết của Trump. Tất cả điều đó được Tổng thống Trump dùng như là lý lẽ phòng vệ trước những khiếu nại vây quanh: “Tôi hay là sự hỗn loạn”.


Về truyền thống, Mỹ dựa vào Trung Quốc, nguồn hàng giá rẻ liên tục và dồi dào cho phép dân Mỹ kiếm sống. Người Mỹ cũng dựa vào Trung Quốc để mua những trái phiếu chính phủ dùng để cấp vốn cho những khoản thâm hụt ngân sách đang nới rộng theo thời gian. Thế nhưng, về mặt hải quan, phải biết rằng mức thuế trung bình của Trung Quốc chỉ là 3,5%. Con số này đã giảm so với 32% năm 1992. Những biện pháp đối phó của Trung Quốc sẽ khiến các nhà sản xuất Mỹ thêm chi phí, ví dụ như những nông dân xuất khẩu mỗi năm sang Trung Quốc khoảng 13 tỷ USD đậu nành. Tổng quan mà nói, Trung Quốc bán nhiều hơn là mua từ Mỹ; vì vậy họ mất nhiều hơn trong cuộc chiến này. Tuy nhiên vì nước này cũng là khách hàng mua nhiều nguyên liệu thô nhất của thế giới, nên rủi ro này được chia sẻ bởi tất cả các đối tác thương mại của Trung Quốc, trong đó có Mỹ. Nói cách khác, nếu Trung Quốc phải rơi vào một cơn suy thoái, Mỹ sẽ sớm theo sau.

Mặt khác, vấn đề đặt ra là nợ công Mỹ. Trung Quốc nắm giữ hơn 1.100 tỷ USD trái phiếu Mỹ, chiếm 37% dự trữ ngoại hối, đã bán ròng cổ phiếu Mỹ vào mùa Xuân. Tín hiệu này không tốt. Dường như một sự giận dữ với chủ nợ chính của họ không phải là một điều tốt cho nước Mỹ, khi mà khoản nợ của họ thường được sử dụng như một thứ vũ khí, thậm chí còn nhiều hơn hàng rào thuế quan.

Về phần mình, Nga đã bán 20,4 tỷ USD trái phiếu, điều chưa từng thấy. Lời giải thích khả năng được tìm thấy trong sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương Nga trên thị trường ngoại hối, để bảo vệ đồng Ruble (theo Morgan Stanley).

Tuy nhiên, Trung Quốc, nền kinh tế số 2 thế giới, dường như thể hiện một vài dấu hiệu suy yếu. Sản xuất công nghiệp ở nước này cũng như sự tăng trưởng của đầu tư thấp hơn mức dự báo trong tháng 7/2018. Các khoản đầu tư bằng nguồn vốn cố định, đong đếm những khoản chi cho cơ sở hạ tầng, cho thấy sự khó khăn thực sự chưa từng được biết đến ở Trung Quốc kể từ gần 20 năm qua. Hơn nữa, những nỗ lực của chính phủ nhằm kiềm chế gánh nặng nợ khổng lồ của Trung Quốc, đã phần nào tác động lên hoạt động kinh tế.

Nhất là những chỉ dấu minh chứng cho tính mong manh mới trong nhu cầu nội địa Trung Quốc sau cuộc chiến thương mại với Mỹ và trong khi thuế quan liên quan đến 333 sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc đang tích cực làm việc để đưa đồng tiền của mình vào thị trường ngoại hối; và Trung Quốc rất muốn tận dụng những lợi ích từ việc phá vỡ những thỏa thuận với Tehran khi châu Âu một lần nữa lại ngủ quên trong vấn đề hạt nhân Iran: dầu lửa của nước này có thể cung ứng cho toàn bộ thị trường châu Á. Giờ đây, để đi đến Tehran thì cần phải thanh toán bằng đồng CNY cho Iran Air. Tất cả chỉ là biểu tượng!

Chủ nghĩa đế quốc mới ở Mỹ hay tiếng hót vĩnh biệt của thiên nga?

Ngân sách quốc phòng Mỹ sẽ tăng hơn 7% vào năm 2019. Ngân sách mới dự báo những chi tiêu toàn cầu lên tới 716 tỷ USD (627 tỷ euro). Con số này tăng 50 tỷ USD so với năm 2018. Trong số 716 tỷ USD này, 69 tỷ sẽ được dành cho những chiến dịch bên ngoài. Tổng thống Mỹ Trump nói: “Sự tồn tại và tự do của chúng ta phụ thuộc vào sức mạnh của quân đội Mỹ”… Nghịch lý là nỗ lực quốc phòng này củng cố cho nền tảng của nước Mỹ, song lại là kẻ thù của Trump. Vì thực tế đó là sự sống còn của đồng USD, nếu người ta muốn nhắc lại rằng một khu vực tiền tệ tối ưu cũng ẩn chứa sức mạnh quân sự.

Đối với việc thu hẹp bảng cân đối tài chính của FED, thực hiện thời gian gần đây, các chuyên gia đánh giá rằng việc thắt chặt định lượng này sẽ có những hậu quả mà ngày nay chúng đang bị đánh giá thấp, ngay cả khi chính sách này bị hủy bỏ. Tăng lãi suất trong một thế giới nợ nần sẽ gây lạm phát và việc mất lòng tin nghiêm trọng vào các ngân hàng trung ương.

Hiện nay, trên bình diện trong nước, nếu so với châu Âu và Pháp dưới thời Macron, các kết quả của Mỹ đạt được tốt hơn, với tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4% bất chấp việc toàn bộ 51 triệu gia đình Mỹ đang trong tình trạng khó khăn (43% có mức sống thấp hơn tầng lớp trung lưu; 16 triệu hộ gia đình nghèo, gần 50% người Mỹ gặp khó khăn về tài chính). Người ta nhận ra rằng ở Mỹ, nhiều hệ quả của quá trình toàn cầu hóa đã kéo theo tình trạng đình trệ về lương tiền từ 1/4 thế kỉ nay trong những nước phát triển. Trong khi đó, những điểm sáng chính yếu trong tăng trưởng lại dựa vào 1% dân số! Và cũng trong thời gian này, nợ công liên bang đã đạt tới hơn 100% GDP. Ai sẽ muốn mua số nợ này khi đến hạn? Vì chúng ta đã thấy rằng những khoản lãi duy nhất của số nợ này chiếm gần 3% GDP. Tóm lại, tình hình cũng không sáng chói như viễn cảnh mà Donald Trump hình dung. Từ nay về sau, tất cả sẽ phụ thuộc vào khả năng của Tổng thống Mỹ trong việc gìn giữ đặc quyền bên ngoài lãnh thổ của đồng USD, nghĩa là duy trì sức mạnh của nó như khẩu hiệu của Trump.

Trong khi cuộc đấu tiếp diễn ở bên ngoài, Tổng thống Mỹ Trump cũng phải chiến thắng trong cuộc chiến lâu dài ở trong nước, nơi mà mọi “cú đánh” được cho phép. Ông Trump liệu có thể thúc ép cỗ máy nước Mỹ mà nó chắc chắn không phải là bạn của ông, để thực thi những chính sách của riêng mình, đôi khi, trái ngược hoàn toàn với các lợi ích quốc gia của Mỹ, của người dân Mỹ và các thể chế truyền thống của nước này… Đây được xem là nhiệm vụ của dũng sĩ Hercules.

Theo Politique Magazine (Pháp)

Hương Lan (gt)