17/12/2015
Những đánh giá và khuyến nghị dưới đây từ chuyên gia của Cơ quan Giám sát Dịch vụ Tài chính Indonesia cho tiến trình hội nhập của Indonesia có thể sẽ có ích cho Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương và Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã được thành lập.
15 năm trước đây, thuật ngữ "toàn cầu hóa" có lẽ là từ thông dụng nhất được đề cập tại hầu hết các lớp học, thậm chí cả các chiến dịch tranh cử . Ý tưởng về một sân chơi thống nhất về thương mại - kinh tế là một giấc mơ đã và đang trở thành sự thật đối với các quốc gia lớn. Đó là cơ hội kinh tế tốt nhất cho các nước lớn trong khu vực, còn đối với các nước có nền kinh tế yếu kém hơn, “toàn cầu hóa” có thể sẽ gây cảm giác khó chịu đầy bất lực. 15 năm trước đây, sự sợ hãi này có lẽ được cho là cần thiết để bảo vệ nền kinh tế mới phục hồi sau khủng hoảng. Đó cũng là sự thật đối với hầu hết các nước láng giềng của quốc gia “vạn đảo”, với chủ nghĩa dân tộc đã trực tiếp hay gián tiếp chống lại ý tưởng “toàn cầu hóa” do những “gã khổng lồ” phương Tây khởi xướng. Tuy nhiên, hiện các nước láng giềng của Indonesia lại cùng trương lên biểu ngữ "hội nhập" - một phiên bản nhỏ hơn và được cho là phiên bản trước của “toàn cầu hóa”.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) có sự tham gia của các nước thành viên có "tư duy toàn cầu" và "phát triển thịnh vượng trong khu vực". Sáng kiến này cùng với vô số sáng kiến nhỏ kèm theo được đề ra với mục đích biến Đông Nam Á thành một trung tâm kinh tế mạnh, phát triển thịnh vượng và sẽ tỏa sáng trên trường thế giới. Về lý thuyết, mục tiêu này hoàn toàn có ý nghĩa thiết thực khi mà khu vực Đông Nam Á có đầy đủ điều kiện cần thiết để trở thành một thế lực lớn trên thế giới. Đông Nam Á là một trung tâm thương mại phát triển, sở hữu lượng dầu mỏ và khoáng sản lớn , có các trung tâm sản xuất công nghiệp thực sự chưa kể đến khu vực này đang có dân số vàng mà nhiều nước phát triển đang khao khát. Một khu vực Đông Nam Á hội nhập sẽ trở thành một thế lực đáng gờm.
Tuy nhiên, sự hội nhập này thực sự không khác gì một sự toàn cầu hóa ở một quy mô nhỏ hơn, điều này khiến nguy cơ cạnh tranh giữa các quốc gia sẽ vẫn tồn tại. Một quốc gia tiến bộ với nền kinh tế hiệu quả hơn sẽ tận dụng và khai thác lợi thế về nguồn lực của quốc gia láng giềng kém phát triển hơn. Thật không may cho Indonesia, quốc đảo nghiêng nhiều hơn về vế sau của câu chuyện, chẳng hạn như trên thị trường vốn. Indonesia hiện có thể trở thành nước có nhiều nhà đầu tư ra nước ngoài nhất khi chứng kiến dòng vốn ồ ạt chảy ra ngoài, tìm đến các nhà quản lý tài chính tốt và có thương hiệu hơn ở Malaysia và Singapore.
Dưới góc độ của nhà đầu tư, xu hướng này không phải hoàn toàn xấu. Hội nhập khu vực là cần thiết cho ASEAN để cạnh tranh trên toàn cầu, nhưng cần lưu ý rằng hội nhập khu vực có thể khiến một số ngành công nghiệp trong nước trở thành “cây cảnh”. Sự thay đổi quan điểm là cần thiết, không nên tiếp tục tránh né và trì hoãn, mà phải tham gia vào quá trình này và phải có tiếng nói trong việc định hình cấu trúc hội nhập. Chính phủ, các nhà quản lý thị trường và các ngành công nghiệp nhận ra rằng ưu tiên hiện nay là xác định các điều kiện tiên quyết để tham gia bất kỳ nỗ lực hội nhập nào.
Tuy nhiên, trong quá khứ , Indonesia đã luôn đòi hỏi các điều kiện tiên quyết rất cao như một công cụ bảo hộ và tấm khiên che chắn trước hội nhập. Indonesia phải xây dựng ngành công nghiệp trong nước với các mục tiêu phát triển thực tế để hưởng lợi từ hội nhập. Xác định và đáp ứng được các điều kiện này không phải là nhiệm vụ đơn giản, trước hết Indonesia cần phải phân tích thấu đáo các điều kiện hiện tại của khu vực, nơi đang chứng kiến sự bất lợi trong việc phải thay đổi chỉ trong một vài năm để thích nghi với sự cạnh tranh quá lớn. Sau đó, Indonesia cần phải xác định được các lĩnh vực chiến lược phù hợp để tập trung nỗ lực giành lợi thế trong những lĩnh vực đó. Với nhận thức cần phải tiến hành quá trình hội nhập thành công, Indonesia cần phải chấp nhận những điểm yếu khi hội nhập và phát huy những điểm mạnh của mình .
Yosua Nainggolan , chuyên gia của Cơ quan Giám sát Dịch vụ Tài chính Indonesia (OJK). Bài viết được đăng trên Jakarta Globe.
Trần Quang (gt)
Trong cuộc khủng hoảng do đại dịch gây ra, và trong thời kỳ suy thoái kinh tế kéo dài vốn sẽ tác động đến nền kinh tế của cả hai nước, Trung Quốc và Ấn Độ cần hợp tác chặt chẽ hơn thay vì dựng lên những rào cản mới đối với can dự kinh tế.
Các ngân hàng trung ương đã thực hiện các biện pháp chính sách tiền tệ sâu rộng để bù đắp cho những tổn thất mà cuộc khủng hoảng dịch COVID-19 đã gây ra. Câu hỏi đặt ra là liệu các biện pháp này có mang lại hiệu quả, trấn an thị trường và hỗ trợ nền kinh tế thực sự như mong muốn hay không.
Đại dịch COVID-19 và một cuộc chiến về giá đã đẩy các thị trường năng lượng thế giới rơi vào khủng hoảng. Trong lịch sử, thị trường dầu mỏ toàn cầu chưa bao giờ sụp đổ đột ngột như hiện nay.
Bộ phận dự báo, phân tích và tư vấn rủi ro (EIU) thuộc tập đoàn The Economist (Anh) nhận định rằng nền kinh tế toàn cầu năm 2020 có thể sẽ tiếp tục gặp nhiều thách thức bởi tác động từ tình trạng bất ổn địa chính trị cùng với sự bùng phát đại dịch toàn cầu COVID-19.
Dự án Hành lang Kinh tế phía Đông (EEC) được phát triển dựa trên khu vực theo mô hình kinh tế Thái Lan 4.0, là một dự án đầy tham vọng của Chính phủ Thái Lan nhằm tái cấu trúc và khôi phục nền kinh tế vốn mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình.
Sau 30 năm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, Việt Nam đã bước vào thời kỳ phát triển tốt nhất trong lịch sử với triển vọng tương lai tươi sáng và lộ trình phát triển rõ ràng. Tuy nhiên, không nên cho rằng Việt Nam có thể thách thức chuỗi sản xuất công nghiệp Trung Quốc cũng như đặt hai nước ở...