india-defence-policy-must-focus-on-asia-pacific(1).jpg 

Tổng quan

Các lực lượng vũ trang Ấn Độ đã ngưỡng mộ cách mà các lực lượng quốc phòng Việt Nam lần đầu tiên đánh bại quân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 và sau đó là chiến thắng sức mạnh của các lực lượng Mỹ vào năm 1975. Tuy nhiên, sự thất bại của quân đội Trung Quốc dưới tay quân đội Việt Nam vào năm 1979 mới phản ánh sự gan góc và quyết tâm thực sự của quốc gia Việt Nam; thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc đã nhận được một bài học. Ấn Độ ủng hộ Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân của nước này cũng như trong những nỗ lực của Việt Nam chống lại sự can thiệp của các cường quốc nước ngoài và sự thống nhất của Việt Nam.

Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1972, Ấn Độ và Việt Nam đã và đang tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh theo nhiều cách. Những động lực chiến lược và an ninh ngày càng tăng ở khu vực châu Á vốn bị tác động bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc và các chính sách quyết đoán và sử dụng vũ lực của nước này đã tạo ra một mức độ bất ổn trong khu vực. Những nước châu Á chịu ảnh hưởng đang tìm kiếm các biện pháp mới nhằm ứng phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cái gọi là “những lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc đã và đang mở rộng cùng với sức mạnh kinh tế và quân sự của nước này. Các yêu sách chủ quyền biển vô lý ở Biển Đông và các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của nước này chống lại Ấn Độ đôi khi đã dẫn đến các vụ xung đột. Do vậy, việc Việt Nam và Ấn Độ có một quan điểm chiến lược chung dẫn đến việc tạo dựng các mối quan hệ chiến lược mạnh mẽ hơn giữa hai nước chỉ là điều tự nhiên.

Ấn Độ và Việt Nam không chỉ đã và đang hợp tác song phương mà cả hai nước cũng có hồ sơ hợp tác mạnh mẽ tại các diễn đàn đa phương như ASEAN, Diễn đàn Khu vực châu Á (ARF), Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), Liên hợp quốc (UN), Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) bên cạnh nhiều cơ chế hợp tác đa phương khác, cũng như trong các sáng kiến tiểu khu vực như Sáng kiến hợp tác sông Mekong- sông Hằng. Việt Nam là một trong những nước quan trọng nhất ủng hộ chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ, chính sách gần đây đã được biến đổi thành “Chính sách hành động phương Đông” của chính quyền Thủ tướng Modi đương nhiệm. Là một thành viên quan trọng của ASEAN và EAS, Việt Nam và Ấn Độ đã phối hợp cách tiếp cận chiến lược của họ đối với vấn đề an ninh và các vấn đề khác ở khu vực trong một loạt khuôn khổ.

Môi trường an ninh và chiến lược ở châu Á đang trong tình trạng thay đổi liên tục và đã làm bộc lộ những thách thức đối với sự phát triển mạnh mẽ và sôi nổi trong các nền kinh tế khu vực, kể cả Ấn Độ và Việt Nam. Mục tiêu chính của hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam là duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy phát triển trong khu vực và thế giới nói chung. Có thể nói Việt Nam và Ấn Độ là các nước láng giềng trên biển và có nhiều thách thức an ninh chung.
Về mặt địa chiến lược, Ấn Độ và Việt Nam phụ thuộc nhiều vào biển liên quan đến sự sống còn về kinh tế của họ. Vị trí địa lý đem lại cho hai nước trách nhiệm bảo vệ các tuyến vận tải đường thủy quốc tế ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, bao gồm cả Biển Đông. Tháng 2/2004, Ngoại trưởng Ấn Độ khi đó là Yashwant Sinha đã tính đến cả Biển Đông vào vùng lân cận mở rộng của Ấn Độ. Chiến lược Quân sự trên biển năm 2007 của Ấn Độ đã mô tả Biển Đông là một khu vực có lợi ích chiến lược đối với Ấn Độ. New Delhi là một bên liên quan trong diễn biến an ninh ngày càng tăng ở biển Hoa Đông/Biển Đông và do đó đòi hỏi Ấn Độ và Việt Nam phải xây dựng các mối quan hệ ở các cấp chính trị và an ninh.

Sự hội tụ chiến lược

Kể từ sau khi chính phủ hiện tại lên nắm quyền, đã có sự gia tăng tốc độ can dự giữa hai bên mà cũng cho thấy ở một mức độ nào đó những mối quan ngại của cả hai phía liên quan đến tình hình ở Biển Đông. Năm 2014, Tổng thống Pranab Mukherjee đã tới thăm Việt Nam hồi tháng 9 chỉ ngay trước chuyến thăm Ấn Độ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Bảy thỏa thuận được ký kết với người đồng cấp Việt Nam Trương Tấn Sang phần lớn tập trung vào việc đưa mối quan hệ đối tác chiến lược đi vào chiều sâu; các thỏa thuận bao trùm chẳng hạn hợp tác chính trị, quốc phòng và an ninh, hợp tác kinh tế, khoa học và công nghệ, văn hóa và các mối liên hệ giữa con người với con người, hợp tác kỹ thuật, hợp tác đa phương và khu vực. Cả hai nhà lãnh đạo đều nhất trí rằng hợp tác quốc phòng và an ninh là một trụ cột quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.

Cơ cấu thể chế cho việc tăng cường quan hệ đối tác bao gồm cuộc họp của Ủy ban hỗn hợp cấp Bộ trưởng ngoại giao, Tham vấn ngoại giao và Đối thoại chiến lược cấp bộ trưởng, Đối thoại an ninh và Đối thoại quốc phòng hàng năm cấp bộ trưởng và các cơ chế đối thoại khác giữa hai nước.
Trước đó, Smt. Sushma Swaraj, Ngoại trưởng Ấn Độ đã tới thăm Việt Nam hồi tháng 8/2014; sau đó vào tháng 10/2014, Thủ tướng Việt Nam đã tới Ấn Độ nhằm thắt chặt hợp tác chiến lược. Swaraj đã nhận xét trong khi phát biểu tại Việt Nam rằng đã đến lúc thay thế “chính sách hướng Đông” của Ấn Độ, chính sách nhằm kết nối Đông Bắc Ấn Độ với Đông Nam Á, bằng “Chính sách hành động phương Đông”. Hơn nữa, ngay trước chuyến thăm của Sushma Swaraj, Việt Nam đã tiếp tục cho Ấn Độ thuê hai lô dầu khí ở Biển Đông, rõ ràng là một động thái không được Trung Quốc ưa thích. Bà cũng đề cập đến việc các đại diện của Ấn Độ ở Đông Nam Á phối hợp đường hướng chính sách an ninh và đối ngoại của Ấn Độ trong khu vực có ý nghĩa sống còn về chiến lược này.

Trong bất kỳ trường hợp nào, chủ đề cơ bản của tất cả những trao đổi này là nhằm định rõ cách tiếp cận chung của họ ở Biển Đông ngoài những vấn đề an ninh khu vực khác. Ấn Độ đã và đang ủng hộ quyền tự do hàng hải ở biển Hoa Đông/Biển Đông tại nhiều diễn đàn đa phương khác nhau. Ấn Độ đã kêu gọi các bên có liên quan hành xử kiềm chế, tránh đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực và giải quyết các tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình phù hợp với những nguyên tắc của luật pháp quốc tế được công nhận rộng khắp, bao gồm cả UNCLOS năm 1982. Ấn Độ cũng đã ủng hộ cam kết tập thể của các bên có liên quan tuân thủ và thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và hợp tác hướng tới việc thông qua Bộ quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông trên cơ sở đồng thuận. Việt Nam và Ấn Độ cũng ủng hộ hợp tác nhằm đảm bảo an ninh của các tuyến đường biển, an ninh hàng hải, chống cướp biển và thực hiện các hoạt động tìm kiếm và cứu nạn.

Các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông bao gồm việc xây dựng các đảo nhân tạo vi phạm nhiều trong số các nguyên tắc và công ước được tuyên bố ở trên. Cũng cần phải lưu ý rằng khi tàu chiến Airavat của Ấn Độ bị Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc thách thức vào tháng 9/2012 trên hành trình từ Việt Nam, điều đó củng cố sự cần thiết để Ấn Độ tăng cường hợp tác trên biển và khả năng phối hợp tác chiến với Việt Nam. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu khổng lồ Hải Dương-981 vào tháng 5/2014 bên trong EEZ của Việt Nam, thực tế là trên thềm lục địa của Việt Nam, là nhất quán với các chính sách quyết đoán và gây hấn mà Trung Quốc đang theo đuổi ở Biển Đông.

Ấn Độ, Việt Nam, phần lớn các nước thành viên ASEAN và cộng đồng quốc tế vẫn quan ngại về tác động bất lợi có thể có do những hành động của Trung Quốc gây ra ở Biển Đông. Hơn 50% lượng dầu mỏ được vận chuyển qua Biển Đông, được cho là gấp 3 lần khối lượng vận tải so với tàu chở dầu đi qua kênh đào Suez. Hơn 5.300 tỷ USD giá trị thương mại hàng năm được thực hiện trên khắp Biển Đông. Do đó quyền tự do hàng hải khắp Biển Đông là một đòi hỏi cấp thiết. Ấn Độ đã nhất quán ủng hộ Việt Nam và các quốc gia ASEAN trong công cuộc của họ tìm kiếm quyền tự do hàng hải trên khắp Biển Đông và việc giải quyết tranh chấp dựa trên các chuẩn mực quốc tế và UNCLOS.

Quốc phòng và an ninh: hợp tác song phương

Khuôn khổ chính thức của hợp tác an ninh quốc phòng Ấn Độ-Việt Nam được dựa trên hợp tác quốc phòng được ký kết bởi Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ khi đó là George Fernandez trong chuyến thăm tới Việt Nam vào năm 2000. Việc đào tạo các phi công của lực lượng Không quân, các cuộc tập trận chung giữa Hải quân và Cảnh sát biển, các cuộc tập trận hải quân và đối thoại thường xuyên cấp Bộ trưởng Quốc phòng được thể chế hóa sau đó. Điều này đã được tăng cường hơn nữa bằng Thỏa thuận đối tác chiến lược năm 2007 mà giờ đây đem lại khuôn khổ cho việc đẩy mạnh hơn nữa hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây và đặc biệt là sau khi chính phủ mới lên nắm quyền ở New Delhi, một động lực mới đã được truyền cho những trao đổi quốc phòng đang diễn ra. Trong khi vào tháng 8/2014, Tổng thống Pranab Mukherjee trong chuyến thăm của ông tới Hà Nội đã nêu bật tầm quan trọng của hợp tác quốc phòng và an ninh với Việt Nam, thì sau đó trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 10/2014, Thủ tướng Ấn Độ Modi đã nhận xét rằng “Hợp tác quốc phòng của chúng tôi với Việt Nam nằm trong số những hợp tác quan trọng nhất. Ấn Độ vẫn cam kết với việc hiện đại hóa các lực lượng quốc phòng và an ninh của Việt Nam. Điều này sẽ bao gồm việc mở rộng chương trình đào tạo của chúng ta, điều vốn rất quan trọng, các cuộc tập trận chung và hợp tác về trang thiết bị quốc phòng”. Ông Modi cũng tuyên bố việc triển khai gói tín dụng 100 triệu USD cho việc mua sắm quốc phòng của Việt Nam. Việt Nam được cho là sẽ tận dụng khoản tín dụng này để mua các phương tiện tuần tra ngoài khơi để do thám và giám sát các khu vực tranh chấp ở Biển Đông và do đó sẽ bổ sung thêm các khả năng cho Cảnh sát biển của nước này.

Một Biên bản ghi nhớ (MOU) cũng đã được ký kết giữa hai nước nhằm thành lập một Trung tâm đào tạo tiếng Anh và công nghệ thông tin Việt Nam-Ấn Độ tại trường Đại học Thông tin liên lạc thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Trung tâm sẽ là nơi thường xuyên dạy tiếng Anh và công nghệ thông tin nhằm nâng cao trình độ thông thạo chung của những người được đào tạo về các kỹ năng này. Trung tâm này sẽ đào tạo và nâng cao kỹ năng cho giáo viên dạy tiếng Anh từ các trường và viện đào tạo thuộc các lực lượng vũ trang và cũng chuẩn bị cho học sinh trước những bài kiểm tra cần thiết để bước vào giáo dục đại học. Trung tâm này sẽ phấn đấu để phát triển thành một Trung tâm Xuất sắc trong khi đó đồng thời hợp tác với các trung tâm đào tạo tiếng Anh và IT khác được thành lập ở Việt Nam với sự hỗ trợ của Chính phủ Ấn Độ.

Theo Thủ tướng Modi, Việt Nam ở tuyến đầu trong những nỗ lực của Ấn Độ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, những nỗ lực mà chính phủ của ông đã tăng cường một cách có chủ ý và ngay lập tức kể từ khi lên nắm quyền. Ban đầu, trong chuyến thăm của ông tới Nhật Bản vào tháng 9/2014 ông đã nói bóng gió tới các chính sách bành trướng của Trung Quốc trong tuyên bố chung, và sau đó trong chuyến thăm Mỹ của mình ông đã kêu gọi “giữ gìn an ninh biển ở Biển Đông”. Tháng 1/2015, Ấn Độ và Mỹ thông qua một Tầm nhìn chung cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương mà trong số những điều khác khẳng định tầm quan trọng của việc gìn giữ an ninh biển và đảm bảo quyền tự do hàng hải và bay qua trên khắp khu vực này, đặc biệt là ở Biển Đông cũng như nhấn mạnh cam kết chung tăng cường sức mạnh cho Hội nghị thượng đỉnh Đông Á và nhằm thúc đẩy đối thoại về những vấn đề an ninh và chính trị then chốt.

Truyền thêm động lực hơn nữa cho mối quan hệ quốc phòng Việt Nam-Ấn Độ ngày một tăng là việc ký kết một Tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng trong 5 năm từ năm 2015 tới năm 2020 trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Đại tướng Phùng Quang Thanh với Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Manohar Parrikar hồi tháng 5/2015. Thỏa thuận này sẽ được gia hạn sau khi đánh giá và giám sát các bước đi được thực hiện trong thời gian đó. Một MOU cũng đã được ký kết giữa Cảnh sát biển Ấn Độ (ICG) và Cảnh sát biển Việt Nam về việc đánh giá cao vai trò của mỗi bên trong các vấn đề an ninh biển.

Cố vấn an ninh quốc gia Ấn Độ, ông Ajit Doval đã ở Việt Nam hồi tháng 4/2015, ở đây ông khẳng định rằng Ấn Độ sẽ làm tất cả những gì có thể để hỗ trợ Việt Nam về quốc phòng và an ninh, đặc biệt là ngành công nghiệp quốc phòng, công nghệ quân sự, tình báo, đào tạo nhân lực, tội phạm mạng và an ninh mạng.

Điều được biết đến nhiều là Ấn Độ đã và đang cung cấp các phụ tùng thay thế cho một số trang thiết bị có xuất xứ từ Nga của Hải quân Việt Nam và cũng cung cấp khóa đào tạo cơ bản về những hoạt động của tàu ngầm. Chẳng hạn, Ấn Độ đã cung cấp phụ tùng thay thế cho tàu chiến lớp Petya và tàu tên lửa lớp OSA-II có xuất xứ từ Nga của Hải quân Việt Nam. Việt Nam đã mua 3 phiên bản hiện đại của tàu ngầm lớp Kilo, tối tân hơn nhiều so với tàu mà Hải quân Ấn Độ đã mua trong 2 thập kỷ trước. Các thủy thủ Việt Nam đang được đào tạo về chiến tranh tàu ngầm hoặc “đào tạo chiến đấu dưới nước” tại Trường tàu ngầm INS Satavahana của Hải quân Ấn Độ ở Visakhapatnam kể từ tháng 10/2013. Chương trình bao gồm đào tạo về học thuyết và chiến thuật trong chiến tranh tàu ngầm. Các tàu của Hải quân Ấn Độ đã thường xuyên thực hiện các chuyến thăm cảng ở Việt Nam và giương cờ để chứng tỏ quyền qua lại và quyền tự do hàng hải trong các vùng biển quốc tế. Cho đến nay, lực lượng Không quân Ấn Độ cũng có liên quan, cũng có những kế hoạch cung cấp khóa đào tạo cho phi công của lực lượng Phòng không Việt Nam để lái máy bay chiến đấu Sukhoi. Việc xây dựng năng lực cho các lực lượng vũ trang Việt Nam nhằm cải thiện môi trường an ninh là một trong những mục tiêu chính phải đạt được.

Nhằm dựa vào và tiếp tục nhịp điệu nhanh chóng của mối quan hệ an ninh và quốc phòng ngày càng tăng, Tư lệnh Marshall của lực lượng Không quân Ấn Độ (IAF), Arup Raha (cũng là Chủ tịch Ủy ban Tham mưu trưởng Ấn Độ) đã có mặt tại Hà Nội vào giữa tháng 9 để thảo luận về hợp tác quân sự với những người đồng cấp Việt Nam. Mặc dù an ninh biển là chủ đề chi phối trong các cơ chế hợp tác Ấn Độ-Việt Nam, nhưng chuyến thăm của Arup Raha phản ánh việc mở rộng nghị trình hợp tác chiến lược.

Khuôn khổ hợp tác rộng lớn trong một loạt các vấn đề an ninh công cộng quốc gia đã diễn ra trong vài năm qua. Đang có những sáng kiến nhằm tăng cường hợp tác trong chiến đấu chống khủng bố, buôn bán ma túy, tội phạm xuyên quốc gia, rửa tiền, các hoạt động phạm tội công nghệ cao và các hoạt động phạm tội khác. Huấn luyện các quan chức Việt Nam về điều tra rửa tiền, tội phạm kinh tế, tội phạm có tổ chức và buôn bán ma túy là những lĩnh vực khác trong các nỗ lực chung.

Việt Nam, Ấn Độ và hợp tác đa phương ASEAN

Việt Nam và Ấn Độ đã và đang phối hợp các cách tiếp cận chính sách an ninh và đối ngoại của họ tại nhiều diễn đàn đa phương khác nhau và đặc biệt là ở ASEAN, ARF và EAS. Với việc Việt Nam được bổ nhiệm làm điều phối viên quan hệ ASEAN-Ấn Độ từ năm 2015 đến năm 2018, sự nổi bật của Ấn Độ trong mối quan hệ đa phương với tổ chức này sẽ tiếp tục tăng lên. Như đã đề cập trước đây, Việt Nam đóng một vai trò then chốt trong chính sách “Hướng Đông” và giờ đây là chính sách “hành động phương Đông” của Ấn Độ.

Tháng 12/2012, Hội nghị thượng đỉnh kỷ niệm 20 năm quan hệ đối thoại ASEAN-Ấn Độ được tổ chức tại New Delhi nhằm đánh dấu 2 thập kỷ đưa ra chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ. Các mối quan hệ thương mại gia tăng tương xứng với việc mở rộng mối quan hệ trong các lĩnh vực quốc phòng và an ninh; sự can dự chủ yếu về chính trị và kinh tế đã đạt được nội dung chiến lược trong những năm gần đây. Ấn Độ và các nước trong khu vực có chung nhiều mối đe dọa và thách thức, đặc biệt là trong các lĩnh vực an ninh không thông thường. Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á đã và đang tăng cường mối quan hệ quốc phòng và an ninh ở cả cấp song phương lẫn đa phương để giải quyết những mối đe dọa như vậy. Hợp tác quốc phòng với các nước thành viên ASEAN chủ yếu hướng tới việc trao đổi các chuyến thăm cấp cao, những đối thoại chiến lược, những chuyến thăm cảng, trao đổi đào tạo, các cuộc tập trận chung và điều khoản về trang thiết bị quốc phòng.

Ở cấp độ đa phương, Nhật Bản cũng đã trở thành thành viên của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng (ADMM+). Mục tiêu cơ bản của việc tạo ra khuôn khổ này là đem lại hợp tác an ninh, đặc biệt là trong các lĩnh vực giúp đỡ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, an ninh hàng hải, chống khủng bố và các hoạt động gìn giữ hòa bình. ADMM+ cũng đề xuất đối thoại song phương và đa phương hơn nữa và chia sẻ chuyên môn giữa các lực lượng quân sự của các nước thành viên. Dàn xếp này cũng thúc đẩy những đề xuất nhằm chống lại các mối đe dọa và các vấn đề cụ thể như cướp biển và thiên tai thông qua các cuộc tập trận quân sự chung. Ấn Độ và Việt Nam đã tham gia các cuộc tập trận quân sự chung như vậy được thực hiện trong khuôn khổ của ADMM+. Cho đến nay, các cuộc tập trận quân sự này đã được thực hiện trong các lĩnh vực giúp đỡ nhân đạo/cứu trợ thảm họa, quân y, chống khủng bố và an ninh hàng hải bên cạnh Nhóm chuyên gia về các hoạt động gìn giữ hòa bình trong khuôn khổ ADMM+.

Một đặc điểm đáng chú ý khác của kịch bản chiến lược đang nổi lên là sự cải thiện rất đáng kể của mối quan hệ Mỹ-Việt trong những năm gần đây. Chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7 vừa qua đã dẫn tới việc thông qua Tuyên bố tầm nhìn chung. Mỹ đã nhất trí hợp tác hạt nhân dân sự và nới lỏng giới hạn của Mỹ về bán vũ khí và tăng cường hợp tác trong các vấn đề khu vực và đa phương. Đầu tháng 6/2015, Tuyên bố tầm nhìn chung về Quan hệ quốc phòng được ký kết, bao gồm các lĩnh vực hợp tác quốc phòng như an ninh hàng hải, tìm kiếm và cứu nạn, giúp đỡ nhân đạo và cứu trợ thảm họa và gìn giữ hòa bình. Là bước đi đầu tiên, Mỹ đã nhất trí cung cấp cho Hà Nội 18 triệu USD để mua sắm các tàu tuần tra cho Cảnh sát biển nhằm tăng cường an ninh hàng hải của nước này. Hợp tác về quốc phòng và an ninh có khả năng sẽ được nâng cấp hơn nữa với việc dỡ bỏ cấm vận về xuất khẩu vũ khí sát thương.

Trong khi đó, Mỹ ngày càng ra mặt lên án cách tiếp cận của Trung Quốc đối với vấn đề gây nhiều tranh cãi ở Biển Đông. Trong Đối thoại Shangri La được tổ chức vào cuối tháng 5, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Ashton Carter, đã nhấn mạnh rằng “Mỹ quan ngại sâu sắc về tốc độ và phạm vi của hoạt động cải tạo đất ở Biển Đông, viễn cảnh về quân sự hóa hơn nữa, cũng như tiềm năng của những hoạt động này sẽ làm gia tăng rủi ro của việc tính toán sai lầm hoặc xung đột giữa các bên tuyên bố chủ quyền”.

Tương tự, đã có sự phát triển lớn trong mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Nhật Bản. Tokyo đã cung cấp các tàu tuần tra nhằm nâng cao năng lực của Việt Nam về an ninh hàng hải. Các chính sách an ninh của nước này ở Biển Đông phù hợp với chính sách an ninh của Mỹ và Việt Nam. Kể từ khi Thủ tướng Shinzo Abe quay trở lại nắm quyền, ông đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược thành Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

Con đường phía trước/Những nhận xét kết luận

Ấn Độ, Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đã ở trong quỹ đạo kinh tế đi lên và khi họ phát triển, môi trường an ninh và chiến lược cũng trở nên ngày càng phức tạp. Mặc dù những quốc gia này đã được hưởng lợi trong mối quan hệ kinh tế với Ấn Độ và Trung Quốc, nhưng họ vẫn thận trọng trước sự quyết đoán ngày càng tăng và các xu hướng phục hồi lãnh thổ đã mất của Trung Quốc. Những nỗ lực của Ấn Độ trong hợp tác quốc phòng với cả Việt Nam lẫn các nước thành viên ASEAN với tư cách một phần trong những nỗ lực đa phương và song phương cũng nhằm mục đích giải quyết chính những mối quan ngại chiến lược của họ ở cả ven Ấn Độ Dương lẫn ở Biển Đông.

Cả Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao đều cần phải phối hợp những nỗ lực của họ nhằm bổ sung thực chất có ý nghĩa cho mối quan hệ quốc phòng và an ninh ngày càng tăng với các nước thành viên ASEAN với tư cách là một phần trong một nỗ lực phức hợp nhằm đạt được thành công trong các mục tiêu chiến lược của chính sách “Hướng Đông” mà giờ đây là chính sách “hành động phương Đông” của nước này. Bộ Quốc phòng cũng cần tạo điều kiện cho các quan chức quốc phòng của các nước Đông Nam Á được đào tạo tại bộ máy quốc phòng của chúng ta. Việc thường xuyên tập trận quân sự chung cũng cần phải được tăng cường nhằm cải thiện các mức độ phối hợp tác chiến. Cũng có lý lẽ ủng hộ việc xem xét lại các chính sách hạn chế của chúng ta đối với xuất khẩu vũ khí phòng thủ sang các nước Đông Nam Á.

Không có lý do nào giải thích tại sao không cần phải có quan hệ hợp tác ba bên giữa Ấn Độ, Việt Nam và Mỹ hoặc một sự hợp tác ba bên giữa Nhật Bản, Ấn Độ và Việt Nam về vấn đề này dưới cùng một hình thức và cơ sở như mối quan hệ ba bên đang tồn tại giữa Ấn Độ, Mỹ và Nhật Bản. Các mối quan hệ đa khía cạnh của Ấn Độ với Việt Nam sẵn sàng có được ảnh hưởng lớn hơn về chiến lược và kinh tế. Hợp tác hiện tại về các dự án khai thác dầu mỏ và khí đốt, đầu tư, xây dựng và phát triển năng lực, đặc biệt là trong quốc phòng và an ninh, cần phải được đa dạng hóa. Ấn Độ và Việt Nam cần phải thăm dò các cơ hội nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác. Cả hai bên đều tham khảo ý kiến của nhau về các vấn đề toàn cầu, khu vực và song phương nhằm có được cách tiếp cận chung và có phối hợp.

Về mặt song phương, Ấn Độ cần phải làm nhiều hơn để giúp Việt Nam tăng cường an ninh hàng hải bằng việc nâng cấp các cơ sở hải quân và xây dựng phòng không. Việt Nam và Ấn Độ có thể có những bước đi kịp thời và thích hợp nhằm hợp tác trong nghiên cứu phòng thủ chung, thiết kế, phát triển và sản xuất các trang thiết bị quân sự, bao gồm việc chuyển giao công nghệ vũ khí và các trang thiết bị quốc phòng. Chính phủ Ấn Độ và Việt Nam phải là tác nhân tạo điều kiện cho việc thúc đẩy đầu tư nước ngoài mặc dù nhiệm vụ này buộc phải nghiên cứu và thúc đẩy những dự án này trong khoảng thời gian lên kế hoạch.

Ở khu vực, quyền tự do hàng hải ở Biển Đông và an ninh kinh tế ở Biển Đông có thể được ASEAN thể chế hóa thành Bộ quy tắc ứng xử với sự giúp đỡ của Mỹ, Nhật Bản và các nước lớn khác trong khu vực. Việt Nam và Ấn Độ có thể khảo sát việc đấu thầu dầu lửa ở nước thứ ba. Trên phạm vi toàn cầu, Ấn Độ và Việt Nam có thể hợp tác trong các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, chủ nghĩa khủng bố, giúp đỡ nhân đạo và cứu trợ thảm họa (HA/DR)./.

Theo “Vivekananda International Foundation

Lê Sơn (gt)