Khi các thỏa thuận ngừng bắn tại Myanmar bước vào năm thứ ba đầy mong manh, các cam kết viện trợ quốc tế hướng tới “xây dựng hòa bình”đã tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là từ phương Tây và Nhật Bản.

Mặc dù viện trợ vẫn là một trong số ít các công cụ sẵn có cho những chính phủ này, và có vô số cơ quan thi hành đang mong muốn thực hiện các chương trình viện trợ, có rất ít bằng chứng tồn tại về việc làm thế nào – hoặc thậm chí liệu – những chiến lược như thế có thể thực sự hỗ trợ các kiểu chuyển đổi cần thiết cho hòa bình. Những khu vực bị xâu xé vì xung đột có thể hưởng lợi từ viện trợ theo nhiều cách, đặc biệt là để hỗ trợ những người dân bị ảnh hưởng. Nhưng đề xuất trọng tâm rằng viện trợ có thể và nên được sử dụng để đạt được các chương trình nghị sự chính trị trong những khu vực này đòi hỏi phải xem xét kỹ lưỡng hơn nhiều.

Cần tìm kiếm một cách tiếp cận thực tế và kiên nhẫn hơn đối với việc can dự vào những cuộc nội chiến đã có từ lâu của Myanmar, chừng nào một giải pháp chính trị vẫn còn mơ hồ.

Kể từ khi chính phủ bán dân sự của Myanmar lên nắm quyền vào năm 2011, đất nước này đã chứng kiến giai đoạn bạo lực căng thẳng nhất trong nhiều thập kỷ, chủ yếu ở phía Bắc – nơi Các lực lượng vũ trang Myanmar đang chiến đấu với nhiều nhóm vũ trang sắc tộc. Tuy nhiên, cùng lúc đó, một chuỗi các thỏa thuận ngừng bắn đã đạt được ở nhiều khu vực khác của đất nước, mở đường cho các cuộc đàm phán đa phương giữa chính phủ và một khối chính gồm các nhóm vũ trang sắc tộc – bao gồm cả những nhóm vẫn đang chiến đấu.

Ngày 29/3, hai bên đã tuyên bố nhất trí về một văn bản dự thảo cho một hiệp định ngừng bắn toàn quốc dựa trên nguyên tắc rằng, nếu được ký kết, nó sẽ đưa chính phủ vào một cuộc đối thoại chính trị toàn diện. Thông qua đối thoại, liên minh các nhóm vũ trang sắc tộc có mục tiêu thúc đẩy việc thành lập một Liên minh liên bang và dân chủ Myanmar và cải cách khu vực an ninh quan trọng.

Trong một sự đổi hướng ấn tượng của các sự kiện, thông báo này được đưa ra sau một tuần thảo luận trong đó hai bên đã thống nhất rằng những vấn đề gây tranh cãi nhất có thể được hoãn lại về sau, để thoát khỏi một thế bế tắc lâu dài. Bất chấp những dấu hiệu thỏa hiệp tích cực sẵn có, sự đổi hướng này một lần nữa xác nhận rằng mặc dù nhiều nhà lãnh đạo vẫn còn nguyện vọng tiếp tục đàm phán, những khác biệt chủ chốt dường như vẫn khó tháo gỡ trong tương lai gần. Điều này nhấn mạnh những lo ngại rằng chính phủ do quân đội chi phối vẫn khó có khả năng cho phép một mức độ thay đổi đang được kêu gọi, trong khi vẫn chưa rõ điều gì sẽ xảy ra sau các cuộc bầu cử sắp tới.

Trong khi đó, khi quan hệ viện trợ giữa cộng đồng quốc tế và chính phủ Myanmar đã được bình thường hóa, những khu vực chồng chất xung đột kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai trong một sớm một chiều đã trở thành đấu trường cho những can thiệp quốc tế mở rộng. Hàng trăm triệu USD đã được các nước tài trợ cấp phát cho các dự án tập trung – ít nhất là một phần – vào mục tiêu xây dựng hòa bình. Năm 2015, số dự án được thực hiện với nguồn kinh phí này, chủ yếu do các tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế phân bổ, sẽ tăng lên đáng kể.

Lịch sử của xung đột vũ trang sắc tộc

Các cuộc xung đột vũ trang sắc tộc của Myanmar, vẫn tồn tại dai dẳng kể từ khi nước này giành được độc lập vào năm 1948, đã được tiến hành chủ yếu về quyền tiếp cận các vai trò trong quản lý.

Vô số bên tham gia thuộc nhóm sắc tộc thiểu số đã tranh giành vị thế vượt trội của phần đa số người sắc tộc Burman để đòi hỏi vai trò ngang bằng trong các vấn đề quốc gia và quyền tự trị lớn hơn tại các khu vực thiểu số của họ. Phản ứng của các nhà cầm quyền người Burman – đặc biệt kể từ khi quân đội lên nắm quyền năm 1962 – là hạn chế hơn nữa quyền tiếp cận các quyền lực của nhà nước, tuyên bố rằng sự kiểm soát tập trung mạnh mẽ là điều cần thiết để ngăn đất nước phân rã. Điều này tất yếu đã dẫn đến thế bế tắc về an ninh có tính chu kỳ, nơi những nỗ lực của bất cứ bên nào để bảo vệ lợi ích riêng của mình đều ngay lập tức được phía bên kia coi như hành động công kích.

Tại những khu vực khó xử lý nhất, nhà nước này có một lịch sử dài trong việc đưa ra đề nghị ngừng bắn cho các đối thủ của mình, và cho họ nhiều phần lãnh thổ kết hợp khác nhau, các nguồn lực quân sự và nhượng bộ kinh tế để đổi lấy sự phụ thuộc chính thức. Mặc dù nhiều tước hiệu đã được sử dụng từ những năm 1950, những bên tham gia này hiện hình thành hoặc các lực lượng bảo vệ biên giới hoặc các lực lượng dân quân quần chúng. Những lực lượng này bao gồm tổng cộng hàng chục nghìn binh lính nhưng khác nhau về tầm cỡ theo nhóm. Một số nhóm có nhiều thành viên giành được ghế trong cuộc bầu cử năm 2010, chủ yếu vào đảng được quân đội hậu thuẫn hiện đang nắm chính quyền, Đảng Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP). Cũng có hàng chục nhóm ngừng bắn đã từ chối chuyển đổi, thường thôi những vị trí chính thức trong chính phủ, nhưng đôi khi vẫn duy trì quan hệ như chư hầu với nhà nước.

Mặc dù những nỗ lực như vậy đã làm giảm các hoạt động thù địch công khai và củng cố thế thống trị quân sự của nhà nước trên những vạt rộng của đất nước, hầu hết khu vực nông thôn ở các bang biên giới vẫn rất mong manh. Những khu vực này có đặc trưng là các tuyên bố lãnh thổ chồng chéo và thường thù địch của các lực lượng an ninh quốc gia, các lực lượng dân quân được bang địa phương hậu thuẫn, và các nhóm đối lập vừa tích cực chiến đấu vừa duy trì các thỏa thuận ngừng bắn. Một số nhóm đối lập nắm giữ quyền kiểm soát độc quyền trên những vùng lãnh thổ rộng lớn tại biên giới với Trung Quốc và Thái Lan, nơi chính phủ không thể tiếp cận.

Trong khi đó, ngay cả những nhóm vũ trang được thành lập có tổ chức nhất cũng có xu hướng bè phái nội bộ, làm tăng thêm tính phức tạp của địa lý chính trị. Những xung đột mới tiếp tục tăng giảm định kỳ, trong đó xung đột căng thẳng nhất hiện đang diễn ra ở miền Bắc đất nước giữa chính phủ và Quân đội Độc lập Kachin, Quân đội Giải phóng Quốc gia Ta’ang, và Quân đội Liên minh Dân chủ Quốc gia Myanmar.

Ở những nơi khác, các thỏa thuận ngừng bắn kéo dài đã trở thành thâm căn cố đế khi nhà nước chưa thể giành được những chiến thắng quyết định và cũng chưa thể buộc các bên tham gia khác trao trả quyền lực hoàn toàn. Điều này chủ yếu là do mối bất bình cũ vẫn còn dai dẳng, trong đó giới tinh hoa không phải người Burman đã bị tước đi vai trò chính trị hay hành chính có ý nghĩa trong các vấn đề của địa phương hoặc quốc gia. Hơn nữa, nền kinh tế trong ngừng bắn đã chứng tỏ là mang lại lợi ích cao cho những người nắm quyền chủ chốt, thường gây nản chí cho việc phản đối nhà nước một cách công khai, và cũng không khuyến khích các động thái hướng đến việc giải trừ quân bị của họ. Thậm chí nhiều lực lượng dân quân bị nhà nước trừng phạt đã gần như từ bỏ các mục tiêu chính trị của họ, nhưng cũng thấy rất ít lợi ích trong việc từ bỏ quyền lực.

Trong khi đó, những thỏa thuận ngừng bắn mới hơn được dựa trên những điều khoản không rõ ràng, trong đó một số khu vực hoạt động được thừa nhận nhưng các lực lượng vũ trang đã tránh phân chia ranh giới rõ ràng về lãnh thổ và các quy tắc ứng xử chính thức, khiến những khu vực này trở nên dễ tổn thương một cách sâu sắc và các cộng đồng rơi vào bất ổn không ngừng.

Như trong nhiều thập kỷ trước, sự bất ổn kéo dài tiếp tục dẫn đến việc mở rộng quân đội. Tháng 2/2015, nhà nước công bố ngân sách quốc phòng lớn nhất trong lịch sử, với khoảng 2,7 tỷ USD dành riêng cho tăng lương, nâng cấp cơ sở hạ tầng, và mua vũ khí hạng nặng mới bao gồm các máy bay chiến đấu. Các đơn vị không quân được sử dụng ngày càng nhiều kể từ năm 2012 cho các cuộc không kích và bắn phá các vị trí của quân nổi dậy ở các bang Kachin và Shan. Trong những khu vực ngừng bắn ở miền Đông Nam, năng lực không quân cũng đã được mở rộng, cũng như số cơ sở bộ binh, cùng với những cải tiến đáng kể trong việc xây công sự.

Xây dựng hòa bình trên lý thuyết

Trong bối cảnh này, các chính phủ tài trợ hy vọng có thể mang lại hòa bình thông qua việc thực hiện được hành chính hóa ở mức cao trong việc chuyển giao quỹ cho các tổ chức phi chính phủ và cơ quan liên chính phủ để thực hiện các dự án phát triển, thường cùng với các bên tham gia chính phủ và phi chính phủ địa phương.

Chiếm ưu thế trong thực tiễn và chính sách xây dựng hòa bình trên toàn cầu là những khái niệm liên quan về “xây dựng nhà nước” và “lợi tức hòa bình”. Về bản chất, theo lý thuyết xây dựng nhà nước, nếu các hoạt động thù địch có thể giảm bớt bằng cách đưa các bên tham gia xung đột đến bàn đàm phán, viện trợ có thể được sử dụng để tăng cường vai trò của nhà nước như một cơ quan chi phối, và để cải thiện quan hệ của nhà nước với xã hội – đặc biệt giữa các nhóm bị đẩy ra rìa xã hội. Đồng thời, nếu viện trợ có thể mang lại các lợi ích hữu hình hoặc “lợi tức hòa bình” tức thì cho dân chúng và binh lính chiến đấu tại các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột, thì có thể đảm bảo niềm tin rằng hòa bình phục vụ cho lợi ích tốt nhất của tất cả mọi người.

Các cách tiếp cận này công nhận rằng các cuộc nội chiến không cân xứng hiếm khi được giải quyết một cách toàn diện thông qua đàm phán, vì nhà nước chiếm lợi thế về quân sự và do đó khó có khả năng chịu phục tùng những đòi hỏi mà các bên tham gia thiểu số tìm kiếm thông qua bạo lực. “Các tiến trình hòa bình” do đó là những nhiệm vụ bị kéo dài một cách điển hình với mục đích giữ các phe đối lập trên bàn đàm phán, tạo thời gian nghỉ ngơi cho tất cả những người bị ảnh hưởng, và mang lại thời gian và không gian cho hòa hoãn. Do đó, viện trợ quốc tế được xem như một công cụ hữu ích trong việc sử dụng không gian này để tái cơ cấu các thể chế và cung cấp phát triển vật chất với hy vọng đẩy nhanh tiến trình này.

Những rủi ro trong thực tiễn

Tuy nhiên, như nghiên cứu từ Viện nghiên cứu thực nghiệm các dự án xung đột của Đại học Princeton nhận thấy, “gửi viện trợ vào các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột có thể thực sự làm trầm trọng thêm tình hình bạo lực trong một số trường hợp”. Thực vậy, những lý thuyết “xây dựng hòa bình” tương đối lỏng lẻo này vẫn chưa chứng tỏ tính hiệu quả ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nếu không có bằng chứng rõ ràng hơn nhiều cho việc viện trợ có thể và nên được sử dụng để gây ảnh hưởng đến những gì đang là xung đột chính trị sâu sắc, thì những nguy cơ đáng kể vẫn còn tồn tại.

Do tính phức tạp của không gian chính trị, cực kỳ khó để dự đoán tác động sâu rộng mà một dòng chảy của nhiều nguồn lực mới to lớn sẽ gây ra đối với các động lực sức mạnh. Tại những khu vực bị quản lý và tranh giành bởi một sự chắp vá phức tạp của các bên liên quan có vũ trang, và nơi mà hình thức quản lý nhà nước duy nhất đã đặt bộ binh vào vị trí chống nổi dậy phổ biến, hầu như có rất ít thông tin về cách thức đúng đắn để thực hiện những dự án này.

Các nguy cơ bao gồm việc giới tinh hoa từ tất cả các bên chiếm các chương trình viện trợ vì lợi ích cá nhân và/hoặc chính trị, cũng như sự khởi đầu của các tranh chấp địa phương về việc liệu và làm thế nào để viện trợ được chấp nhận - đặc biệt xét những khó khăn cùng cực trong việc đánh giá một cách đúng đắn tính hợp pháp của những người nắm quyền địa phương trong con mắt của người dân. Các cộng đồng tại những khu vực này từ lâu đã phải vật lộn với những yêu cầu và kỳ vọng chồng chéo và không phù hợp của các nhà cầm quyền thù địch, một số thì họ ủng hộ và những người khác thì họ chủ yếu là sợ hãi. Mặc dù một số dự án thí điểm quy mô nhỏ đã thành công trong việc xác định các bên tham gia địa phương hợp pháp và hình thành các quan hệ đối tác giữa nhiều bên trong xung đột, việc mở rộng những chương trình này để cung cấp các quỹ quy mô lớn theo dự kiến sẽ là một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều.

Mối nguy hiểm lớn hơn là, do chính phủ đã có một lịch sử lâu dài trong việc sử dụng các chính sách khuyến khích kinh tế để mua chuộc các nhà cách mạng, các chương trình “lợi tức hòa bình” ngụ ý rằng nền hòa bình thiên về phát triển vật chất thay vì thay đổi chính trị toàn diện sẽ có nguy cơ sinh ra sự hoài nghi trong chính tiến trình hòa bình.

Một cách tiếp cận như vậy với việc chống nổi dậy được nhận thấy gần như rõ ràng nhất trong các thỏa thuận ngừng bắn được ký kết vào những năm 1990, những thỏa thuận đã mang lại nhượng bộ kinh tế cho những nhóm ngừng bắn lặng lẽ cùng với các cam kết đối thoại chính trị với chính phủ hậu quân sự được chờ đợi từ lâu. Khi các nhượng bộ kinh tế bị giảm bớt một cách có hệ thống theo thời gian, chính phủ đã quân sự hóa mạnh mẽ các khu vực của những nhóm vũ trang và ép buộc một số phe phái nhỏ hơn đi đến giải trừ quân bị. Cho đến ngày này, đối thoại chính trị vẫn chưa xuất hiện, và các dự án kinh tế liên quan đã gây thiệt hại phần lớn cho môi trường và sinh kế địa phương trong khi trao quyền hợp pháp cho các lực lượng vũ trang, các thủ lĩnh địa phương và bạn bè của họ.

Do đó, một câu chuyện kể phổ biến đã xuất hiện rằng các thỏa thuận ngừng bắn chủ yếu phục vụ cho lợi ích kinh tế cá nhân của tất cả những đối tượng vũ trang, bao gồm Các lực lượng vũ trang Myanmar.

Các thỏa thuận ngừng bắn ngày nay đang ngày càng được xem là mánh khóe nhằm giảm các hoạt động thù địch để chính phủ có thể kéo dài trạng thái uy quyền của mình thông qua mở rộng quân sự, khai thác các nguồn lực có giá trị, và thiết lập chính quyền riêng của mình và hệ thống giáo dục lấy người Burman làm trọng tâm. Đối với các chỉ huy sắc tộc vẫn đang nắm giữ các vùng lãnh thổ quan trọng, sự hoài nghi vẫn còn cao, đặc biệt giữa Tổ chức Độc lập Kachin mạnh mẽ, nhóm vẫn giữ một thỏa thuận ngừng bắn từ năm 1994-2011 và chứng kiến sự ủng hộ phổ biến của nó suy giảm trong khi Quân đội Myanmar dần dần bao vây nó. Ngược lại, bất chấp tác động đầy tai hại lên đời sống của người dân như một hậu quả của chiến tranh, mức độ được lòng dân của nhóm này đã tăng lên kể từ khi xung đột bắt đầu, vì nó đã một lần nữa được coi như một tổ chức cách mạng hợp pháp thay vì một đội quân thương mại. Kinh nghiệm này là một lý do chính cho việc nhóm này còn miễn cưỡng ký kết một thỏa thuận “ngừng bắn” làm tin khác mà không có những đảm bảo về sự thay đổi chính trị có thể mang lại cho khu vực này mức độ tự trị lớn hơn và một vai trò trong các công việc quốc gia.

Việc sử dụng các khoản viện trợ để thuyết phục các nhóm từ bỏ mục tiêu theo đường lối dân tộc của họ do đó có nguy cơ đẩy xa hơn nỗi sợ hãi rằng chính phủ vẫn thiếu ý chí hướng tới một nền hòa bình thực sự.

Đây là một nguy cơ đặc biệt bên trong Liên đoàn Dân tộc Karen (KNU), một tổ chức ban đầu giữ lập trường rằng sự phát triển trong khu vực của nó chỉ nên được khuyến khích một khi đối thoại chính trị thành công. Mặc dù một phe chi phối trong nhóm này đã đầu tư mạnh vào những nỗ lực nhằm đem lại các cuộc đàm phán chính trị và đã được các nhà đàm phán trong văn phòng tổng thống tiếp đãi, cam kết hoàn toàn từ chính phủ và Các lực lượng vũ trang Myanmar vẫn khó có được. Trong khi đó, một số phần tử quyền lực và bảo thủ hơn của KNU vẫn hoài nghi sâu sắc về tiến trình này, và về nhà nước, điều đã thúc đẩy chương trình nghị sự cho phát triển của riêng mình trong những khu vực của họ với sự ủng hộ quốc tế trong khi vẫn duy trì một thế quân sự quyết đoán hướng về phía trước.

Trong khi đó, các cách tiếp cận “xây dựng nhà nước” vẫn có nguy cơ trực tiếp làm trầm trọng thêm mối bất bình rõ ràng mà đã làm phát sinh các xung đột ngay từ đầu, bằng cách trao quyền hợp pháp cho nhà nước do quân đội Myanmar chi phối để thúc đẩy tầm nhìn xây dựng quốc gia của chính nó mà những kẻ tranh giành với nó sẽ phải trả giá. Mặc dù nền hòa bình lâu dài thực tế sẽ phụ thuộc vào sự xuất hiện của một nhà nước vận hành đúng chức năng, điều này không thể đạt được nếu không có các nền tảng chính trị cần thiết để giành được tính hợp pháp và để điều hòa sự cạnh tranh chính trị giữa các nhân tố tinh hoa đối lập. Việc cung cấp các nguồn lực và “xây dựng năng lực” để củng cố nhà nước hiện nay, dựa trên một bản hiến pháp tập trung quyền lực và giao cho các bộ do quân đội kiểm soát phụ trách chính quyền dưới quốc gia, sẽ có thể có tác dụng ngược.

Tại những khu vực chưa bao giờ bị người Burman kiểm soát, nơi mà các nhóm vũ trang hoạt động như những chính phủ đầu tiên, và cũng là nơi mà các cơ cấu dịch vụ xã hội và hành chính địa phương đã được xây dựng xung quanh những nỗ lực của cộng đồng và nguyện vọng dân tộc chủ nghĩa địa phương, những cố gắng để mở rộng vai trò của nhà nước đã bị coi như một sự xâm phạm đối với các xã hội chính trị lâu đời. Trên khắp những khu vực rộng lớn hơn nhiều ở phía Bắc và phía Đông đất nước, mặc dù chính phủ đã đảm bảo quyền kiểm soát đối với các thị trấn, đường sá, và các địa điểm kinh tế trọng điểm nó không thể thực hiện bất kỳ hình thức quản lý hiệu quả nào trên khắp các khu vực miền núi ở vùng ngoại vi.

Thất bại này không phải vì thiếu nguồn lực và các năng lực bên ngoài được cung cấp thông qua phát triển: Do những công cụ hạn chế mà các bên tham gia quốc tế sẵn có để sử dụng, sẽ là khôn ngoan khi hạ thấp kỳ vọng, kiềm chế sự can thiệp của họ trong những khu vực như vậy, và thực hiện một cách tiếp cận thực tế hơn với việc tham gia các cuộc xung đột.

Hướng tới một cách tiếp cận thực dụng hơn

Các thỏa thuận ngừng bắn tại một số vùng của Myanmar, cùng với việc thực hiện một hệ thống chính trị kém độc đoán hơn và những cải thiện kinh tế đáng chú ý, đã mang lại những lợi ích đáng kể cho cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng bởi cuộc xung đột.

Những sự thay đổi là nhanh chóng khi người dân được biết đến sự suy giảm đáng kể việc vi phạm nhân quyền trong khi có được sự linh động, các quyền công dân và quyền tiếp cận thông tin lớn hơn nhiều. Những người lớn tuổi tại một số khu vực lần đầu tiên đã chứng kiến quan hệ ấm lên giữa các bên tham gia quân sự đối lập từ lâu. Các nhóm vũ trang với các thỏa thuận ngừng bắn mới cũng đang tiến hành tái cơ cấu nội bộ khi họ cải cách các cấu trúc hành chính và xây dựng quan hệ đối tác mới với các nhóm khác trong khu vực của họ. Thêm vào đó, cuộc bầu cử năm 2015 có thể mang lại phát triển chính trị hơn nữa cho vùng trung tâm của Myanmar – có lẽ thông qua thay đổi chế độ một phần hoặc đơn giản bằng cách xây dựng lòng tin của các nhà lãnh đạo hiện thời để nới lỏng các chính sách độc tài.

Những cuộc chuyển đổi này vẫn đang được thực hiện và, bất chấp các dấu hiệu tích cực, có thể sẽ vẫn đi theo nhiều hướng. Do đó, các bên tham gia viện trợ bên ngoài đổ xô đến Myanmar nên dành thời gian để chờ cho cát bụi lắng xuống, để hợp tác dựa trên xây dựng các quan hệ địa phương chân thật, và bước đi cực kỳ thận trọng trong những vùng bị xung đột ảnh hưởng. Sự thận trọng đặc biệt phải đi đôi với các chương trình nghị sự rõ ràng hướng tới việc gây ảnh hưởng tình hình chính trị mà rất ít – nếu có – người ngoài cuộc có thể tuyên bố là hiểu một cách thực sự.

Triển vọng trong các khu vực ngừng bắn mới so sánh được với những gì đã xảy ra sau thỏa thuận năm 1994 giữa KIO và chính phủ quân đội. Theo thời gian, việc ngừng bắn cho phép khoảng 80.000 người phải rời bỏ nhà cửa được trở về quê hương, những người khác tái định cư, và những khu định cư toàn tre đã phát triển thành những khu toàn gỗ và gạch. Đường sá, trường học, nơi thờ cúng và nhà hàng được xây dựng dần dần, và một thế hệ mới đã lớn lên trong sự ổn định tương đối. Tuy nhiên, không có một giải pháp chính trị giữa những quan hệ vô cùng thù địch và việc quân sự hóa không ngừng, xung đột một lần nữa lại nổ ra vào năm 2011, dẫn đến một số vụ bạo lực gây tàn phá nhất mà nước này từng chứng kiến kể từ đầu những năm 1990. Hầu hết những người dân này hiện đã phải rời bỏ nhà cửa một lần nữa khi những khu định cư của họ đã bị cướp phá và chỉ còn lại những bãi mìn.

Một cuộc chuyển đổi kéo dài vượt qua những thỏa thuận ngừng bắn mong manh sẽ phụ thuộc vào các hiệp ước chính trị mà cho phép khái niệm hóa một tầm nhìn chung về quốc gia và những thể chế cho phép chia sẻ quyền lực giữa các giới tinh hoa theo đường lối dân tộc. Nếu một liên minh đủ lớn gồm các bên tham gia cam kết xây dựng một Myanmar ổn định có thể được lập ra, nhiệm vụ sẽ là xây dựng một nhà nước có thẩm quyền và sẵn sàng đáp ứng, có thể chống lại thành công một lượng lớn các lực lượng bất hợp pháp đang hưởng lợi từ bạo lực và bất ổn. Theo quan điểm của những bên tham gia chống đối nhất và các nhà quan sát nước ngoài, một hệ thống chính phủ liên bang sẽ là nền tảng tốt nhất cho một nhà nước như thế.

Trong lúc đó, những cố gắng để đơn thuần tăng cường năng lực của nhà nước hiện nay sẽ làm suy yếu lòng tin đối với các thỏa thuận ngừng bắn và dẫn tới việc gia tăng các thể chế đối chọi với nền hòa bình lâu dài. Mặc dù các bên tham gia quốc tế hiện không còn trong một tình thế để làm trung gian cho một môi trường chính trị toàn diện hơn từ bên ngoài, họ phải cẩn thận không làm việc chống lại môi trường đó bằng chính sự can thiệp của họ.

Các khu vực ngừng bắn chắc chắn cần một số hình thức viện trợ nhất định để cải thiện cuộc sống của những người đã phải chịu tổn thương. Các chương trình khôi phục cho những người tản cư và những người đã quay về quê hương, cũng như những nỗ lực dài hạn hơn để giải quyết các cuộc khủng hoảng nghèo đói và y tế, đang được thiết kế và thực hiện một cách đúng đắn ngay cả tại những vùng dễ bị tổn thương nhất. Phát triển quy mô lớn hơn như đường sá và cơ sở hạ tầng cũng đang được tiến hành và – bất chấp mang theo những nguy cơ lớn - đã được chào đón một cách rõ ràng tại một số vùng nơi người dân được hưởng lợi nhiều từ việc cải thiện thông tin liên lạc và giao thông vận tải. Các chương trình được xây dựng dựa trên sự hợp tác giữa các chính quyền đối lập, và những chương trình làm việc với các cơ chế ở cấp cộng đồng hiện có để hỗ trợ xã hội, có thể làm được nhiều điều để cải thiện lòng tin vào các thỏa thuận ngừng bắn và chuẩn bị nền tảng cho sự ổn định.

Tuy nhiên, những hình thức hỗ trợ cốt yếu này không nên mang lại những thay đổi kinh tế-xã hội quá nhanh chóng tại những khu vực nơi mà tầm ảnh hưởng khó có thể dự đoán. Cụ thể, những nỗ lực hăm hở để bố trí các chương trình viện trợ quanh các mục tiêu chính trị (tức là xây dựng hòa bình), nơi có rất ít thông tin về những động lực sức mạnh cụ thể trong khu vực, đã gây ra những rủi ro không đáng có cho sự ổn định của những môi trường mặt khác đang cải thiện một cách chậm chạp. Do các công cụ hỗ trợ hiện đại thiếu khả năng giám sát và đánh giá một cách xác đáng tác động của chúng với cuộc xung đột, hoặc thậm chí với chính trị nói chung, kết quả phần lớn là không thể dự đoán. Ngay cả những nơi rõ ràng có thể đạt được những lợi ích từ sự phát triển, điều này cũng luôn phải được cân bằng với những nguy cơ tiềm ẩn của các tác động ngoài ý muốn lên những động lực sức mạnh địa phương, hoặc lên những mối bất bình cụ thể. Quan trọng nhất là, các cuộc can thiệp xác định lại một cách rõ ràng vai trò của nhà nước trong một khu vực cụ thể nên được sắp xếp theo trình tự một cách cẩn thận cho phù hợp với tiến trình hòa bình để phản ánh các thỏa thuận đã được đưa ra trên bàn đàm phán.
Nhìn chung, các chính phủ nước ngoài nên đánh giá lại tiềm năng viện trợ để kiến tạo hòa bình tại những khu vực mong manh như thế này. Thay vào đó, các cam kết ngoại giao giúp tăng cường ý chí của chính phủ cho cải cách lĩnh vực dân chủ, hành chính và an ninh, luật pháp và các thể chế bảo vệ quyền của người dân, và cho sự phát triển của một nhà nước mở cửa hơn, tất cả sẽ hữu ích hơn nhiều trong việc xây dựng những nền tảng cho hòa bình, dù chậm chạp.

Những nỗ lực được tiếp tục để đưa các nguồn lực và năng lực tới những kết thúc như vậy mà không có một chính phủ rõ ràng, sẽ có khả năng tạo ra kết quả lẫn lộn và có các tác động chính trị ngoài ý muốn. Do đó, các chính phủ nước ngoài nên có một phương án tiếp cận thực tế và kiên nhẫn hơn đối với việc tham gia các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột, và nên cẩn thận khi hành động cẩu thả đối với hòa bình./.

Theo “Foreign policy in focus” (ngày 3/5)

Mỹ Anh (gt)