07012013son6131713522.jpg

 

Tóm tắt

Hiện nay các cơ chế hợp tác Quốc phòng - An ninh đa phương mà Việt Nam đã tham gia chủ yếu là các cơ chế hợp tác trong khuôn khổ ASEAN. Cũng như quan hệ quốc phòng song phương, quan hệ quốc phòng đa phương của Việt Nam với ASEAN dựa trên những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương ASEAN, như nguyên tắc “tự nguyện”, “đồng thuận”,“không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau” và “không biến ASEAN thành liên minh quân sự hay khối phòng thủ chung”.1 Các cơ chế hay diễn đàn hợp tác Quốc phòng - An ninh đa phương là nơi để các bên tham gia bày tỏ quan điểm, lập trường của mình về các vấn đề nổi lên ở khu vực, minh bạch chính sách quốc phòng, tạo dựng lòng tin… nhằm xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định. Các cơ chế hợp tác Quốc phòng - An ninh đa phương đang dần đi vào thực chất và phần lớn tập trung bàn về các hoạt động tìm kiếm - cứu nạn, giảm nhẹ thảm họa thiên tai, chống khủng bố, cướp biển, chống tội phạm xuyên quốc gia, xử lý bom, mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh...Bài viết này tìm hiểu các cơ chế hợp tác Quốc phòng - An ninh có sự tham gia của Việt Nam như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM); Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng (ADMM+); Hội nghị không chính thức Tư lệnh lực lượng quốc phòng các nước ASEAN (ACDFIM); Đối thoại Shangri-La; Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF).

Các hội nghị về hợp tác quốc phòng

Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM)

Sáng kiến về Diễn đàn “Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN” được Nhóm công tác về hợp tác an ninh đưa ra trong cuộc họp ngày 09/05/2004 tại In-đô-nê-xi-a và được Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 họp tại Lào tháng 12/2004 thông qua. Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN là diễn đàn để các nhà lãnh đạo quốc phòng cao cấp nhất của ASEAN trực tiếp trao đổi quan điểm về những vấn đề quốc phòng và an ninh khu vực; chỉ dẫn tự nguyện các chính sách an ninh và quốc phòng; thảo luận về các hành động liên quan đến tiến trình bên ngoài ASEAN; thảo luận về tác động qua lại với các đối tác bên ngoài; đánh giá khái quát hợp tác quốc phòng giữa các nước ASEAN. ADMM họp hàng năm và từ năm 2009 duy trì thêm cuộc họp hẹp. Trong khuôn khổ Hội nghị ADMM, còn có Hội nghị cấp thứ trưởng (ADSOM), Cuộc họp cấp chuyên viên (ADSOM-WG) và Cuộc họp kênh II của các Viện nghiên cứu quốc phòng ASEAN (NADI) được tổ chức trước Hội nghị ADMM nhằm chuẩn bị và đề xuất các nội dung cho Hội nghị ADMM.

Bên cạnh duy trì đối thoại, tham vấn định kỳ hàng năm nhằm chia sẻ quan điểm về tình hình an ninh khu vực, ADMM còn thúc đẩy triển khai các sáng kiến hợp tác gồm: (i) Sử dụng nguồn lực quân sự ASEAN trong hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, (ii) Hợp tác giữa các tổ chức quốc phòng và các tổ chức xã hội dân sự các nước ASEAN trong đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, (iii) Hợp tác Công nghiệp Quốc phòng các nước ASEAN (ADIC), mạng lưới các Trung tâm gìn giữ hòa bình các nước ASEAN, (iv) Thiết lập Chương trình giao lưu Quốc phòng các nước ASEAN, Thiết lập Khuôn khổ hỗ trợ hậu cần các nước ASEAN, (v) Thiết lập đường dây liên lạc trực tiếp quốc phòng ASEAN (xem sơ đồ 1). Kết quả của hội nghị ADMM sẽ được Tổng thư ký, đại diện cho Ban Thư ký ASEAN ghi nhận và báo cáo trực tiếp tới nguyên thủ các nước ASEAN tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN.

 

 

Sơ đồ 1: Cơ chế hoạt động của ADMM

Qua các lần Hội nghị (cho tới nay ADMM đã trải qua hội nghị lần thứ 8), Việt Nam luôn tích cực tham gia và chia sẻ quan điểm về những vấn đề an ninh nổi lên ở khu vực, tuyên truyền đường lối và chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ của Việt Nam, qua đó xây dựng lòng tin và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa quân đội các nước ASEAN. Liên quan đến tình hình phức tạp ở Biển Đông, Việt Nam luôn đưa ra những quan điểm và đề xuất các biện pháp giải quyết hòa bình. Phát biểu tại Hội nghị ADMM-7 (5/2013), Đại tướng Phùng Quang Thanh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam nhấn mạnh: “Quan điểm của Việt Nam là giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982” và kêu gọi các bên cần cùng nhau nỗ lực thực hiện Tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông (DOC), Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông, thúc đẩy đàm phán xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đề xuất thêm nhiều sáng kiến nhằm thúc đẩy tăng cường hợp tác bảo đảm an ninh an toàn trên biển, ngăn ngừa và quản lý xung đột ở Biển Đông như: tăng cường hợp tác hải quân trong khu vực (thông qua tuần tra chung, giao lưu, thiết lập đường dây nóng); cam kết không sử dụng vũ lực trước; tăng cường hợp tác cứu hộ người và phương tiện gặp nạn trên biển… Tại Hội nghị ADMM-8 (5/2014), trước sự việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng tới hòa bình, ổn định khu vực, khiến các nước ASEAN quan ngại, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh: “Việt Nam sẽ hết sức kiềm chế để không xảy ra xung đột quân sự trên biển. Chúng tôi không sử dụng máy bay, tàu tên lửa, tàu pháo, lực lượng đặc công người nhái tấn công, phá hủy giàn khoan của Trung Quốc. Việt Nam chỉ sử dụng các tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư và tàu cá của ngư dân để bảo vệ chủ quyền. Tàu Việt Nam không chủ động đâm va cũng như sử dụng vòi rồng phun vào các tàu của Trung Quốc, mà chỉ sử dụng các biện pháp tuyên truyền, vận động”.2 Quan điểm của Bộ trưởng thể hiện rõ chính sách không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực và mong muốn giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình của Việt Nam.

Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng (ADMM+)

Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng được tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam năm 2010. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của ADMM+ được xác định trong “Tài liệu Khái niệm ADMM+” và được thông qua tại Hội nghị ADMM-2 tổ chức ở Xinh-ga-po tháng 11/2007. Theo đó, mục tiêu của ADMM+ bao gồm: Giúp các nước thành viên ASEAN xây dựng khả năng đối phó với những thách thức an ninh chung; Tăng cường lòng tin giữa các thiết chế quốc phòng thông qua đối thoại và minh bạch chính sách quốc phòng; Tăng cường hòa bình và ổn định khu vực thông qua hợp tác Quốc phòng - An ninh; Góp phần hiện thực hóa Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN. ADMM+ duy trì các nguyên tắc: ASEAN là trung tâm của ADMM+; không can thiệp, đồng thuận quyết định tập thể, tự cường quốc gia và khu vực, tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia; ADMM+ mở và dung nạp (cho phép ADMM cùng hợp tác với các nước ngoài ASEAN có thể đóng góp tốt nhất cho hòa bình và ổn định ở khu vực); Hợp tác trong ADMM+ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế; ADMM+ là một bộ phận không tách rời của ADMM. Về tiêu chí kết nạp thành viên ADMM+ gồm: phải là một bên đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN, có quan hệ và tương tác quốc phòng đáng kể với ASEAN, có khả năng hợp tác thực chất với ADMM để xây dựng năng lực cho tăng cường an ninh khu vực.

ADMM+ là kênh đối thoại chiến lược và hợp tác quốc phòng chính thức, cao cấp nhất với số lượng thành viên đông nhất ở châu Á-Thái Bình Dương và được xem là bộ phận quan trọng của cấu trúc an ninh khu vực đang định hình. ADMM+ họp hai năm một lần (trước năm 2013 là ba năm/lần). Các hội nghị ADSOM+ cấp thứ trưởng, ADSOM+ WG (cấp làm việc) họp hàng năm để duy trì động lực hợp tác. ADMM+ ban đầu xác định năm lĩnh vực hợp tác gồm Hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa (HADR), An ninh biển (MS), Quân y (MM), Chống khủng bố (CT) và Gìn giữ hòa bình (PKO). ADMM+ lần thứ hai được tổ chức tại Bru-nây năm 2013 đã quyết định bổ sung một lĩnh vực hợp tác mới là Khắc phục hậu quả bom mìn - vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh và xung đột trong khu vực (xem sơ đồ 2). ADMM+ đã thiết lập 6 Nhóm chuyên gia để thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, đồng chủ trì của mỗi nhóm chuyên gia là một nước ASEAN và một nước đối thoại (cộng). Theo đó, đồng chủ trì các Nhóm chuyên gia giai đoạn 2014-2017 gồm: Hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa (Lào và Nhật Bản); An ninh biển (Bru-nây và Niu Di-lân); Chống khủng bố (Xinh-ga-po và Ô-xtrây-li-a); Quân y (Thái Lan và Nga); Gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc (Cam-pu-chia và Hàn Quốc); Hành động mìn nhân đạo (Việt Nam và Ấn Độ).

ADMM+ không chỉ là diễn đàn đối thoại, tham vấn chiến lược nhằm xây dựng nhận thức chung về an ninh khu vực, xây dựng lòng tin, xác định các lĩnh vực hợp tác thiết thực về quốc phòng, ADMM+ còn là cơ chế hợp tác ở cấp cao nhất - cấp Bộ trưởng Quốc phòng của khu vực. Cơ chế hợp tác này có khả năng định hướng và chỉ đạo các chương trình hoạt động thực tiễn nhằm giải quyết có hiệu quả các thách thức an ninh chung, nhất là an ninh phi truyền thống đang nổi lên hiện nay. ADMM+ là sân chơi bình đẳng và có lợi cho các bên tham gia, là diễn đàn để quân đội các nước tăng cường quan hệ hợp tác không chỉ trong nội khối mà cả với quân đội những nước có tiềm lực quân sự mạnh. ADMM+ có thể bổ sung tích cực cho các cơ chế diễn đàn an ninh khu vực khác hiện có, tạo nên một cấu trúc an ninh mới tại khu vực.

 

Sơ đồ 2: Cơ chế hoạt động của ADMM+

Trong quá trình tham gia ADMM+, quân đội Việt Nam đã có những đóng góp tích cực, đưa ra nhiều sáng kiến giành được sự đồng thuận cao của các nước. Đóng góp quan trọng nhất của Việt Nam là góp phần hiện thực hóa ý tưởng của ASEAN về ADMM+. Với tư cách Chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đã chủ động xây dựng nội dung tài liệu nhằm hoàn tất các cơ sở pháp lý cho việc thiết lập ADMM+. Việt Nam đã tiến hành hàng loạt các cuộc tham vấn, vận động các nước liên quan ủng hộ với đề xuất về thành phần của ADMM + gồm 10 nước ASEAN và 8 nước đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN là: Trung Quốc, Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân. Với nỗ lực cao nhất, Việt Nam đã chủ trì thành công các Hội nghị từ cấp làm việc tới cấp Bộ trưởng. Việt Nam đã chủ động thúc đẩy các hoạt động trong tiến trình ADMM+; tích cực tham gia các hoạt động của 5 nhóm chuyên gia. Trong đó, Việt Nam đã cùng Trung Quốc chủ trì thành công các Hội nghị Nhóm chuyên gia ADMM+ về Hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa (HADR), được các đại biểu của 18 quốc gia thành viên đánh giá cao. Hội nghị không chỉ là cuộc bàn thảo về hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa mà còn thể hiện mong muốn, quyết tâm trong việc hợp tác, xây dựng hòa bình, phát triển và ổn định của tất cả các quốc gia. Tại cuộc diễn tập trên thực địa về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa kết hợp quân y ở Bru-nây (6/2013), lần đầu tiên Việt Nam cử lực lượng quân đội tham gia và được đánh giá là một trong những quốc gia tham gia tích cực nhất, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn bè quốc tế. Cũng tại Hội nghị ADMM+ lần thứ hai, sáng kiến về thành lập Nhóm chuyên gia về Hành động mìn nhân đạo do Việt Nam đề xuất được thông qua. Đây là nhóm công tác thứ 6 của ADMM+, sau năm nhóm chuyên gia về năm lĩnh vực đã được thông qua tại ADMM+ lần thứ nhất. Với việc thông qua nhóm chuyên gia về Hành động mìn nhân đạo sẽ thúc đẩy các nước thành viên ADMM+ giải quyết các vấn đề bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh, một vấn đề đang được quan tâm đặc biệt ở nước ta hiện nay.3 Ủng hộ sáng kiến do Việt Nam đề xuất, các nước: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc bày tỏ mong muốn chia sẻ về nguồn lực, kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ cho lĩnh vực này. Sự ra đời Nhóm công tác Hành động mìn nhân đạo một lần nữa khẳng định vai trò chủ động, tích cực của Việt Nam trong việc thúc đẩy các hoạt động của ADMM+ đi vào thực chất và hiệu quả.

Hội nghị không chính thức Tư lệnh Lực lượng quốc phòng các nước ASEAN (ACDFIM)

Hội nghị không chính thức Tư lệnh Lực lượng quốc phòng các nước ASEAN và các hội nghị cấp làm việc, gồm: Hội nghị những người đứng đầu tình báo quân sự các nước ASEAN (AMIIM); Hội nghị Cục trưởng tác chiến ASEAN (AMIOM); Hội nghị Tư lệnh Lục quân ASEAN (ACAMM); Hội nghị Tư lệnh Không quân ASEAN (AACC); Hội nghị Tư lệnh Hải quân ASEAN (ANCM); Hội nghị Cục trưởng Quân y ASEAN (AMMC) (xem sơ đồ 3). Bên lề các hội nghị là hoạt động giao lưu giữa sỹ quan trẻ của các quân binh chủng (Giao lưu Bác sỹ Quân y trẻ ASEAN, Giao lưu sỹ quan trẻ Hải quân, Không quân ASEAN, Giao lưu bắn súng quân dụng Lục quân các nước ASEAN, Hội nghị Hạ sĩ quan Quân đội các nước ASEAN). ACDFIM là diễn đàn không chính thức dành cho những người chỉ huy cao nhất về tác chiến trong quân đội các nước ASEAN4 thảo luận và trao đổi các vấn đề an ninh phi truyền thống trong khu vực. ACDFIM-1 được tổ chức năm 2001 tại In-đô-nê-xi-a. Sau đó các nước ASEAN đăng ký luân phiên tổ chức hàng năm. Theo cơ chế, ACDFIM có trách nhiệm báo cáo kết quả các hội nghị của mình lên ADMM. Tại ACDFIM-5 (được tổ chức tại Xinh-ga-po vào năm 2007), Tư lệnh Quốc phòng các nước ASEAN đã thống nhất sử dụng AMIIM như là Ban thư ký chung để chuẩn bị cho ACDFIM. Chương trình nghị sự của ACDFIM căn cứ vào tình hình nổi lên ở khu vực và thế giới. Tuy nhiên, chủ đề xuyên suốt vẫn là tăng cường hiểu biết lẫn nhau để xây dựng lòng tin, chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức trong các lĩnh vực chuyên môn, hợp tác để đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống trong khu vực. Các hoạt động được tổ chức trên cơ sở tự nguyện và được đăng ký theo chương trình hoạt động hai năm bao gồm hội nghị, hội thảo, các hoạt động giao lưu…Trên cơ sở Hội nghị ACDFIM, các hoạt động hợp tác quân sự được triển khai một cách toàn diện ở tất cả các quân, binh chủng của Quân đội các nước ASEAN. Cho đến nay, ACDFIM đã qua 10 lần hội nghị và đã tạo ra những bước tiến để hướng tới các hoạt động cụ thể.

Sơ đồ 3: Cơ chế hoạt động của ACDFIM

 

Bộ Quốc phòng Việt Nam cử đoàn tham dự ACDFIM lần đầu vào năm 2002 tổ chức tại Bru-nây. Qua các kỳ tham gia hội nghị, quân đội Việt Nam ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế ngày càng cao trong khu vực. Tại ACDFIM-7, Việt Nam đưa ra sáng kiến về hợp tác tìm kiếm, cứu nạn; đồng thời đề xuất: bên cạnh việc tiếp tục đối thoại, xây dựng lòng tin, chia sẻ kinh nghiệm, các nước ASEAN cần đẩy mạnh các hoạt động hợp tác trên thực tế trong tìm kiếm, cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, giảm nhẹ thiên tai. Cũng tại ACDFIM-7, Việt Nam đề xuất “Quy trình báo cáo kết quả các hoạt động hợp tác quân sự đa phương ASEAN lên ACDFIM”. Tại ACDFIM-8, Việt Nam đề xuất hợp tác xây dựng các trung tâm cảnh báo sớm, tăng cường chia sẻ thông tin tình báo, phối hợp chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia. Không những chỉ bằng các sáng kiến và kiến nghị, Việt Nam còn thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm cao của mình bằng hành động cụ thể. Điển hình là vụ máy bay MH 370 của hãng hàng không Ma-lai-xi-a mất tích hồi tháng 3/2014. Quân đội Việt Nam đã cử lực lượng, phương tiện hiện đại tích cực tham gia vào công tác tìm kiếm. Những sáng kiến, đề xuất và hành động cụ thể của Quân đội nhân dân Việt Nam được các nước ASEAN ủng hộ và đánh giá cao. Đây là những tiền đề, điều kiện thuận lợi để chúng ta giữ vững môi trường hòa bình và bảo vệ vững chắc tổ quốc trong giai đoạn mới.

Các hội nghị về hợp tác an ninh

Hội nghị cấp cao An ninh châu Á - Thái Bình Dương

Hội nghị cấp cao An ninh châu Á - Thái Bình Dương hay còn gọi là Đối thoại Shangri-La được tổ chức thường niên từ năm 2002 tại khách sạn Shangri-La của Xinh-ga-po theo sáng kiến của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS). Thành phần tham dự Đối thoại là các Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng và các nhà hoạch định chính sách Quốc phòng - An ninh cao cấp của các nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Mục đích của Ban tổ chức là tạo điều kiện để IISS nghiên cứu sâu về chính sách Quốc phòng - An ninh các nước, tạo cơ hội cho các nhà lãnh đạo quốc phòng, an ninh thảo luận các vấn đề quốc tế và khu vực nổi bật cùng quan tâm và là diễn đàn cho các nước trình bày quan điểm về tính minh bạch trong chính sách Quốc phòng - An ninh của mình. Hay nói cách khác, mục đích chính của đối thoại là nghiên cứu chính sách quốc phòng và tình hình an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đối thoại Shangri-La tạo cơ hội cho việc trao đổi quan điểm về các vấn đề quốc phòng và cũng tạo ra cơ hội cho việc phát triển các mối quan hệ song phương giữa các nước tham gia Đối thoại và hợp tác nhiều bên theo hướng tích cực. Đối thoại Shangri-La được đánh giá là một trong những sự kiện lớn của khu vực và thế giới, quy tụ được các quan chức quốc phòng hàng đầu của 28 nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc… Tại đây, các Bộ trưởng Quốc phòng trao đổi quan điểm, lập trường và chính sách quốc phòng của mình. Do đó, Đối thoại Shangri-La không chỉ đơn thuần là một hội nghị mà còn là một tiến trình trực tiếp góp phần xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác Quốc phòng - An ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng.

Việt Nam được mời tham dự Đối thoại Shangri-La từ Hội nghị đầu tiên năm 2002.5 Từ chỗ tham gia ở cấp thấp, Việt Nam đã cử quan chức cấp cao hơn tham dự. Tại Shangri-La 12, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự với tư cách khách mời và đã có bài phát biểu khai mạc. Thủ tướng kêu gọi: “Cả khu vực này luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình. Muốn có hòa bình, phát triển, thịnh vượng phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin. Nói cách khác, chúng ta cần chung tay xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á-Thái Bình Dương”. Bài phát biểu của Thủ tướng đã thu hút sự quan tâm của các chính khách, học giả và dư luận quốc tế trong bối cảnh tình hình an ninh khu vực hết sức phức tạp đang xảy ra, đặc biệt là tình hình Biển Đông. Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Ô-xtrây-li-a nhận xét: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhắc đi nhắc lại lòng tin chiến lược đến 17 lần trong bài phát biểu. Điều thú vị là ở đoạn cuối diễn đàn này, lòng tin chiến lược trở thành chủ đề chiếm lĩnh. Tất cả các Bộ trưởng Quốc phòng đều nêu lại vấn đề làm sao để biến nó thành thực tiễn. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thành công trong việc đặt chủ đề lòng tin chiến lược vào nghị trình Shangri-La lần thứ 12 này. Lời phát biểu của Thủ tướng cũng là lời gửi gắm mong muốn các nước nhỏ đồng tâm, đồng hành trong ứng xử; đồng thời kêu gọi lương tâm và trách nhiệm của các nước lớn.

Rõ ràng, ASEAN thống nhất sẽ có thêm sức mạnh và niềm tin để cùng nhau giải quyết mọi khó khăn và thử thách của thời đại, kết hợp lợi ích riêng của từng nước và lợi ích chung của khu vực. Đối với các nước lớn, cạnh tranh là điều bình thường, nhưng không thể chấp nhận những cạnh tranh và tính toán chỉ có lợi cho riêng mình, bất bình đẳng, trái với pháp luật quốc tế, thiếu minh bạch dẫn đến chia rẽ, nghi kỵ và kiềm chế lẫn nhau, ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình, hợp tác và phát triển. Bởi vậy, theo Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Cách tốt nhất để xây dựng lòng tin vẫn là hành động. Các nước phải thực tâm hợp tác, đặc biệt là các cường quốc, thực hiện cam kết đi đôi với hành động, lấy hành động trên thực tế để minh chứng cho trách nhiệm của mình”.6 Cũng tại Đối thoại Shangri-La 12, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nhắc lại đề nghị tăng cường hợp tác về hải quân, cảnh sát biển, biên phòng giữa các nước ASEAN, tăng cường giao lưu văn hóa và thể thao giữa các nước ASEAN, đồng thời nêu sáng kiến: “Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN ký cam kết không sử dụng vũ lực trước để tăng cường sự tin cậy trong ASEAN, từ đó rút kinh nghiệm mở rộng với các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương”.7 Những sáng kiến, đề xuất của Việt Nam tại Đối thoại Shangri-La 12 chứng tỏ vị thế, uy tín của đất nước, của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại các diễn đàn đa phương quốc phòng ngày càng được khẳng định.

Tiếp theo Đối thoại Shangri-La 12, Đối thoại Shangri-La 13 diễn ra trong bối cảnh môi trường an ninh khu vực diễn biến phức tạp như căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên, tranh chấp chủ quyền trên biển Hoa Đông và Biển Đông, đặc biệt là hành động Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã góp phần làm gia tăng sức nóng cho Đối thoại Shangri-La 13. Để quản lý căng thẳng ở khu vực, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh một lần nữa kêu gọi phải xây dựng lòng tin chiến lược và các nước lớn phải có trách nhiệm cao trong việc tạo dựng và củng cố lòng tin. Đại tướng nhấn mạnh: “Lòng tin không chỉ được thể hiện bằng lời nói, mà phải bằng hành động cụ thể, bằng những việc làm thiết thực để thúc đẩy sự minh bạch, đối thoại bình đẳng, cởi mở, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia, tôn trọng luật pháp và các chuẩn mực trong quan hệ quốc tế”.8 Đồng thời, Đại tướng Phùng Quang Thanh bày tỏ, trước những mâu thuẫn, bất đồng, lãnh đạo cấp cao của các nước nên bình tĩnh, kiềm chế, đặt lợi ích của quốc gia trong lợi ích của khu vực và quốc tế, lựa chọn giải pháp hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao. Để xử lý những căng thẳng trong quan hệ giữa các nước, Đại tướng cho rằng: “Quân đội cũng phải hết sức kiềm chế, kiểm soát và quản lý chặt chẽ mọi hoạt động của từng người chỉ huy, người chiến sĩ trong chỉ huy điều khiển vũ khí, trang bị, phương tiện chiến đấu…”.9 Cũng liên quan đến hành động của Trung Quốc đơn phương hạ đặt giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định: “Việt Nam nhất quán chủ trương kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở Luật pháp quốc tế và Thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước Việt-Trung, giữ gìn hòa bình, ổn định an ninh, an toàn hàng hải, hàng không ở Biển Đông, giữ ổn định chính trị để tập trung phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân và giữ gìn quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt-Trung, thông qua con đường đối thoại ở nhiều cấp, nhiều ngành với Trung Quốc để làm giảm căng thẳng hiện nay”.10 Qua bài phát biểu, Đại tướng Phùng Quang Thanh muốn gửi tới lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc cũng như cộng đồng quốc tế thông điệp: Việt Nam luôn tôn trọng và mong muốn gìn giữ mối quan hệ hòa hiếu giữa hai dân tộc và nhân dân hai nước Việt-Trung, Việt Nam luôn đặt lợi ích quốc gia trong lợi ích của khu vực và quốc tế, Việt Nam kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình. Do vậy, Đại tướng đề nghị: “Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cùng Việt Nam đàm phán để giữ được hòa bình ổn định và quan hệ hữu nghị hai nước. Điều đó có lợi cho hai nước, cho cả khu vực và thế giới”.11 Trong bầu không khí căng thẳng tại diễn đàn, đặc biệt khi các đại diện của Mỹ và Nhật Bản đều lên án mạnh mẽ hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông, sự thể hiện lập trường, thái độ kiên quyết nhưng mềm dẻo của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam là hết sức cần thiết, thể hiện rõ bản lĩnh và thiện chí mong muốn hòa bình của Việt Nam, khẳng định Quân đội Nhân dân Việt Nam là Quân đội hòa bình, tự vệ. Đồng thời, lời phát biểu của Bộ trưởng cũng hàm chứa một thông điệp rõ ràng: Điều Việt Nam cần là giữ vững độc lập tự chủ, chủ quyền lãnh thổ, đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Như vậy, thông qua Đối thoại Shangri-La 13, thế giới hiểu rõ hơn về tinh thần yêu chuộng hòa bình của Việt Nam, hiểu rõ hơn sự chính nghĩa và quyết tâm của Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng trên biển.  

Diễn đàn an ninh khu vực (ARF)

Diễn đàn an ninh khu vực được thành lập tháng 7/1994, đến nay diễn đàn có sự tham gia của 27 nước.12 Chủ tịch ASEAN cũng là Chủ tịch ARF và Phó chủ tịch ARF là chủ tịch ASEAN kế tiếp. Ngoại trưởng là cấp cao nhất tham dự, có quyền quyết định về mọi hoạt động của diễn đàn. Diễn đàn được tổ chức hàng năm ngay sau Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN. Giữa hai kỳ họp Bộ trưởng có cuộc họp cấp thứ trưởng (ARF-SOM). Dưới cấp Thứ trưởng là các cuộc họp Nhóm giữa kỳ cấp Vụ trưởng với sự tham gia của các quan chức ngoại giao và quốc phòng để trợ giúp các Ngoại trưởng trong điều hành hoạt động của ARF, gồm: Họp nhóm hỗ trợ giữa kỳ về các biện pháp xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa (ISG&PD), họp giữa kỳ về Cứu trợ thiên tai (ISM-DR), họp giữa kỳ về chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia (ISM-CTTC), họp giữa kỳ về An ninh biển (ISM-MS) và họp nhóm giữa kỳ về không phổ biến vũ khí hạt nhân và giải trừ quân bị (ISM-NPD&D). Hoạt động của ARF được tiến hành theo hai kênh: Kênh I do các cơ quan chính phủ; Kênh II do các viện nghiên cứu chiến lược, các học giả và các tổ chức phi chính phủ thực hiện. 

Nguyên tắc hoạt động của ARF là đồng thuận và tiệm tiến, thoải mái và linh hoạt, tự nguyện và không can thiệp. Mọi quyết định phải trên cơ sở tham khảo ý kiến và được sự đồng thuận của tất cả các thành viên. ARF xác định phát triển theo ba giai đoạn: xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và tiến tới tiếp cận phương cách giải quyết xung đột. Đến nay, ARF đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ xây dựng lòng tin sang ngoại giao phòng ngừa. Cách tiếp cận vấn đề của ARF cũng rất toàn diện, bao hàm hầu hết các khía cạnh của an ninh, từ truyền thống tới phi truyền thống. Các hoạt động của ARF cơ bản dựa trên tập quán và phương thức làm việc của ASEAN. ARF là diễn đàn tham khảo ý kiến cấp cao, cho phép các nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương tăng cường đối thoại và tham khảo ý kiến mang tính xây dựng về các vấn đề An ninh - Chính trị vì mối quan tâm và lợi ích chung. ARF lấy mục đích và nguyên tắc của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) làm quy tắc ứng xử, quản lý quan hệ giữa các nước thành viên và làm công cụ ngoại giao cho việc xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và hợp tác an ninh-chính trị khu vực.

Từ chỗ chủ yếu thảo luận các vấn đề an ninh, ARF đã chuyển sang thảo luận các vấn đề quốc phòng. Do đó, kể từ ARF-3 (1996), các quan chức quân sự-quốc phòng tham gia ngày càng sâu rộng vào hoạt động của ARF. Ban đầu các quan chức quốc phòng chỉ là thành viên trong đoàn dự các cuộc họp của ARF và gặp riêng nhau tại bữa ăn trưa hoặc tối. Sau đó, theo đề nghị cần phải chính thức hóa các cuộc gặp riêng (gặp nhau trước khi ăn) của một số nước, ARF-8 đã nhất trí coi bữa ăn trưa làm việc (working lunch) của các quan chức quốc phòng là hoạt động chính thức của ARF. Tại ARF-9, các thành viên đã thông qua Tài liệu về Đối thoại quốc phòng trong ARF, mở rộng hoạt động của các quan chức quốc phòng thành hội nghị họp - ăn trưa. Từ năm 2004, các quan chức quân sự-quốc phòng đã nâng cấp đối thoại, đều đặn tổ chức Hội nghị Chính sách An ninh ARF (ASPC) bên lề ARF-SOM, cấp Thứ trưởng quốc phòng tham dự. Tại các hội nghị, các quan chức quốc phòng thường xuyên trao đổi về tình hình khu vực và quốc tế, các khía cạnh hợp tác mang tính quân sự và nhất là phương cách tăng cường hợp tác quân-dân sự trong ứng phó với các thách thức về an ninh.

ARF là một trong những diễn đàn khu vực đầu tiên Việt Nam tham gia thành lập, trực tiếp kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau 21 năm tham gia, Việt Nam đã chủ động đề xuất các sáng kiến, tham gia soạn thảo các văn bản, chủ trì thành công nhiều hoạt động của ARF. Các hoạt động này của Việt Nam được các nước trân trọng và đánh giá cao. Những đóng góp cụ thể của Việt Nam cho ARF thể hiện qua những lần chủ trì hoặc đồng chủ trì thành công các hội nghị của Diễn đàn như: ISM-DR 1998-1999, Chủ tịch ARF 2000-2001, ISG-CBM 2001-2002, ISM-CTTC 2008-2009… Việt Nam đã chủ động đề xuất và cùng các nước thực hiện nhiều hội thảo thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong ARF như Hội thảo về thay đổi nhận thức trong chính sách an ninh (Mông Cổ, 2005), Hội thảo về phòng chống dịch cúm gia cầm (Hà Nội, 2006), tập huấn về an ninh mạng (Bru-nây, 2010)… Việt Nam cũng đã đi đầu trong quá trình cải tiến bộ máy, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hợp tác của ARF, những sáng kiến này đang tiếp tục được thực hiện và áp dụng rộng rãi. Việt Nam đã đề xướng, điều hành và chủ trì soạn thảo thành công Kế hoạch Hành động Hà Nội thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn ARF. Kế hoạch này bao quát các lĩnh vực hợp tác của ARF và những bước đi cụ thể cho cả Diễn đàn.

Bên cạnh các cơ chế hợp tác Quốc phòng - An ninh đa phương trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam đã cử hai sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc tại Phái bộ Nam Xu-đăng (6/2014), tiến tới sẽ cử lực lượng công binh và các bệnh viện dã chiến cấp 2 tham gia hoạt động này. Việc sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc là một mốc quan trọng trong việc thực hiện đường lối đối ngoại, chính sách Quốc phòng của Việt Nam, góp phần cùng lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc xây dựng nền hòa bình trên thế giới.

Định hướng hợp tác quốc phòng, an ninh đa phương

Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác cùng phát triển là xu thế chủ đạo, nhưng đồng thời thế giới cũng đang phải đối mặt với hàng loạt các thách thức mới nảy sinh. Tình hình an ninh ở một số khu vực tiếp tục bất ổn, xung đột vũ trang giữa các quốc gia và trong nội bộ từng quốc gia do mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo… vẫn diễn ra, đe dọa đến hòa bình, ổn định của quốc tế và khu vực. Tình trạng chạy đua vũ trang; các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia… có xu hướng gia tăng. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á là khu vực phát triển năng động nhưng cũng là tâm điểm cạnh tranh trong chiến lược của nhiều nước lớn. Trong bối cảnh đó, để nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại Việt Nam nói chung, đối ngoại quốc phòng đa phương nói riêng, Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách quan trọng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định, nước ta tiếp tục “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” và “mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”;13 Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết 22 của Bộ chính trị về “Hội nhập quốc tế”, đặc biệt là Nghị quyết 806 của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Đây là những định hướng quan trọng cho việc hoạch định và triển khai công tác đối ngoại quốc phòng đa phương đi vào thực chất, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Để hợp tác quốc phòng đa phương thực sự có hiệu quả, Việt Nam cần tiếp tục chủ động tham gia một cách có hệ thống vào các cơ chế hợp tác Quốc phòng - An ninh đa phương, trước hết là các cơ chế hợp tác trong khuôn khổ ASEAN. Trong quá trình tham gia cần xác định rõ tầm mức, lộ trình, nội dung, hình thức phù hợp với bối cảnh và chủ trương đối ngoại chung của Đảng, Nhà nước, phục vụ tốt nhất cho mục tiêu giữ vững độc lập tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia, chủ quyền lãnh thổ. Triển khai hợp tác quốc phòng với các nước trong khu vực cần phải với tinh thần trách nhiệm cao, thiết thực, hiệu quả; vừa đáp ứng lợi ích chiến lược của đất nước, vừa đáp ứng được lợi ích chung của khu vực. Trong quá trình tham gia hợp tác quốc phòng, cần chú ý giữ mối quan hệ cân bằng, không ngả theo nước này để chống lại nước kia, tránh để bị hiểu nhầm là ta tham gia vào các tổ chức, hiệp ước để chống lại nước thứ ba. Thông qua các cơ chế, các diễn đàn hợp tác Quốc phòng - An ninh khu vực và quốc tế, Việt Nam cần tiếp tục thể hiện rõ quan điểm, lập trường của mình đối với các vấn đề quốc tế, khu vực; làm cho thế giới, khu vực hiểu rõ hơn chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ và chính nghĩa của Việt Nam; từ đó tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của khu vực và thế giới trong giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích chính đáng của Việt Nam. 

Kết luận

Như vậy, có thể thấy từ chỗ chỉ tham gia ở mức độ nhất định, bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã tham gia hầu hết các cơ chế, diễn đàn hợp tác Quốc phòng - An ninh đa phương trong khu vực một cách chủ động và tích cực. Sự tham gia của Việt Nam không chỉ góp phần củng cố, nâng cao vai trò, vị thế của ASEAN, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN mà còn góp phần nâng cao uy tín, tiềm lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, sự tham gia của Việt Nam đã khẳng định Việt Nam thực sự là một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng khu vực và quốc tế./.

Tác giả ThS. Hoàng Đình Nhàn hiện là Nghiên cứu sinh TS tại Học viện Ngoại giao. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1 (100), tháng 3/2015.

 



1 Bộ Quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam, Nxb. Thế Giới, Hà Nội 2009, tr.29.

2 “Việt Nam kiềm chế để không xảy ra xung đột quân sự trên biển”, TTXVN, ngày 20/5/2014.

3 Nguyễn Huy Hiệu, Quân đội với vấn đề giải quyết hậu quả sau chiến tranh, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 2010, tr.10.

4 Có thể là Tư lệnh lực lượng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh, Tổng Tư lệnh Quân đội - tùy theo cách gọi chức vụ của mỗi nước.

5 Đến nay, Đối thoại Shagri-La đã trải qua 13 hội nghị.

6 “Đối thoại Shangri-La đóng góp cho thúc đẩy hợp tác quốc phòng an ninh vì mục tiêu hòa bình, ổn định khu vực”, Tạp chí Quan hệ Quốc phòng, số 23, quý III/2013.

7 “Đối thoại Shangri-La đóng góp cho thúc đẩy hợp tác quốc phòng an ninh vì mục tiêu hòa bình, ổn định khu vực”, Tạp chí Quan hệ Quốc phòng, số 23, quý III/2013.

8 Trích theo Lương Văn Mạnh , ‘Đối thoại Shangri-La 13 - Ngăn ngừa nguy cơ xung đột vì một châu Á - Thái Bình Dương ổn định và phát triển’, Tạp chí Quan hệ Quốc phòng, Số 27, Quý III, Hà Nội, 2014, tr.7

9   Lương Văn Mạnh, như trên.

10 Trích theo Lương Văn Mạnh: Tlđd.

11 Như trên

12 Gồm 10 nước ASEAN, 10 bên đối thoại của ASEAN (Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Ca-na-đa, EU), Pa-pua Niu Ghi-nê, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên, Pa-ki-xtan, Băng-la-đét, Xri Lan-ca, và Đông Timo.

13 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.233.