Đầu tháng 1/2014 xuất hiện trên mạng Internet đoạn phim tài liệu truyền hình của kênh Truyền hình Trung Ương Trung Quốc (CCTV4) tựa đề “Canh giữ Biên thùy Xanh”, cung cấp chi tiết lịch sử hoạt động của Lực lượng Hải Giám Trung Quốc (CMS) từ khoảng năm 2007 đến nay.

Đoạn phim bắt đầu với cảnh một vụ chạm trán xảy ra ngày 30/6/2007 (trước đây chưa được biết đến) giữa các tàu của Việt Nam và Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông. Ngày 26/6/2007, một tàu khảo sát Trung Quốc thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (CNPC) tiến hành cái gọi là một “hoạt động bình thường” trong vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa. Các hoạt động đó được phía Việt Nam xem là điều không bình thường, vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đánh chiếm từ năm 1974. Hà Nội đã cử một hạm đội gồm phần lớn các tàu phụ trợ hải quân để ngăn chặn không cho Trung Quốc khảo sát trong vùng biển Hoàng Sa. Một cuộc chạm trán căng thẳng xảy ra ngay sau đó, đỉnh cao là một cuộc hải hành liều lĩnh của các tàu Hải Giám Trung Quốc, gây ra một số va chạm nghiêm trọng, đe dọa sự an toàn của tất cả thủy thủ đoàn.

Ban đầu, các tàu của Việt Nam đẩy đuổi tàu khảo sát của CNPC ra khỏi khu vực. Ngay sau đó, Cục Đại dương Nhà nước Trung Quốc (SOA) đã phản ứng bằng tổ chức một chiến dịch “bảo vệ quyền và thực thi pháp luật”, được gọi là Luật Thực thi Hành động 626. Ngoài những tàu Hải Giám đã có mặt trong vùng, SOA cử tàu thêm 2 tàu Hải Giám số hiệu 83 và 51 tới khu vực. Ngày 29/6/2007, các tàu Hải giám Trung Quốc đến Hoàng Sa và lập đội hình “trật tự cảnh báo” với hai tàu cả hai phía trước, phía sau và hai bên của tàu khảo sát CNPC, cố gắng hộ tống nó trở lại hải phận Hoàng Sa lần thứ hai. Sau khi không thuyết phục được các tàu Việt Nam rời khỏi khu vực, các tàu Hải Giám Trung Quốc đã dựng một hàng rào bảo vệ xung quanh tàu CNPC, sau đó bắt đầu cuộc tấn công trên biển. Các cuộc đụng độ bắt đầu bằng việc tiến sát đến Việt Nam, sau đó leo thang bằng việc đâm trực tiếp mũi vào cầu tàu sau của tàu DN 29 của Việt Nam khi tàu này phá vỡ hàng rào bảo vệ tàu khảo sát CNPC. Lệnh tấn công đến trực tiếp từ cấp chỉ huy lực lượng Hải Giám thuộc SOA cho phép các thuyền trưởng hai tàu Hải Giám cố ý đâm vào các tàu Việt Nam. Theo Phó Cục trưởng Cục Biển Đông thuộc SOA cho biết, trong đoạn phim, chính ông ta và các sĩ quan chỉ huy khác đã khá “căng thẳng” vì lo ngại cho sự an toàn cho các thủy thủ đoàn của Trung Quốc, nhưng vẫn “yêu cầu họ tấn công tàu Việt Nam”.

Không phải là thuyền trưởng liều lĩnh hoặc quá hăng say đã hiểu sai hoặc mệnh lệnh không rõ ràng, sự kiện này là bằng chứng cho thấy động lực của những vụ đụng độ là do lệnh của cấp trên từ ban lãnh đạo trung ương ở đại lục Trung Quốc. Thuyền trưởng của các tàu Hải Giám xem đây là chiến thuật thuộc quyền có thể áp dụng, nhưng chỉ khi có lệnh từ cấp chỉ huy. Sỹ quan của SOA được trích lời trong đoạn phim nói rằng “dựa trên kinh nghiệm nhiều năm hoạt động, tấn công dễ dàng hơn nhiều so với phòng thủ.” Những nhận định đó là dấu hiệu rõ rệt về việc ít nhất có một số quan chức cao cấp của SOA thích hành động phủ đầu và SOA (đang đảm nhiệm việc tái cơ cấu lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc) có thể đẩy mạnh học thuyết hoạt động tấn công. Thuyền trưởng tàu Hải Giám số hiệu 84 còn tuyên bố trong đoạn phim: “miễn là có lệnh của cấp chỉ huy dù là va chạm, đụng độ hay đâm thủng (thuyền địch), chúng tôi sẽ kiên quyết thực thi nhiệm vụ.”

Chiến thuật sử dụng trong vụ này gợi nhớ đến các cuộc đụng độ trên biển giữa Mỹ và Liên Xô những năm đầu của Chiến tranh Lạnh và những va chạm gần đây giữa hải quân Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông. Điển hình là vụ tàu khu trục USS Cowpens (Mỹ) bị một tàu đổ bộ Trung Quốc tiến gần sát và buộc phải chuyển gấp hướng đi vào tháng 12/2013. Đoạn phim đáng chú ý không chỉ vì mức độ chi tiết, mà còn vì luận điệu dung túng, ủng hộ của các quan chức Trung Quốc (cho rằng cuộc đụng độ đã “kết thúc vẻ vang” và là “trận đánh tuyệt vời”). Lãnh đạo Trung Quốc coi những vụ việc tương tự đã được giải quyết có lợi cho Trung Quốc, kể cả vụ tranh chấp ở bãi cạn Scarborough năm 2012. Tuy nhiên, phim tài liệu của CCTV cho thấy “Mô hình Scarborough” không có gì mới và khái niệm sử dụng tàu dân sự thực thi pháp luật hàng hải để thực hiện chiến dịch “bảo vệ chủ quyền” hay “bảo vệ quyền lợi” đã hoàn toàn có thể dùng được đã xảy ra trong một thời gian, ít nhất là từ năm 2007.

Những thông tin trên làm sáng tỏ một điểm quan trọng trong cuộc tranh luận rộng lớn hơn về chính sách đối ngoại quyết đoán hơn hoặc thậm chí hung hăng của Trung Quốc và mối liên hệ của nó với chính sách “xoay trục” hay “tái cân bằng” của chính quyền Obama. Dù những dấu hiệu đầu tiên của chính sách ngoại giao quyết đoán này thường được coi là bắt nguồn từ giai đoạn 2009 - 2010, nhưng Trung Quốc đã áp dụng từ năm 2007 để thực hiện một loạt các hành động khiêu khích nhằm khẳng định cái gọi là “quyền chủ quyền và quyền tài phán” của Trung Quốc ở Biển Đông.

Scott Bentley, Chuyên gia nghiên cứu về chiến lược an ninh hàng hải ở Đông Nam Á tại Học viện Quốc phòng Australia. Bài viết được đăng trên The Diplomat.

Văn Cường (gt)