Chiến thuật mà Trung Quốc sử dụng được gọi là chiến thuật “lát cắt salami” (có thể gọi là chiến thuật tích tiểu thành đại): thực hiện hết động thái khiêu khích này đến động thái khiêu khích khác, như thể đang ăn từng miếng salami. Mỗi hành động khiêu khích tăng cường đôi chút vị thế của Trung Quốc nhưng quá nhỏ để phản ứng mạnh mẽ. Nhiều nhà bình luận lập luận rằng Mỹ phải tăng cường ngăn chặn bằng việc đưa ra những cam kết rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn đối với các đồng minh của mình. 

Nhưng Mỹ sẽ không giải quyết vấn đề của mình ở Đông Á bằng việc tuyên bố theo sát bước với các đồng minh của mình. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ thay vào đó nên nhìn vào một trường hợp trước đó mà Mỹ đã xử lý thành công: Tây Berlin trong Chiến tranh Lạnh. Trong trường hợp đó, một cường quốc – Liên Xô – cũng thúc đẩy, gây áp lực, và tìm cách chia rẽ Mỹ với các đồng minh nước này. Washington đã giải quyết vấn đề bằng cách giữ vững lập trường trước cả hai phía. Chính quyền Kennedy đã làm rõ các lợi ích sống còn mà nước này phải đấu tranh để bảo vệ, trong khi giải thích cho đồng minh Tây Đức của mình rằng Mỹ không chiến đấu để đạt được mọi mục tiêu của Đức bằng cách đối đầu.

“Lợi thế hơn người”

Trong những năm tới, các tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng sẽ tạo ra căng thẳng, khủng hoảng và có thể là xung đột ở Đông Á. Ở Biển Đông, Bắc Kinh khẳng định chủ quyền đối với một khu vực (được bao quanh bởi cái được gọi là đường 9 đoạn) trong đó 6 nước gần đó – Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan, và Việt Nam – duy trì những tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cạnh tranh của họ. Ở biển Hoa Đông, Trung Quốc đã yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Senkaku do Nhật Bản kiểm soát (quần đảo Trung Quốc gọi là Điếu Ngư).

Việc giải quyết các tranh chấp này thông qua đàm phán tỏ ra là khó khăn; các nước có liên quan đã gây ra tình trạng lộn xộn rắc rối về những tuyên bố chủ quyền hợp pháp và lịch sử cạnh tranh nhau, và những hòn đảo nhỏ tranh chấp đã trở thành một lời kêu gọi hiệu triệu đối với các nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc. Hơn nữa, nhiều lãnh thổ tranh chấp có nguồn cá dồi dào và được cho là nằm gần những điểm có nguồn dầu lửa và khí đốt tự nhiên đáng kể.

Những tranh chấp này đã tăng lên trong những năm gần đây. Chẳng hạn, ở biển Đông, Trung Quốc vào tháng 5 đã bắt đầu khoan tìm dầu ở các vùng biển Việt Nam tuyên bố chủ quyền, và các tàu vũ trang thuộc Lực lượng Bảo vệ bờ biển Trung Quốc đã đe dọa các tàu Việt Nam tiếp cận khu vực này. Một tàu Trung Quốc đã gần va chạm với một tàu Mỹ, tàu U.S.S. Cowpens, vào tháng 12/2013. Kể từ năm 2012, Bắc Kinh đã ngăn không cho Philippines vào Bãi cạn Hoàng Nham tranh chấp; nước này hiện nay cũng đang tìm cách đẩy Philippines ra khỏi vị trí hiện diện không chắc chắn của họ ở Bãi cỏ mây.

Biển Hoa Đông cũng ngày càng nguy hiểm. Trong một vài năm qua, Nhật Bản đã liên tục cho cất cánh các máy bay chiến đấu để tự bảo vệ mình trước sự xâm lấn bằng không quân của Trung Quốc vào vùng lãnh thổ tranh chấp. Năm ngoái, một tàu Trung Quốc đã chặn rađa hướng dẫn vũ khí trên một tàu khu trục của Nhật Bản. Trung Quốc cũng đã cho một máy bay không người lái bay trên đảo Senkaku (Điếu Ngư), gây ra các cuộc phản kháng ở Nhật Bản và một mệnh lệnh từ thủ tướng nước này bắn hạ những máy bay không người lái đã tảng lờ những cảnh báo rời khỏi không phận của Nhật Bản. Bắc Kinh đã nói rằng nước này xem hành động như vậy là “một hành động chiến tranh”, mà nước này sẽ trả đũa bằng “hành động quyết đoán”.

Khi những tranh chấp lãnh thổ ở Đông Á nóng lên, các liên minh của Washington với Nhật Bản và Philippines gây ra nguy cơ kéo Mỹ vào một cuộc chiến tranh khu vực. Đây là một tiến triển mới; trong Chiến tranh Lạnh, nguy cơ vướng vào những liên minh như vậy đã đi theo chiều hướng khác. Bởi vì Nhật Bản và Phillippines đã cho Mỹ đặt các căn cứ quân sự quan trọng về mặt chiến lược, những nước đã nhận thấy đang nằm trong tầm ngắm của Liên Xô. Những cuộc khủng hoảng diễn ra thường xuyên giữa các siêu cường về Berlin, Cuba và Đài Loan, đã đe dọa leo thang thành cuộc chiến tranh mà có cả các đòn tấn công bằng vũ khí hạt nhân chống lại lãnh thổ của Nhật Bản và Philippines. Hơn nữa, Tokyo đã phải đối mặt với áp lực không ngừng từ Washington phải tăng cường vai trò của mình trong liên minh và tham gia các cuộc phiêu lưu quân sự của Mỹ ở những nơi như Bán đảo Triều Tiên, Việt Nam và Vùng Vịnh.
Tuy nhiên, ngày nay chính người Mỹ là những người lo sợ về việc bị vướng vào một cuộc chiến tranh không mong muốn có khả năng gây tàn phá với Trung Quốc. Do sự thay đổi sâu sắc này, không ngạc nhiên khi các đồng minh của Mỹ nghi ngờ cam kết của Mỹ đối với an ninh của họ. Chẳng hạn, vào tháng 3, tờ Asahi Shimbun của Nhật Bản đã thảo luận về việc những căng thẳng xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư gia tăng như thế nào đã làm cho nhiều nhà quan sát Nhật Bản nói về “sự không đáng tin cậy của đồng minh chính của Nhật Bản”.

Đáp trả những hoài nghi như vậy, Washington đã lặp đi lặp lại cam kết của mình đối với an ninh Nhật Bản theo nghĩa rộng. Tổng thống Barack Obama và các quan chức Mỹ khác đã tuyên bố rằng mặc dù Washington không đưa ra quan điểm về chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, sự đảm bảo về an ninh mà nước này dành cho Nhật Bản sẽ áp dụng với các đòn tấn công nhằm vào quần đảo này bởi vì nó “nằm dưới sự quản lý của Nhật Bản”. Ở Biển Đông, Washington đã tuyên bố tương tự rằng có quan điểm trung lập về những yêu sách lãnh thổ, nhưng nước này không tuyên bố sẽ ủng hộ Philippines về mặt quân sự trong trường hợp xung đột.

Cách tiếp cận này chỉ mang lại nhiều thách thức hơn. Việc đơn giản là tuyên bố rằng Mỹ sẽ bảo vệ các khu vực nằm dưới sự quản lý của Nhật Bản không giải quyết được vấn đề chiến lược cốt lõi mà Washington và Tokyo phải đối mặt – Trung Quốc vẫn có thể sử dụng chiến thuật “tích tiểu thành đại” để quấy rối và khiêu khích. Ở Washington, những động thái như vậy sẽ đơn giản được xem là những hành động gây nhũng nhiễu; nhưng ở Tokyo, chúng sẽ bị nhìn nhận là những hành động xâm phạm nhằm vào lãnh thổ Nhật Bản, và sẽ tiếp tục gây ra những hoài nghi trong người Nhật Bản rằng người Mỹ có thể không bảo vệ họ. Do đó, liên minh này sẽ yếu đi.

Vụ việc Berlin

Tất cả những việc này có vẻ quen thuộc. Tình thế khó khăn của Mỹ ở Đông Á gợi lại cuối những năm 1950, khi người Xôviết và đồng minh Đông Đức của họ bắt đầu thách thức quyền tiếp cận của phía Tây đối với những con đường cao tốc (Autobahn) nối liền Cộng hòa Liên bang Đức với thành phố bị cô lập Tây Berlin. Người Tây Đức đã coi những hành động này là mối đe dọa khủng khiếp đối với tuyên bố chủ quyền của họ ở Tây Berlin và niềm hy vọng của họ về sự thống nhất đất nước cuối cùng. Vì vậy, các quan chức Tây Đức đã coi việc duy trì sự tiếp cận với Autobahn như là phương tiện chủ chốt “đo” độ tin cậy và giá trị của NATO. 

Ở một thời điểm trong cuộc khủng hoảng, người Xôviết đã yêu cầu các đoàn xe của khối Đồng minh trình những giấy tờ có đóng dấu của lực lượng bảo vệ biên giới Đông Đức (thay vì Liên Xô). Các quan chức Tây Đức nói rằng việc cho phép Đông Đức đóng dấu lên giấy tờ đã mang lại cho nhà nước Đông Đức sự công nhận trên thực tế, và ám chỉ rằng Đông Đức có thể quyết định không cho phép sự tiếp cận với những con đường này trong tương lai. Tây Đức, được một số quan chức cấp cao của Mỹ ủng hộ, đã tuyên bố rằng vấn đề dường như ít quan trọng này là trọng tâm đối với sự tín nhiệm của NATO, và rằng Mỹ phải có lập trường kiên định – đến mức đánh liều những cái gì sẽ là một cuộc chiến tranh hạt nhân.

Sau những tháng tranh cãi với các đồng minh của mình, Chính quyền Kennedy nói không với cả người Xôviết lẫn Tây Đức. Những lợi ích cốt lõi của các đồng minh (theo cách nói của tổng thống là “sự hiện diện của chúng ta ở Berlin, và sự tiếp cận của chúng ta với Berlin”) là không thể đàm phán, và Mỹ sẽ chiến đấu nếu cần thiết để bảo vệ chúng. Tuy nhiên, như một quan chức chính phủ cấp cao đã giải thích, Mỹ “không sẵn sàng mạo hiểm gây ra cuộc chiến tranh về các con dấu”. Việc liệu người Xôviết muốn đóng dấu vào giấy tờ bằng dấu đỏ hay dấu xanh, sao thành hai bản hay ba bản, hay nếu họ muốn lính bảo vệ người Xôviết, Đông Đức hay bất cứ nước nào khác đóng dấu, là không liên quan.

Tây Đức ban đầu không hài lòng. Nhưng quan điểm rõ ràng và hợp lý của Mỹ về Berlin, đã được nhấn mạnh bằng quân tăng viện mà Kennedy ngay lập tức đã cử đến châu Âu, về cơ bản đã chấm dứt một lần và mãi mãi cuộc khủng hoảng kéo dài – và chiến thuật “tích tiểu thành đại” của Liên Xô ở đó. Và bằng việc phân biệt các vấn đề cốt lõi và các vấn đề mang tính tượng trưng, Mỹ đã đặt nền tảng cho một liên minh mạnh mẽ hơn: một liên minh trong đó mỗi bên tin rằng đối tác của mình sẽ chiến đấu khi cần thiết, bởi vì liên minh này được xây dựng trên cơ sở chia sẻ những lợi ích sống còn, chứ không phải dựa trên những biểu tượng mà về cơ bản chỉ quan trọng đối với một phía. 

Ngày nay, ở Đông Á, thách thức đối với Washington là phân biệt những lợi ích sống còn của Mỹ với các con dấu – và truyền đạt những sự phân biệt đó tới các đồng minh và đối tác của Mỹ. Có một cách có thể thực hiện được:

Ở biển Hoa Đông, Mỹ đã tự cam kết bảo vệ lãnh thổ nằm dưới sự quản lý của Nhật Bản, bao gồm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Những hành động khiêu khích của Trung Quốc – như việc cho máy bay bay trên vùng trời quần đảo này hay cử các tàu đi qua những vùng biển tranh chấp – là những hành động gây khó chịu. Chúng không mang lại cho Bắc Kinh những lợi ích vô hạn của quyền sở hữu. Nhưng nếu Trung Quốc có ý định xây dựng các cấu trúc dân sự và quân sự trên những quần đảo này, cắm quân hay thiết lập các khu định cư, hay bòn rút các nguồn tài nguyên từ quần đảo này, Bắc Kinh sẽ là đang chiếm những tài sản mà Nhật Bản cho rằng thuộc quyền sở hữu của mình. Chẳng hạn, nếu Trung Quốc có ý định xây dựng một bến tàu trên một đảo thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, Mỹ nên giúp Nhật Bản khiến việc đó không xảy ra – giống như sẽ là vậy nếu Trung Quốc xây dựng một bến tàu trên đảo Okinawa.

Tình hình là khác ở biển Đông, khi Washington không hứa hẹn bảo vệ những tuyên bố chủ quyền của Philippines ở đó. Liệu liên minh Mỹ-Philippines có đủ quan trọng để biện minh cho sự đảm bảo của Mỹ đối với những yêu sách chủ quyền của Manila hay không vẫn là một câu hỏi để ngỏ. Nhưng người ta có thể còn phân biệt được những vấn đề mang tính biểu tượng với những lợi ích quan trọng của Mỹ khi đề cập đến những yêu sách chủ quyền của Philippines ở biển Đông. Khi Bắc Kinh quấy rối các tàu của Philippines, thì đó là điều đáng tiếc. Nhưng khi Trung Quốc tìm cách gặt hái những lợi ích của quyền sở hữu – chẳng hạn bằng việc thiết lập các khu định cư và khai thác các nguồn tài nguyên – thì nước này vượt qua một ngưỡng cửa quan trọng.

Sự hiểu biết sâu sắc then chốt ở đây không phải là cái gì tạo thành những lợi ích cốt lõi so với những con dấu – mà đơn giản là Washington phải phân biệt hai vấn đề đó. Ngày nay, điều đã trở thành tầm thường cũ rích là các học giả lập luận rằng mọi thứ đều có ý nghĩa quan trọng, mọi thứ được kết nối với nhau, và có nhiều chiều hướng xấu. Nhưng mọi việc không có tầm quan trọng ngang bằng nhau. Sự tài giỏi trong cách tiếp cận của Chính quyền Kennedy với Berlin là nó đồng thời vô hiệu hóa chiến thuật “tích tiểu thành đại” của Liên Xô và củng cố liên minh của Mỹ với Tây Đức. Cuộc trò chuyện chân thật giữa Mỹ và các đối tác ở Đông Á tương tự có thể củng cố các mối quan hệ của họ - trong khi cản trở những nỗ lực của Trung Quốc chia rẽ họ./. 

Bài viết của tác giả Jenifer Lind đăng trên Foreign Affairs

Duy Anh (gt)