Khi Trung Quốc đối đầu với Nhật Bản, Việt Nam, Philippines và các nước láng giềng khác trên vùng biển tranh chấp, đánh giá chung cho rằng tài nguyên thiên nhiên là động lực khiến Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết vùng Biển Đông. Việc đưa giàn khoan của Trung Quốc vào vùng biển tranh chấp xung quanh Hoàng Sa - một hành động chưa từng có của Trung Quốc - càng củng cố quan điểm cho rằng năng lượng là mục tiêu chính của những tranh chấp này.

Tuy nhiên việc theo đuổi dầu khí ở các vùng biển ở đông và nam Trung Quốc chỉ đơn giản là một biểu hiện của một cuộc xung đột cơ bản hơn về chủ quyền trong khu vực. Trung Quốc thực hiện chiến lược nhiều chiều để khẳng định sự thống trị của mình đối với các khu vực biển tranh chấp như tăng cường khả năng quân sự, nghiên cứu cơ sở lịch sử để ủng hộ các tuyên bố của Trung Quốc, thực hiện các hoạt động ngoại giao để ngăn các nước Đông Nam Á  không đoàn kết chống lại Trung Quốc. Một chiến thuật Trung Quốc hay sử dụng gần đây khẳng định chủ quyền thông qua các hoạt động bình thường trong khu vực tranh chấp như trong lãnh thổ của mình - ví dụ như tìm kiếm năng lượng và xây dựng hạ tầng.

Tại sao năng lượng không phải là động lực chính cho tranh chấp? Cụm từ “giàu tài nguyên” đã được sử dụng nhiều để mô tả vùng biển Đông nhưng sự thật là ít có các hoạt động thăm dò tại các khu vực tranh chấp xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nên thực sự là không có cách nào để biết được là có bao nhiêu dầu khí nằm dưới đáy biển. Báo cáo năm 2013 của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) có nêu “khu vực tranh chấp Biển Đông ít khả năng có tài nguyên dầu khí”.

Là nước nhập khẩu năng lượng lớn nhất thế giới, Trung Quốc muốn phát triển các nguồn năng lượng toàn cầu. Do tính chất của thị trường năng lượng toàn cầu, bất kỳ nguồn năng lượng được phát triển đều góp phần làm tăng cung cấp năng lương toàn cầu lớn hơn và giảm giá tiền mua năng lượng tiêu dung. Điều này có lợi trực tiếp cho Trung Quốc với vị trí là nhà tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới. Nói cách khác, nếu năng lượng là mối quan tâm thực sự của Bắc Kinh, ngăn cản các quốc gia phát triển các nguồn tài nguyên dầu khí của họ - là tự hại mình. Có nhiều cách dễ dàng hơn để mua năng lượng trong thế kỷ 21 hơn là việc chiếm lãnh thổ hoặc bắt đầu xung đột với các nước láng giềng của mình.

Trung Quốc không phải là nước nghèo tài nguyên: Trung Quốc là nhà sản xuất dầu lớn thứ tư thế giới, có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất Châu Á và trữ lượng khí đá phiến lớn nhất thế giới. Việc Trung Quốc là nhà nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới là do nhu cầu lớn trong nước. Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn có thể tự cung cấp 90 phần trăm nhu cầu năng lượng.

Phát triển các nguồn tài nguyên của Biển Đông hay Biển Hoa Đông sẽ hầu như không thay đổi tình hình năng lượng của Trung Quốc. Trung Quốc là động lực chính cho sự tăng trưởng về nhu cầu năng lượng và hầu hết các nguồn năng lượng mới được khai thác đều chủ yếu là cho Trung Quốc. Nói cách khác, Trung Quốc không cần phải gây chiến để đảm bảo nguồn cung năng lượng; đơn giản là Trung Quốc có thể mua từ các nhà cung cấp trên thị trường toàn cầu.

Từ đó có thể thấy tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc là về chủ quyền chứ không phải là năng lượng. Nếu năng lượng là động lực chính, các tranh chấp này sẽ dễ dàng hơn nhiều vì các nguồn năng lượng là có thể chia sẻ nhưng chủ quyền thì không. Vì vậy nên xem tình hình Biển Đông và Biển Hoa Đông qua lăng kính chủ quyền chứ không phải là năng lượng. Chỉ như vậy thì mới thấy rõ lý do hơn tại sao các nỗ lực khai thác chung nhiều khả năng sẽ thất bại.

Theo Foreign Policy

Văn Cường (gt)