Thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông là cố ý và có hệ thống. Nó là kết quả có chủ ý của nền chính trị quan liêu và sự phối hợp kém. Theo Oriana Skylar Mastro, thành viên Trung tâm An ninh Mỹ mới, những hành động hiếu chiến gần đây của Trung Quốc cho thấy "sự hợp tác hỗ trợ mang tính điển hình, sự kiểm soát về dân sự, quân sự, và sự hài hòa giữa các mục tiêu chính trị, kinh tế và quân sự." Bắt nạt và hăm dọa là hình mẫu rõ ràng và là bằng chứng của một quyết định từ giới lãnh đạo chóp bu nhằm leo thang nền ngoại giao cưỡng chế của Trung Quốc. Điều này không chỉ liên quan đến Philíppin và Việt Nam, mục tiêu chính trong các nỗ lực cưỡng chế của Trung Quốc, mà còn cho tất cả các bên có lợi ích trong khu vực, trong đó có Mỹ. 

Đầu tiên, hành động coi thường quy định và luật pháp quốc tế của Trung Quốc làm nảy sinh tâm lý lo ngại. Bắc Kinh cố tình từ chối tuân thủ thỏa thuận miệng với Manila về việc rút tàu thuyền của nước này ra khỏi khu vực xung quanh bãi cạn Scarborough , thiết lập một hiện trạng mới có lợi cho Trung Quốc. Nước này cũng duy trì tuần tra thường xuyên và không cho ngư dân Philíppin đánh bắt cá trên những vùng biển này. Không có quốc gia nào kể cả Mỹ công khai lên án hành động này. Điều này đã tạo một tiền lệ nguy hiểm cho các cuộc đàm phán trong tương lai. 

Thứ hai, Trung Quốc ngày càng sử dụng sức mạnh kinh tế để buộc các nước phải thay đổi chính sách của mình. Hành động kiểm dịch trái cây nhập khẩu từ Philíppin để gây sức ép buộc nước này phải nhường lại quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough là sự vi phạm trắng trợn các quy định quốc tế. Để che đậy hành động này, các quan chức hải quân Trung Quốc tuyên bố một cách vô căn cứ rằng trái cây bị nhiễm khuẩn. Nền kinh tế Philíppin bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau tuyên bố trên do nước này xuất khẩu gần 1/3 sản lượng chuối sang Trung Quốc, cũng như các loại trái cây khác như đu đủ, dứa, xoài, và dừa. Ngoài ra, các công ty du lịch Trung Quốc cho hủy các chuyến bay thuê về du lịch đến Philíppin với lý do sự an toàn của khách du lịch Trung Quốc bị đe dọa bởi "các cuộc biểu tình chống Trung Quốc." 

Đây chỉ là một ví dụ cho thấy xu hướng dùng kinh tế để gây áp lực ngày càng tăng của Trung Quốc. Tháng 9/2010, Trung Quốc đã dừng các chuyến tàu chở đất hiếm sang Nhật Bản để trả đũa Tôkyô giam giữ thuyền trưởng một tàu đánh cá của Trung Quốc trong một vụ việc xảy ra gần quần đảo Senkaku. Cuối năm đó, sau khi giải Nobel Hòa Bình được trao cho nhà bất đồng chính kiến người Trung Quốc Lưu Hiểu Ba, nước này đã sử dụng nhiều biện pháp để trừng phạt Na Uy, mặc dù Ủy ban Nobel - độc lập với Chính phủ Na Uy - mới là cơ quan đưa ra quyết định trao giải. Trung Quốc đã dừng các cuộc đàm phán thương mại với Ôxlô, đồng thời áp đặt kiểm dịch đối với cá hồi nhập khẩu từ Na Uy. Các quyết định trên khiến lượng cá hồi Na Uy xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 60%, ngay cả khi nhu cầu cá hồi của Trung Quốc tăng 30%. Bắc Kinh cũng tạm dừng các trao đổi ngoại giao thông thường với Na Uy, cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa nối lại. Bắc Kinh xem đây là những thành công ngoại giao. Chiến thuật này chắc chắn sẽ được sử dụng nhiều lần nữa. Trung Quốc có thể gây ảnh hưởng lên một số nước lệ thuộc vào thương mại với Trung Quốc. 

Thứ ba, việc Trung Quốc từ chối một khuôn khổ dựa trên các luật lệ có thể kiềm chế các hành động của tất cả các bên là nguyên nhân gây nên lo ngại. Bắc Kinh tính toán rằng thời gian đang đứng về phía họ. Tại sao phải ký thỏa thuận ràng buộc bản thân ngay bây giờ khi mà đòn bẩy của nước này vẫn đang tiếp tục phát triển. Trong tương lai, Trung Quốc không chỉ là cường quốc kinh tế mà còn là cường quốc chính trị và quân sự. Theo lời của các nhà ngoại giao Trung Quốc, các nước khác, dù lớn hay nhỏ, buộc phải thích ứng với sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như tôn trọng "lợi ích cốt lõi và mối quan tâm lớn" của Bắc Kinh. Trong bối cảnh Trung Quốc sẵn sàng không tuân theo Bộ quy tắc ứng xử và hoàn toàn không quan tâm đến lợi ích của các nước, thì việc các nước có tranh chấp sử dụng quân sự để bảo vệ lợi ích của họ là không thể loại trừ. 

Sau Đại hội Đảng lần thứ 18 vào mùa Thu năm nay và Quốc vụ viện (chính phủ) mới được thành lập vào đầu năm tới, những hành động kiên quyết về chủ quyền như trên có thể sẽ tiếp diễn. Việc chuyển giao quyền lực ở Trung Quốc chỉ xảy ra một lần mỗi thập niên, và lần chuyển giao tới đặc biệt quan trọng trong bối cảnh sức mạnh của Trung Quốc gia tăng đáng kể. Giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ tích cực bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Lập trường cứng rắn của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông đã được gây dựng từ lâu. Các nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc chắc chắn nhận thức được rủi ro nếu tiếp tục củng cố lập trường này, nhưng sự cám dỗ là không thể cưỡng lại được vì những bước đi như vậy sẽ thúc đẩy tính hợp pháp của bộ máy lãnh đạo mới. 

Tập Cận Bình, có khả năng kế nhiệm Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, được cho là tự tin hơn so với ông Hồ Cẩm Đào 10 năm trước đây. Nếu Hồ Cẩm Đào trưởng thành khi Trung Quốc còn khó khăn thì Tập Cận Bình lớn lên trong thời kỳ cải cách và mở cửa với thế giới bên ngoài, và tin rằng Trung Quốc đang lớn mạnh nhanh chóng. Với niềm tin rằng khoảng cách quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ được thu hẹp, Tập Cận Bình sẽ bảo vệ lợi ích của Trung Quốc trên trường quốc tế, đặc biệt trong các vấn đề được cho là "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc, bao gồm cả vấn đề Biển Đông. 

Ở một mức độ nào đó, các cuộc tranh luận học thuật ở Trung Quốc đã bị tác động trong thời gian chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi lãnh đạo ở nước này. Các quan điểm trái ngược trong các vấn đề nhạy cảm bị coi là dấu hiệu rạn nứt trong nội bộ Đảng, do đó không được khuyến khích trước thời điểm tổ chức Đại hội. Tuy nhiên, những cuộc tranh luận kiểu này có thể sẽ bùng nổ vào đầu năm tới, làm gia tăng áp lực lên giới lãnh đạo Trung Quốc trong việc bảo vệ lợi ích của nước này. 

Theo các nhà phân tích của Trung Quốc, Bắc Kinh đã rút ra kết luận rằng chính sách đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông của cố Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình là không thành công. Theo chính sách đó, trong khi chủ quyền đối với phần lớn Biển Đông thuộc về Trung Quốc thì cần gác lại tranh chấp và tăng cường cùng nhau khai thác. Người Trung Quốc cho rằng trong khi Trung Quốc kiềm chế không khai thác dầu khí ở vùng biển tranh chấp thì các nước khác không làm như vậy. Chính sách mới vẫn chưa xuất hiện và có khả năng hoãn đến sau khi chuyển đổi lãnh đạo, nhưng gần như chắc chắn rằng chính sách mới sẽ cứng rắn hơn. 

Chính quyền Obama đã đề ra một số nguyên tắc hướng dẫn cách ứng xử ở Biển Đông. Tháng 7/2010, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã kêu gọi "một tiến trình ngoại giao hợp tác của tất cả các bên tranh chấp nhằm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ mà không cần cưỡng chế." Bà nói rằng Mỹ phản đối bất kỳ bên tranh chấp nào sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực kêu gọi tự do thương mại, hàng hải và tiếp cận các vùng biển chung của châu Á. Theo Ngoại trưởng H. Clinton, các tuyên bố chủ quyền của các bên tranh chấp cần phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển , và thúc giục tất cả các bên đạt được thỏa thuận về một Bộ quy tắc ứng xử trên biển. 

Điều quan trọng là Mỹ tuân thủ các nguyên tắc này và chỉ trích bất cứ bên nào hành động trái nguyên tắc. Khách quan và công bằng sẽ mang lại sự tín nhiệm cho chính sách của Mỹ. Không còn nghi ngờ rằng hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông là nghiêm trọng nhất. Ngày 3/8, Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra tuyên bố liên quan vấn đề Biển Đông, trong đó chỉ rõ rằng các hành động của Trung Quốc là "nguy cơ gây căng thẳng leo thang ở khu vực". Tuyên bố trên được đưa ra sau khi Hội nghị Bộ trưởng ASEAN tổ chức tại Campuchia kết thúc mà không đưa ra được thông cáo chung. Một số nước Đông Nam Á đã ủng hộ tuyên bố của Mỹ. Tuy nhiên, sự gia tăng căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc sau tuyên bố trên đã làm một số nước Đông Nam Á lo ngại và kêu gọi Mỹ có những hành động ngoại giao. Những bước đi sai lầm của Mỹ đã tạm thời làm giảm chứ không phải tăng cường hiệu quả của nước này như là một lực lượng cân bằng đối với Trung Quốc. 

Thời gian tới, Mỹ cần theo sát cách tiếp cận có tính nguyên tắc trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông của mình, đồng thời duy trì vị trí trung lập trong những tranh chấp trên. Ngoài ra, Mỹ cần nhấn mạnh rằng lợi ích chung giữa Mỹ và các nước khác theo các tiêu chuẩn quốc tế đang bị đe dọa bởi các chính sách quyết đoán của Trung Quốc. Mỹ cũng cần thúc đẩy một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong việc giải quyết các tuyên bố và tranh chấp ở Biển Đông. Điều đó có nghĩa là thúc giục tất cả các bên có các tuyên bố chủ quyền theo Công ước quốc tế về luật biển - một văn bản mà Mỹ cũng nên phê chuẩn nhằm tăng cường hiệu quả các nỗ lực của mình.

Mỹ cần tiếp tục khuyến khích Trung Quốc và ASEAN đàm phán về một bộ quy tắc ứng xử, trong đó bao gồm một cơ chế giải quyết tranh chấp. Các nước nhỏ trong khu vực lo ngại rằng Mỹ và Trung Quốc có thể bắt tay với nhau và đi ngược lại lợi ích của các nước này. Mỹ cần giải tỏa lo lắng trên và tiếp tục phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong việc đảm bảo ổn định ở khu vực. Cuối cùng, Mỹ cần tiếp tục tăng cường tham gia các cam kết kinh tế, ngoại giao và quân sự ở Đông Á. Tái cân bằng các ưu tiên chiến lược của Mỹ ở châu Á là điều cần thiết để đảm bảo hòa bình và ổn định ở khu vực. 

Theo Foreign Policy

Trần Quang (gt)