Thương mại phụ thuộc vào trật tự trên biển, nhưng việc duy trì nó hoàn toàn không dễ dàng

Những người thường xuyên qua lại giữa hạt Marin và San Francisco ở Bắc California đang dần quen với một cảnh tượng mới trong giờ cao điểm. Những con tàu to lớn và cồng kềnh chở công-ten-nơ, mang cờ và tên Trung Quốc, “quần” dọc bên dưới cây cầu Golden Gate tráng lệ. Chúng chở hàng hóa vào trong cảng Oakland – và đưa thâm hụt thương mại của Mỹ trở lại. Bất kỳ du thuyền nào chạy quanh vịnh này đều giữ khoảng cách an toàn với chúng.

Đây là Trung Quốc với tư cách là một cường quốc Thái Bình Dương, một cường quốc thương mại chứ không phải là một cường quốc hải quân. Theo số liệu thống kê được thu thập bởi Michael McDevitt, một thiếu tướng hải quân đã nghỉ hưu thuộc Trung tâm Phân tích Hải quân của Mỹ, giờ đây Trung Quốc là nước đóng tàu lớn nhất thế giới; có đội thương thuyền quốc gia lớn thứ ba, và cho đến nay có số lượng lớn nhất các tàu có quốc kỳ tung bay; và tự hào về một đội tàu đánh cá với 695.000 nhân lực. Nó chiếm khoảng một phần tư thương mại vận chuyển bằng công-ten-nơ của thế giới. Và gần như toàn bộ các hộp thép được vận chuyển trên các đại dương của thế giới cũng đều được sản xuất tại Trung Quốc.

Phần lớn an ninh thương mại xuyên Thái Bình Dương như nói trên là quà tặng của Mỹ. Trung Quốc “hưởng miễn phí” sự bảo vệ mà Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, có căn cứ tại Trân Châu Cảng, Hawaii, đem lại, vì vậy nước này hưởng lợi từ việc Mỹ thi hành các quy tắc hoạt động trên biển. Nhưng ở Tây Thái Bình Dương, Trung Quốc đã hành xử khiêu khích đối với một số đồng minh trung thành của Mỹ, thách thức các giới hạn của luật biển quốc tế.

Thách thức ngầm đó thường xuất hiện trong những bài phát biểu của các quan chức Mỹ. Cho dù là dân sự hay quân sự, họ sử dụng phép ẩn dụ so sánh với mặt đất một cách khác thường khi thảo luận về vai trò lãnh đạo của Mỹ trong vùng biển lớn nhất thế giới này. Họ nói đây chủ yếu liên quan đến việc thực thi “các luật giao thông”. Một bộ nguyên tắc như vậy là những quy định về thương mại mà Mỹ hy vọng có thể đổi mới thông qua Hiệp định quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Một bộ nguyên tắc khác là về an ninh hàng hải, đặc biệt là tại các tuyến đường biển đi qua các vùng lãnh hải tranh chấp ở nơi mà Trung Quốc gọi là “các vùng biển gần” của nước này. Mỹ lập luận rằng để bảo vệ những tuyến đường thương mại quan trọng đó, bất kỳ cuộc tranh chấp lãnh thổ nào cũng nên được giải quyết theo luật pháp quốc tế, chứ không phải bằng vũ lực và sự hăm dọa. Daniel Russel, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nói rằng nếu không làm vậy thì đó là một thế giới nguy hiểm nơi “lẽ phải thuộc về kẻ mạnh”.

Tuy nhiên, như Henry Kissinger viết trong cuốn sách mới của mình, “Trật tự Thế giới”, Trung Quốc không nhất thiết phải thừa nhận những nguyên tắc theo cách mà Mỹ đã làm: “Khi được hối thúc tuân thủ ‘các luật chơi’ và ‘trách nhiệm’ của hệ thống quốc tế, thì phản ứng theo cảm tính của nhiều người Trung Quốc – bao gồm cả các nhà lãnh đạo cấp cao – đã bị ảnh hưởng một cách sâu sắc bởi nhận thức rằng Trung Quốc đã không tham gia việc đặt ra các nguyên tắc của hệ thống này”.

Ông Kausikan thuộc Bộ Ngoại giao Singapore đi xa hơn nữa. Ông nói rằng tất cả người Trung Quốc đều ý thức được 100 năm xâm lược của các cường quốc phương Tây và Nhật Bản mà nước họ đã phải chịu đựng trước năm 1949. Ông nói: “Điều không bao giờ thực tế là mong đợi Trung Quốc trở thành một ‘cổ đông có trách nhiệm’ trong một trật tự khu vực và toàn cầu, một trật tự mà nước này không có tiếng nói trong việc thiết lập và trật tự mà Trung Quốc quy trách nhiệm cho một thế kỷ bị nhục mạ”.

Các quan chức Mỹ thừa nhận rằng Trung Quốc tuân theo nhiều quy tắc toàn cầu, đặc biệt là những quy tắc thương mại mà nước này đã ký kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001. Nhưng đặc biệt là trong khu vực lân cận của họ, Trung Quốc đang thách thức những quy tắc và quy phạm – bao gồm cả một số quy tắc mà nước này tán thành một cách rõ ràng – đó chính là các quy tắc và quy phạm đã giữ an toàn cho các vùng biển này kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Chẳng hạn, vào năm 2002 Trung Quốc đã ký một hiệp ước với các nước láng giềng trong ASEAN đồng ý dàn xếp những tranh chấp hàng hải ở Biển Đông một cách hòa bình và theo luật pháp quốc tế, ví dụ như Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982. Tuy nhiên, nước này vẫn thường có những tranh chấp căng thẳng với các nước ASEAN như Việt Nam và Philippines về quyền kiểm soát ba nhóm đảo và bãi đá ở Biển Đông – quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough – và với Nhật Bản xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.

Trung Quốc cũng đã tìm cách ngăn không cho các tàu của lực lượng hải quân và không quân Mỹ hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) cách bờ biển nước này 200 hải lý, một hành động mà Mỹ và nhiều đồng minh của Mỹ coi là vi phạm UNCLOS. Tháng 8/2014, một máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã chặn máy bay tuần tra trên biển P-8 của Hải quân Mỹ trong không phận quốc tế cách đảo Hải Nam khoảng 135 dặm (216km), điều mà Bộ Quốc phòng Mỹ mô tả là “rất, rất gần, rất nguy hiểm”.

Tranh chấp EEZ này có thể có những tác động sâu sắc đối với sự ổn định của các tuyến đường biển xuyên Thái Bình Dương được hải quân Mỹ giám sát trong nhiều thế hệ. Bill Hayton, tác giả của cuốn “Biển Đông: Cuộc đấu tranh vì quyền lực ở châu Á” được xuất bản hồi đầu năm nay, viết: “Điều đó nghe có vẻ khó hiểu, nhưng cuộc tranh cãi pháp lý xung quanh việc các tàu quân sự của một quốc gia có thể được làm những gì trong EEZ của nước khác đã đưa Mỹ và Trung Quốc đến bờ vực xung đột. Đó là một trận chiến giữa những đòi hỏi của Mỹ có quyền tiếp cận ‘những tài sản chung toàn cầu’ và việc Trung Quốc tìm kiếm an ninh. Đó là cuộc đấu tranh sẽ xác định tương lai của châu Á và có thể còn hơn nữa”.
Biển Đông là nơi mà cuộc đấu tranh đó trở nên rõ rệt nhất. Trên bản đồ hiện đại, các bãi ngầm và bãi cạn nằm giữa Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Đài Loan và Malaysia được liệt vào loại “Vị trí nguy hiểm” – không phải vì chủ quyền bị tranh chấp của các bên này mà vì trong suốt lịch sử, chúng là cơn ác mộng của những thủy thủ.

Theo ông Hayton, chính Biển Đông đóng một vai trò lịch sử trong việc tạo ra các quy tắc trong đấu tranh. Vào năm 1603, Công ty Đông Ấn của Hà Lan đã bắt giữ một chiếc tàu của Bồ Đào Nha chất đầy lụa thô và vàng ở gần eo biển Malacca và thuê một luật gia người Hà Lan, Hugo Grotius, bảo vệ cho hành động của mình. Ông viết một cuốn sách bằng tiếng Latinh có tên gọi “Mare Liberum” (Vùng biển tự do), lập luận rằng biển là lãnh thổ quốc tế và phải được mở cửa cho tất cả. Trong suốt những thế kỷ tiếp theo, điều này đã được các cường quốc toàn cầu sử dụng như là lời bào chữa để lái các tàu buôn tới nơi mà họ thích, thường là với các tàu chiến chạy bên cạnh nhằm thực thi quyền lực của họ.

Làm theo sách

Được xây dựng một cách lỏng lẻo dựa trên cuốn “Mare Liberum”, UNCLOS thiết lập khái niệm EEZ, đem lại cho các quốc gia ven biển những đặc quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi 200 hải lý, nhưng cho phép tự do hàng hải và bay trên không phận bên ngoài vùng lãnh hải mở rộng đến 12 hải lý tính từ bờ biển. Trớ trêu thay, Trung Quốc đã thông qua UNCLOS trong khi Thượng viện Mỹ thì không – mặc dù trên thực tế hải quân Mỹ tuân thủ và cố gắng thực thi nó.

Nhưng cách diễn giải của Trung Quốc (và cách diễn giải của một nhóm nhỏ các nước lớn đang phát triển như Ấn Độ và Brazil) lại khác với cách diễn giải của hầu hết các nhà nước: nước này đòi hỏi các tàu hải quân phải có được sự cho phép trước khi tiến vào EEZ của họ. Vào năm 2013, một tàu hải quân Trung Quốc đã trực tiếp cắt ngang đường đi của tàu tuần dương Cowpens của hải quân Mỹ, buộc tàu này phải bẻ lái đột ngột nhằm tránh một vụ va chạm. Những sự cố như vậy là sự khiêu khích đối với người Mỹ. Hải quân của họ vẫn thường xuyên cử các tàu gián điệp vào EEZ của Trung Quốc.

Nếu Trung Quốc định thực thi các quy tắc theo phiên bản của họ, thì những rủi ro sẽ rất nghiêm trọng. Trong cuốn sách của mình, “Hỏa lực trên biển: Trung Quốc, Mỹ và tương lai của Thái Bình Dương”, Robert Haddick nói rằng điều đó có thể đồng nghĩa với việc ngăn chặn các tàu chiến của nước ngoài “từ eo biển Malacca cho đến tận các đảo chính của Nhật Bản”. Thậm chí nếu Trung Quốc định tiếp tục mở cửa các vùng biển này cho vận chuyển thương mại, thì toàn bộ khái niệm về an ninh hàng hải sẽ bị hủy hoại. Mỹ có thể buộc phải trả đũa.
Đó là một kịch bản đáng báo động, mặc dù nhiều chuyên gia an ninh nói rằng Trung Quốc dường như không hăm hở muốn một cuộc đối đầu như vậy với Mỹ, ít nhất là chưa muốn. Những người lạc quan cho rằng hải quân Trung Quốc, mặc dù phát triển nhanh, nhưng lại chưa sẵn sàng cho cuộc chiến với một đối thủ gan góc như vậy. Hơn nữa, một thất bại sẽ là thảm họa đối với Trung Quốc. Các nhà phân tích an ninh nói rằng Đảng Cộng sản sẽ mất đi tính hợp pháp của mình và nền kinh tế do thương mại chi phối sẽ sụp đổ.

Những người bi quan lập luận, ngay cả với những ý định tốt đẹp của cả hai phía, rằng việc tính toán sai lầm hoặc hiểu lầm vẫn có thể dẫn đến xung đột lớn. Chuck Hagel, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, nói rằng Mỹ sẽ phản đối bất kỳ nỗ lực nào hạn chế việc bay qua hoặc tự do hàng hải. Ông nói với những người đồng cấp tại Đối thoại Shangri-La hồi tháng 5 rằng Mỹ sẽ “không nhìn theo cách khác”. 

Trong các tranh chấp đảo của Trung Quốc, các nhà phân tích an ninh cho rằng Trung Quốc đang “kiếm chuyện” với các đồng minh của Mỹ nhằm thử thách cam kết của nước này về việc duy trì pháp luật bằng sự ủy nhiệm, với những bước đi đủ nhỏ để khiến cho việc trả đũa trở nên khó thực hiện. Nhưng trong quá trình đó, nước này sẽ từng bước tạo ra “sự đã rồi” tại chính sân sau của họ. Euan Graham thuộc Trường nghiên cứu quốc tế S. Rajaratnam có trụ sở tại Singapore nói rằng cuối cùng những điều này có thể tạo điều kiện cho Trung Quốc mở rộng EEZ của họ thành một vùng đệm ven biển vững chắc. Ông lưu ý rằng lịch sử Trung Quốc – chẳng hạn như cuộc chiến tranh nha phiến đáng hổ thẹn với Anh trong những năm 1840 và 1850 – khiến cho nước này trở nên đặc biệt nhạy cảm với các mối đe dọa hàng hải.

Đường Đứt đoạn Đó

Tất cả các vùng lãnh thổ tranh chấp đều nằm bên trong cái mà Trung Quốc gọi đường chín đoạn, bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông và hơn một nửa EEZ của các nước láng giềng. Kể từ khi tiếp quản bãi Vành Khăn vào năm 1995, Trung Quốc đã tranh chấp với Việt Nam về vấn đề quần đảo Trường Sa và thiết lập một số đơn vị đồn trú. Nước này cũng chiếm bãi cạn Scarborough sau cuộc đối đầu với Philippines vào năm 2012. Năm nay, việc một công ty dầu mỏ lớn của Trung Quốc tiến hành khoan dầu trong vùng biển cách bờ biển Việt Nam 120 hải lý (222km) đã châm ngòi cho các cuộc bạo động chống Trung Quốc ở Việt Nam. Những căng thẳng xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đã gây ảnh hưởng tiêu cực tới các mối quan hệ với Nhật Bản kể từ năm 2010.

Ông Haddick đề cập đến chiến thuật của Trung Quốc là từng bước hiện thực hóa những tuyên bố chủ quyền với các đảo này với tên gọi “cắt lát salami”. Đó là “sự tích lũy dần những thay đổi nhỏ, không một thay đổi nào trong số đó khi xem xét riêng rẽ có thể là biến cố khơi mào một cuộc chiến tranh, nhưng theo thời gian lại có thể góp phần tạo nên một sự thay đổi chiến lược đáng kể”. Ronald O'Rourke, một nhà phân tích hải quân thuộc Cơ quan nghiên cứu Quốc hội Mỹ, cho biết các quan chức Trung Quốc đã gọi đó là "chiến lược cải bắp". Những hòn đảo được bao bọc, giống như bắp cải, trong các lớp bảo vệ kế tiếp nhau được hình thành bởi các tàu đánh cá, các tàu bảo vệ bờ biển của Trung Quốc và cuối cùng là các tàu hải quân. Trung Quốc hiếm khi triển khai các lực lượng vũ trang của mình trong những lần lấn chiếm dần dần. Ian Storey thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á nói rằng thay vào đó, nước này sử dụng các cơ quan thực thi pháp luật trên biển. “Ngay cả cái tên cũng ám chỉ Trung Quốc đã cảm thấy mình có quyền hành pháp”. 

Chiến thuật này khiến cho bất kỳ bên tuyên bố chủ quyền nào cũng bị khó khăn hơn để có thể đáp trả bằng quân sự mà không bị coi là làm gia tăng căng thẳng. Đô đốc Dennis Blair, người đứng đầu các lực lượng của Mỹ ở Thái Bình Dương trước đây và hiện là Chủ tịch Quỹ Hòa bình Sasakawa Mỹ, nói: “Người Trung Quốc đang theo đuổi một chiến lược khá thông minh và những người còn lại như chúng ta chưa tìm ra được cách ứng phó thích đáng”. Ông cho rằng các quốc gia bị đe dọa bởi "sự xâm lược hành chính" của Trung Quốc nên giải quyết các tranh chấp lãnh thổ với nhau trước rồi sau đó thể hiện sự đoàn kết trước Trung Quốc. Ông Russel nói: “Điều tốt là Trung Quốc không triển khai lực lượng hải quân của Quân Giải phóng nhân dân”. Nhưng ông chỉ ra rằng “cho dù điều gì đang chi phối hành vi này đi chăng nữa, thì điểm mấu chốt là điều đó gây nguy cơ leo thang căng thẳng và đối đầu, vì vậy kiềm chế là cần thiết”.

Vào cuối tháng 9, hơn 18.000 quân nhân thuộc lực lượng lục quân, hải quân, không quân và lính thủy đánh bộ của Mỹ đã tham gia một cuộc tập trận chung chưa từng có ở ngoài khơi đảo Guam của Thái Bình Dương. Không cần phải nói rõ cũng có thể thấy cuộc tập trận này nhằm thử nghiệm những phản ứng trước kiểu chiến lược “ngăn chặn xâm nhập biển” (tên lửa, tàu ngầm và các cuộc tấn công mạng) mà các nhà hoạch định quân sự Mỹ cho rằng Trung Quốc đã phát triển để chống lại các mối đe dọa hải quân. Theo Chuẩn Đô đốc Mark Montgomery, chỉ huy Hạm đội Bảy, một tàu hỗ trợ của Trung Quốc bị phát hiện đang quan sát các cuộc tập trận trong EEZ của Mỹ. Đó là lần thứ hai trong năm nay một tàu Trung Quốc bị phát hiện đang rình mò tại vùng biển của Mỹ trong các cuộc tập trận. Người Mỹ đã quyết định coi đó là một dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang thăm dò những lợi ích từ các quy tắc UNCLOS theo “phiên bản” của họ.

Đầu năm nay, các tư lệnh hải quân của Trung Quốc, Mỹ và nhiều quốc gia khác đã tạo ra một bất ngờ bằng việc ký kết một Bộ quy tắc ứng xử cho những vụ va chạm ngoài ý muốn trên biển, đưa ra những chỉ dẫn cho các tàu hoặc máy bay hải quân, khi chúng bất ngờ tiến lại gần nhau. Bộ quy tắc đưa ra một biện pháp kiểm soát tổn thất tiềm tàng nhưng không ràng buộc về mặt pháp lý, cũng không áp dụng trong vùng lãnh thổ biển của một quốc gia, vì vậy nó có thể được lý giải một cách chủ quan giống như UNCLOS.

Về phần Trung Quốc, câu hỏi lớn khi họ tìm cách trở thành một cường quốc biển là nước này muốn triển khai vị thế đó nhiều như thế nào trong các vùng biển rộng lớn hơn bên ngoài khu vực lân cận của họ. Ông Kausikan thuộc Bộ Ngoại giao Singapore hỏi liệu Trung Quốc có ủng hộ một hệ thống đã làm lợi cho nước này hay tiếp tục là một “bên ngồi không hưởng lợi toàn cầu”. Câu hỏi đó hiện ra rõ ràng trong lĩnh vực hàng hải. Khi Mỹ trở nên ít phụ thuộc hơn vào dầu mỏ của Trung Đông, nhờ có cuộc cách mạng đá phiến của mình, liệu Trung Quốc có giúp bảo vệ các tuyến đường biển qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương vì lợi ích của tất cả mọi người?

Theo The Economist

Trần Quang (gt)