Tranh chấp lãnh thổ âm ỉ kéo dài giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông lại có một sự nổi lên định kỳ khi các tàu Việt Nam đối đầu với tàu Trung Quốc đang nỗ lực đặt giàn khoan dầu tại quần đảo Hoàng Sa trong tình trạng tranh chấp ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Giàn khoan này do Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) điều hành nằm cách đường bờ biển của Việt Nam chỉ 120 hải lý, và hai bên đều nói rằng tàu của họ đã bị đối phương húc vào. Quân đội Trung Quốc đã đánh bật các đơn bị của Nam Việt Nam ở phía Nam Hoàng Sa năm 1974, kết quả là Trung Quốc đã chiếm quyền kiểm soát quần đảo này, dù các đảo không có người ở.

+ Tại sao Trung Quốc cố gắng đặt giàn khoan dầu ở vị trí này và vào thời điểm này? 

- Lý do nhiều khả năng nhất là chính trị, chứ không phải kinh tế. Xét về mặt kinh tế, khu vực mà giàn khoan sẽ khoan thăm dò có ít trữ lượng dầu lửa đã được minh chứng. Hơn nữa, giàn khoan, với chi phí xây dựng khoảng 1 tỷ USD, cực kỳ đắt đỏ khi hoạt động hàng ngày, và điều này đặt ra câu hỏi tại sao CNOOC lại thăm dò tại một khu vực với những triển vọng không chắc chắn. 

Thay vào đó, Trung Quốc nhiều khả năng sử dụng giàn khoan để khẳng định và thực thi quyền tài phán đối với các vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông.

Trong bối cảnh chuyến công du gần đây của Tổng thống Obama tới khu vực, trong đó có chuyến thăm hai quốc gia cũng có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông là Malaysia và Philippines, Trung Quốc có thể đang nỗ lực thử thách sự tái cam kết của Mỹ đối với chính sách "xoay trục" tại châu Á. 

Mặc dù vậy, thời điểm hành động của Trung Quốc cũng rất khó hiểu. Nhìn một cách tổng thể hơn, trong vài năm qua, Trung Quốc và Việt Nam đã cải thiện các mối quan hệ của họ và giải quyết các tranh chấp trên biển một cách hòa bình. Họ đã đạt được một thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết tranh chấp trên biển vào tháng 10/2011, thiết lập nhiều đường dây nóng và thành lập các nhóm làm việc về khai thác chung và phân định ranh giới trên biển. 

+ Với những gì đã diễn ra trong tuần qua, và với lịch sử đấu tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam về Hoàng Sa, liệu sự việc này có leo thang thành một cuộc xung đột căng thẳng hơn hoặc lớn hơn? 

- Nguy cơ leo thang là có thật. Dầu khí ngoài khơi đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Điều này mang lại cho Hà Nội một động cơ mạnh mẽ để ngăn cản Trung Quốc hoạt động trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nước này kể cả trong trường hợp khu vực cụ thể đó có thể không có trữ lượng lớn. Vị trí ở gần cả hai nước đã tạo thuận lợi cho việc triển khai lực lượng hải quân và các lực lượng thực thi luật pháp trên biển. Việc nhiều tàu chen lấn giành quyền kiểm soát tại một khu vực nhỏ làm gia tăng khả năng cho những toan tính sai lầm và những đụng độ có thể leo thang thành xung đột vũ trang. 

Trong một vài năm qua, Việt Nam đã thể hiện sự sẵn sàng sử dụng các tàu chính phủ để thách thức cái mà nước này cho là cách hành xử quyết đoán của Trung Quốc đang đe dọa các lợi ích của họ. Năm 2007, Việt Nam đã nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc tiến hành khảo sát địa chấn tại vùng biển gần Hoàng Sa, ở phía Bắc địa điểm đặt giàn khoan lần này. Năm 2010, các tàu Việt Nam đã bao vây một tàu tuần tra của Trung Quốc thuộc Cục Kiểm ngư tại vùng biển tranh chấp. Giờ đây, sự đặt cược thậm chí còn cao hơn đối với Việt Nam, và điều đó cho thấy Việt Nam có thể lựa chọn tiếp tục các nỗ lực ngăn cản không cho giàn khoan Trung Quốc triển khai các hoạt động khoan. 

+ Dựa trên cơ sở nào mà Trung Quốc lập luận vị trí đặt giàn khoan thuộc chủ quyền hợp pháp của nước này? 

- Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với quần đảo Paracel (Trung Quốc gọi là Tây Sa còn Việt Nam gọi là Hoàng Sa). Từ lập trường của Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku, Trung Quốc khẳng định rằng không tồn tại tranh chấp với Việt Nam về quần đảo này. Trung Quốc đã kiểm soát phần phía Bắc của Hoàng Sa từ giữa những năm 1950 và phần phía Nam kể từ năm 1974, khi nước này đối đầu với các lực lượng của Nam Việt Nam. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng các hoạt động của giàn khoan diễn ra trong vùng biển của quần đảo Tây Sa. 

Bản thân giàn khoan nằm cách đảo Tri Tôn 17 hải lý về phía Nam. Đảo Tri Tôn là hòn đảo nằm ở cực Tây Nam của Hoàng Sa có cấu trúc đất nhiều nhất. Năm 1996, Trung Quốc vẽ đường cơ sở xung quanh toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Dựa trên một đạo luật năm 1998, Trung Quốc đòi được hưởng vùng EEZ từ đường cơ sở đó theo Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS), theo đó nước này sẽ có quyền khai thác bất kỳ nguồn tài nguyên nào từ đường cơ sở đó. Vị trí của giàn khoan nằm trong EEZ nếu xét theo tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với Hoàng Sa. 

+ Liệu Việt Nam có cơ sở pháp lý để khẳng định giàn khoan của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ, hay liệu có phải hành động đó được thực hiện với ý đồ xấu khi xét tới bản chất tranh chấp của Hoàng Sa? 

- Việt Nam phản đối vị trí đặt giàn khoan vì hai lý do. Thứ nhất, giàn khoan nằm trong EEZ mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền tính từ đường cơ sở của nước này. Giàn khoan cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 120 hải lý, và vì thế nằm trên thềm lục địa của Việt Nam và nằm hoàn toàn trong vùng EEZ 200 hải lý của Việt Nam. Thứ hai, Việt Nam tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và phản đối quan điểm của Trung Quốc rằng không tồn tại tranh chấp. Mặc dù Việt Nam chưa vẽ đường cơ sở xung quanh Hoàng Sa, nhưng nước này thực sự phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này và quyền tài phán đối với vùng biển lân cận. Theo quan điểm của Việt Nam, giàn khoan của Trung Quốc nằm trong vùng biển của Việt Nam và Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào để khoan tại vị trí này. 

+ Quan điểm của Mỹ đối với các tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông ra sao, và ông nghĩ Mỹ sẽ hoặc nên phản ứng như thế nào? 

- Chính sách của Mỹ là không can thiệp vào vấn đề chủ quyền đối với các cấu trúc tại Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời, Mỹ cũng đã khẳng định các lợi ích then chốt của mình tại khu vực, trong đó có tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp và tránh cưỡng bức, hăm dọa trong giải quyết các tranh chấp. Để hỗ trợ một giải pháp hòa bình, Mỹ đã thúc giục Trung Quốc và ASEAN hướng tới một bộ quy tắc ứng xử ràng buộc và hỗ trợ việc sử dụng tòa án quốc tế, chẳng hạn việc Philippines kiện Trung Quốc lên Tòa án trọng tài quốc tế về Luật Biển của Liên Hợp Quốc mới đây. 

Phản ứng đối với sự kiện này, Mỹ nên kêu gọi tất cả các bên không thực hiện các hành động đơn phương trong các vùng biển rõ ràng đang có tranh chấp. Mỹ cũng nên nhấn mạnh rằng sự việc cho thấy sự cần thiết phải có bộ quy tắc ứng xử để kiểm soát những sự leo thang tiềm tàng và tránh các sự việc như vậy trong tương lai. Cuối cùng, Mỹ có thể thúc giục tất cả các bên tìm kiếm những cơ chế cho việc khai thác chung, có thể giúp các sự việc như vậy sẽ không diễn ra trong tương lai. 

+ Ông nghĩ các quốc gia Đông Nam Á khác cũng có tuyên bố chủ quyền một phần tại Biển Đông sẽ phản ứng thế nào với các hành động mới đây nhất của Trung Quốc? 

- Hành động của Trung Quốc chỉ củng cố vững chắc hơn nhận thức của các quốc gia cũng có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông rằng Trung Quốc luôn nuôi dưỡng các ý đồ hiếu chiến và thích hành động đơn phương. Cụ thể, việc triển khai giàn khoan của Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi quyết tâm của các quốc gia này trong việc sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ tuyên bố chủ quyền của mình. Các quốc gia này nhiều khả năng sẽ đầu tư để xây dựng các thực lực hải quân, thực thi luật pháp trên biển lớn hơn và đẩy mạnh hợp tác an ninh hàng hải với Mỹ và Nhật Bản, và có thể là hợp tác với nhau. 

+ Trung Quốc đã quyết tâm với việc sử dụng đường chín đoạn để khẳng định chủ quyền của mình tại Biển Đông như thế nào? 

- Dù đường chín đoạn đã xuất hiện trên các bản đồ của Trung Quốc từ nhiều thập kỷ nay, nhưng Trung Quốc vẫn im lặng một cách kỳ lạ về ý nghĩa của đường chín đoạn này. Trung Quốc chưa bao giờ tuyên bố rằng đường chín đoạn mô tả điều gì, cả tích cực lẫn tiêu cực. Đường chín đoạn có thể cho thấy tuyên bố chủ quyền với các cấu trúc nằm trong nó, hoặc nó có thể có ý nghĩa rộng lớn hơn và cho thấy đòi hỏi chủ quyền với một vùng EEZ hoặc các quyền lịch sử (cả hai đều không phù hợp với UNCLOS). 

Tại Trung Quốc, những sự không đồng tình vẫn tồn tại về cách thức xác định đường chín đoạn. Tuy nhiên, các hành động của Trung Quốc trong những năm qua, chẳng hạn như bảo vệ các ngư dân tại vùng phía Nam của Biển Đông, hay mời các công ty dầu khí nước ngoài đầu tư khai thác tại các lô ngoài khơi bờ biển Việt Nam, cho thấy rằng Trung Quốc có thiên hướng muốn có một khái niệm bành trướng của đường chín đoạn. 

Liên quan tới quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc khẳng định rằng đường chín đoạn, vốn được chính thức công bố cuối những năm 1940, cung cấp một sự hỗ trợ đối với tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo này.

Taylor Fravel, Giáo sư về chính trị học tại Viện Công nghệ Massachusetts. Giáo sư Taylor Fravel nghiên cứu về các vấn đề lãnh thổ của Trung Quốc và là tác giả của cuốn sách "Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China's Territorial Disputes". Bài phỏng vấn được đăng trên The New York Times.

Văn Cường (gt)