Mỹ đang chơi một cuộc chơi khó trong khung cảnh phức tạp, trong đó nổi lên tình hình căng thẳng mang tính dân tộc chủ nghĩa chống Trung Quốc ở Việt Nam và Philíppin, hai nước ngày càng phản đối quyết liệt yêu sách lố bịch của Trung Quốc ở Biển Đông.

Muốn tránh trực tiếp vỗ mặt Trung Quốc, Mỹ một mặt phải tránh xa các cuộc tranh cãi về lãnh thổ, mặt khác phải đồng thời tái khẳng định sự có mặt về quân sự, sự trường tồn của các mối quan hệ đồng minh chiến lược trên thực địa và quyết tâm bảo vệ quyền tự do hàng hải mà Bắc Kinh cho là không bị đe dọa. 

Trong hai năm 2011 và 2012, Mỹ tổ chức tập trận quân sự chung không những với Hàn Quốc và Philíppin, mà cả với Việt Nam - một dấu hiệu khiến Trung Quốc phải quan tâm. Nhưng vì sợ bị sa lầy hay xảy ra sai lầm nghiêm trọng nên Mỹ có ý định cưỡng lại lời kêu gọi khẩn thiết của các nước trong vùng muốn hối thúc Oasinhtơn xác định chỗ đứng trong các cuộc tranh cãi chủ quyền. Còn các nước ASEAN có lập trường không rõ ràng. Tất cả đều muốn duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc, thường vì lý do kinh tế, nhưng cũng hy vọng có thể trông cậy vào bảo đảm an ninh của Oasinhtơn trong trường hợp xảy ra căng thẳng với Bắc Kinh. 

Chuyên gia Francis Daho phân tích các khả năng khác nhau có thể xảy ra trong tình hình hiện nay, với vô vàn những ý định được che giấu và những điều không được nói ra, trong đó nổi trội hơn cả là sự kình địch Mỹ-Trung và cái bóng của Trung Quốc với đằng sau đó là cuộc tìm kiếm dầu mỏ và ảnh hưởng, nhưng bị một số nước cho là ý đồ đế quốc, với những hành động lúc này không còn ý tứ nữa mà đe dọa trực tiếp độ tin cậy - lúc này vốn đã bị sứt mẻ - của các chiến lược "sức mạnh mềm" của chính Bắc Kinh. 

Có thể có ba cách phân tích tình hình hiện nay - với tên gọi đều thích hợp ở mức độ khác nhau và không loại trừ nhau - để giải thích cho giai đoạn tồi tệ mới trong quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng gần hay xa, và với Mỹ. Theo chiến lược gia có tư duy dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc, Oasinhtơn là trở ngại cuối cùng trên con đường Bắc Kinh lấy lại sức mạnh và là yếu tố chinh kích động chống lại Trung Quốc ở Biển Đông và Đài Loan. 

Theo cách hiểu thứ nhất, đây là biểu hiện tâm lý đế quốc của Bắc Kinh dùng lịch sử để hợp pháp hóa ý đồ đòi lãnh thổ khó có thể được các nước ven Biển Đông và Nhật Bản chấp nhận. Các yêu sách lãnh thổ này càng nổi lên mạnh mẽ hơn khi năng lực của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc được cải thiện, trong khi nhiều tiếng nói ở Trung Quốc muốn chấm dứt chiến lược giấu mình chờ thời mà Đặng Tiểu Bình chủ trương cách đây hơn 20 năm. 

Cách hiểu thứ hai cho rằng căng thẳng hiện nay là do Mỹ can thiệp, do sự có mặt ngày càng bành trướng của Hải quân, máy bay do thám, hoạt động quân sự của Mỹ, từ đó thúc đẩy các nước ven Biển Đông đối đầu với Trung Quốc, và từ đó trở thành yếu tố gây căng thẳng hơn là làm hòa dịu. Được phái dân tộc chủ nghĩa trong Đảng cộng sản và Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ủng hộ, quan điểm này, tuy có sắc thái khác, cũng là quan điểm của một số nhân vật, như ông Malcom Fraser, cựu Thủ tướng theo khuynh hướng tự do ở Ôxtrâylia từ năm 1975 đến năm 1983; hay ông Kenneth Lieberthal, cựu cố vấn của Tổng thống Clinton về các vấn đề Trung Quốc; và ông Zbigniew Brezinski, tác giả cuốn "Ván cờ lớn", người phê phán nghiêm khắc một số chính sách của Georges Bush ở Irắc và cựu cố vấn chiến lược của Tổng thống Jimmy Cater. 

Cách hiểu thứ ba giải thích tình hình căng thẳng hiện nay xuất phát từ chính sách đối nội của Trung Quốc, trong đó Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, thể chế có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa rất mạnh, rõ ràng đang cầm trịch trong bối cảnh, khi sắp đến ngày diễn ra Đại hội 18 Đảng cộng sản Trung Quốc, chính quyền dân sự bị suy yếu do xung đột giữa các phe phái, cộng thêm tình trạng tranh chấp và kình địch nhau trước đòi hỏi phải tiến hành cải cách đe dọa các lợi ích của mình. 

Không phải bây giờ Trung Quốc mới ham muốn sức mạnh, mà ý đồ này đã bộc lộ trong các hội nghị thượng đỉnh trước đây của Diễn đàn khu vực ASEAN tháng 7/2010 tại Hà Nội. Ham muốn đó của Bắc Kinh vẫn tiếp diễn trong năm 2011 khiến Mỹ phải phản ứng khi nước này, vào tháng 1/2012, công bố chuyển trọng tâm sức mạnh quân sự tổng thể của mình từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương và châu Á. Cho dù không phải là nguyên nhân duy nhất, song việc điều chuyển lực lượng lần này của Mỹ -được tuyên truyền rầm rộ cộng với các cuộc tập trận quân sự không giấu giếm - tạo điều kiện thuận lợi giúp Philíppin, Việt Nam và Nhật Bản tỏ thái độ cứng rắn hơn. 

Ngày 14/7/2012, 24 giờ sau các cuộc khẩu chiến tại hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phnôm Pênh, Bắc Kinh đưa hơn 30 tàu đánh cá từ đảo Hải Nam, được hỗ trợ bởi một tàu hậu cần 3.000 tấn thuộc Cơ quan quản lý ngư nghiệp, đến vùng biển tranh chấp thuộc bãi đá ngầm đảo Chữ Thập, nằm ở phía Nam bãi san hô đảo Gạc Ma, cách Hải Nam 1.000 cây số về phía Nam, nơi Bắc Kinh năm 1988 đưa người ra sinh sống và lập một trạm quan trắc biển. Vụ việc này đánh dấu đỉnh điểm của tình hình căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam và khiến Hà Nội phản ứng dẫn đến đụng độ giữa Hải quân hai nước làm 64 lính thủy Việt Nam thiệt mạng. 

Việc Trung Quốc đưa đội tàu cá với số lượng lớn bất thường đến Biển Đông diễn ra một năm sau một loạt các vụ đụng độ với Việt Nam vào tháng 6/2011, cộng với các cuộc biểu tình chống Trung Quốc - giống như các năm 2007 và 2008 - và được đánh dấu bởi việc Hà Nội tổ chức tập trận hải quân bắn đạn thật ở vùng biển gần bờ để đáp lại việc Trung Quốc ngày càng khẳng định rõ ràng hơn yêu sách của mình đối với toàn bộ Biển Đông. 

Sáng kiến của Bắc Kinh đối với vùng phía Nam quần đảo Trường Sa đụng vào điểm nhạy cảm của Việt Nam và được đưa ra đúng ba tháng sau một cuộc đối đầu nổ ra cách 400 hải lý về phía Bắc giữa lực lượng bảo vệ bờ biển của Trung Quốc và Philíppin ở vùng phụ cận bãi cạn Scarborough, cách đảo Luzon 130 hải lý về phía Tây và bờ biển Trung Quốc 500 hải lý, trong bối cảnh sự có mặt ngày càng nhiều của Hải quân Trung Quốc được cho là bất hợp pháp và có tính khiêu khích. Đồng thời, Mỹ và Philíppin tổ chức các cuộc tập trận dài ngày trên bộ với chủ đề là giành lại một hòn đảo bị đánh chiếm bằng vũ lực bởi một lực lượng thù địch không được nêu tên, với sự tham gia của Nhật Bản, Ôxtrâylia và Hàn Quốc. 

Từ ba năm nay, các vụ đụng độ diễn ra liên tiếp ở Biển Đông, trong đó phần lớn liên quan đến ngư dân Trung Quốc xung đột với Việt Nam và Philíppin. Đúng là trong các cuộc đụng độ đó, thường khó có thể xác định trách nhiệm thực sự vì không một bên nào trong đó hoàn toàn đúng về nguyên nhân và cũng khó tránh được một cuộc khủng hoảng thường xuyên, song ít nhất cũng có thể nói rằng Bắc Kinh không có tâm lý hòa giải. 

Trung Quốc thường xuyên có hành động hung hãn từ nhiều năm nay, ngư dân Việt Nam thường bị lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc bắn và bắt giữ ở Trung Quốc rồi đòi tiền chuộc. Gần đây, khẳng định chủ quyền, đôi khi là những hành động khiêu khích, đã diễn ra khi Bắc Kinh cho đó là hành động của Manilla, Tôkyô và Hà Nội. 

Ngày 12/4/2012, Trung Quốc than phiền về việc Hải quân Philíppin quấy nhiễu 12 tàu cá của họ đang tìm cách trú ẩn ở vùng biển gần đảo Hoàng Nham, cách đảo Luzon 140 hải lý về phía Tây và được Manilla chính thức tuyên bố thuộc lãnh thổ của mình vào năm 2009, cùng lúc với quần đảo Trường Sa, mặc cho phía Trung Quốc phản đối. Ngày 15/6, Hà Nội cho 4 chiếc máy bay chiến đấu Sukhoi bay ra quần đảo Trường Sa. Ngày 2/7, Tổng thống Philíppin Benigno Aquino, công khai cầu viện Mỹ đưa máy bay do thám loại Orion P3-C đến giúp. 

Ngày 7/7, Bắc Kinh giận dữ trước việc Thủ tướng Nhật Bản Noda, người đang trong thế bị suy yếu ở trong nước, nhưng gần gũi với trào lưu thân Mỹ, tuyên bố Nhật Bản định mua một phần quần đảo Senkaku đang trong tình trạng tranh chấp. Hậu quả là xảy ra tình hình căng thẳng gần giống như hồi tháng 7/2010 khi Tôkyô giam giữ một thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc bị cáo buộc cố tình đâm vào tàu bảo vệ bờ biển của Nhật Bản. 

Mười lăm ngày sau, Quốc hội Việt Nam đã khiến Bắc Kinh nổi giận khi thông qua một đạo luật khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhân cơ hội đó, Bắc Kinh nâng cấp quản lý hành chính đối với các quần đảo Spratly (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa), Paracel (Tây Sa) và Macclesfield (Trung Sa). Các quần đảo này đều nằm ở khoảng cách giống nhau (300 hải lý) so với đảo Hải Nam của Trung Quốc, bờ biển của đảo Luzon của Philíppin và bờ biển phía Đông của Việt Nam . 

Phân tích nguyên nhân tình hình căng thẳng hiện nay, nhiều chuyên gia nhận thấy trong đó có việc các nước ven biển tự tin hơn vì được khích lệ bởi tuyên bố của Oasinhtơn thông báo tăng cường lực lượng quân sự ở châu Á. 

Đối với ông Malcom Fracer, cựu Thủ tướng Ôxtrâylia, việc điều chuyển 60% lực lượng Hải quân của Mỹ về vùng Tây Thái Bình Dương, dự kiến vào năm 2020, cộng với việc thiết lập một căn cứ với 2.500 lính thủy đánh bộ Mỹ tại Darwin, đưa 4 tàu giám sát bờ biển của Hải quân Mỹ đến Xinhgapo từ năm 2013, tăng cường các cuộc tập trận chung trên đất liền và trên biển với các nước trong vùng, là những yếu tố gây căng thẳng nhiều hơn là hòa dịu. Ông cho rằng nếu chỉ dùng vũ lực sẽ không bao giờ giúp giải quyết bất đồng chính trị và cáo buộc Nhà Trắng chơi con bài đối đầu với Trung Quốc trước khi diễn ra bầu cử và, qua đó, góp phần làm tăng nguy cơ sai lệch về quân sự. 

Mới đây, hai trong số các nước ASEAN không liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, cũng tỏ thái độ dè dặt tương tự trước việc Lầu Năm Góc tăng cường dấu ấn của mình và kêu gọi thận trọng. Thông qua Ngoại trưởng của mình, Inđônêxia nói đến "cái vòng luẩn quẩn căng thẳng và thiếu tin tưởng". Kể cả ở Xinhgapo, nơi đường lối chính trị thường thiên về sức mạnh được cho là có tác dụng cân bằng của lực lượng quân đội Mỹ, Ngoại trưởng nước này cũng tỏ ý lo ngại ASEAN bị kẹt trong cuộc cạnh tranh lợi ích giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn. 

Kể cả ở Mỹ, một số người lên tiếng phê phán việc ưu tiên quân sự mới của nước này dường như nhằm vào Trung Quốc. Trong một bài viết đăng trên tạp chí "Foreign Affairs" số tháng 1-2/2012, ông Zbigniew Brzezinski không cho Mỹ là người trực tiếp gây ra căng thẳng, và có ý định uốn chiến lược ở châu Á theo hướng thân Trung Quốc hơn. Ông giải thích rằng ưu tiên của Oasinhtơn nên là tạo điều kiện để giải quyết xung đột ở châu Á, chẳng hạn giữa Bắc Kinh, Tôkyô và Niu Đêli, và luôn nhớ rằng điều cơ bản là hòa hợp với Trung Quốc về càng nhiều vấn đề càng tốt. 

Với mục đích đó, ông nhấn mạnh Mỹ không nên cho rằng ổn định ở châu Á có thể được bảo đảm bởi một cường quốc không phải châu Á và gợi ý Lầu Năm Góc nên giảm các vụ biểu dương lực lượng cũng như các chuyến tuần tra trên biển và trên không gần Trung Quốc. Cũng trong bài viết đó, ông Brzezinski thậm chí còn khuyên Nhà Trắng tránh xa vấn đề Đài Loan mà ông cho là yếu tố gây căng thẳng thường xuyên với Bắc Kinh. Nhìn chung, chiến lược được ông Brzezinski đề xuất là hoàn toàn ngược lại với chiến lược được Nhà Trắng thực thi. 

Trong số tháng 11/2011 của tạp chí này, ông Kenneth Lieberthal, cựu cố vấn về Trung Quốc của Tổng thống Clinton, cũng nói theo hướng đó và cảnh báo Oasinhtơn về phản ứng của Bắc Kinh vốn cho rằng việc Mỹ chuyển trọng tâm về Thái Bình Dương và châu Á là ý đồ có chủ đích nhằm kìm hãm sự lớn mạnh của mình, và nhấn mạnh đến nguy cơ leo thang quân sự liên quan đến các cuộc tranh cãi lãnh thổ. Ông cũng nhấn mạnh đến mối nguy hiểm nếu quan hệ với Trung Quốc xấu đi trong bối cảnh sự hỗ trợ của Trung Quốc có tính cốt yếu trong việc giải quyết các vấn đề Bắc Triều Tiên và Iran. 

Mặt khác, ông Kenneth Lieberthal bày tỏ lo ngại nếu tình hình kinh tế và tài chính của Mỹ hiện nay không biến chuyển, Oasinhtơn về lâu dài có thể không có khả năng giữ được cam kết tái chuyển hướng quân sự sang châu Á, từ đó gây thất vọng đáng kể trong các nước Đông Nam Á. Khả năng này xem ra sẽ càng tồi tệ hơn đối với các đồng minh của Mỹ và việc giữ cân bằng ở một vùng nơi Bắc Kinh có được lợi thế ảnh hưởng đáng kể nhờ phát triển nhanh chóng quan hệ thương mại với các nước ASEAN trong khuôn khổ hiệp định trao đổi mậu dịch tự do được ký tháng 1/2010 mà Mỹ không được tham gia. Viễn cảnh bị Mỹ đột ngột bỏ rơi và thất hứa có thể khiến các nước ASEAN bực bội trong khi họ vẫn rất khó chịu với Bắc Kinh và đây cũng là yếu tố gây căng thẳng. 

Cuối cùng, ông Kenneth Lieberthal nói đến tình trạng bất ổn định tiềm tàng của Trung Quốc, vốn đã có dấu hiệu từ trước, và cáo buộc Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đẩy mạnh khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa để bù đắp. Trong bối cảnh các nước ven Biển Đông và Nhật Bản tỏ thái độ cứng rắn vì được Mỹ bảo trợ, khả năng xảy ra sai lầm càng tăng, nhất là khi dư luận Trung Quốc bị tác động bởi lời kêu gọi tái lập sức mạnh và chống lại sự can thiệp của nước ngoài. 

Nếu có một thể chế ở Trung Quốc luôn tỏ thái độ căng thẳng nhuốm màu dân tộc chủ nghĩa và muốn bác bỏ ảnh hưởng từ bên ngoài, với hệ quả có thể cảm nhận trực tiếp được về các vấn đề Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan và ngày càng rõ về Biển Đông và trong cuộc tranh cãi về quần đảo Senkaku với Nhật Bản, thì đó chính là Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Thể chế quân sự này quả thực coi Biển Đông là biển nội địa của Trung Quốc và không gian triển khai tối ưu đối với tàu ngầm hạt nhân chiến lược của họ đóng căn cứ tại Tam Á, trên đảo Hải Nam . 

Tâm trạng bực bội của Trung Quốc hiện nay chủ yếu xuất phát từ vấn đề nội bộ, trong bối cảnh tác động của các tác nhân khác trong chính sách đối ngoại của nước này, bị suy yếu. Trước khi diễn ra Đại hội 18 Đảng cộng sản Trung Quốc, lời cảnh báo của Bộ Ngoai giao về tác động tiêu cực do thái độ hung hãn của Bắc Kinh, cụ thể là ở Đông Nam Á, cho đến lúc này không nhận được nhiều hồi âm trên chính trường Trung Quốc. 

Trong một bài báo ngày 22/6 đăng trên mạng Jamestown Foundation được nhắc lại trên tờ "Wall Street Journal" ngày 1/7, ông Willy Lop Lam, nguyên là nhà báo của tờ "South China Morning Post" bị sa thải vì những bài viết phê phán Bắc Kinh quá mạnh sau khi Hồng Công được trao trả, đưa ra một bản danh sách dài những sự việc cho thấy Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc có mặt ở mọi nơi và tác động đến chính sách đối ngoại của nước này. 

Bài báo nói đến một chính sách đối ngoại của Trung Quốc ít ăn nhập với mối lo ngại về an ninh của Mỹ và các đồng minh của nước này đối với Iran, Bắc Triều Tiên, hay việc Bắc Kinh có thói quen sử dụng vũ khí kinh tế để "trừng phạt" các nước có quan hệ với Đạtlai Lạtma hay bà Rebiya Kadeer, chủ tịch Đại hội đại biểu Duy Ngô Nhĩ thế giới. Tác giả bài viết nêu ra trước hết một loạt các sĩ quan cao cấp công khai bày tỏ quan điểm dân tộc chủ nghĩa kèm theo lời đe dọa trực tiếp, đôi khi công khai ám chỉ đến việc từ bỏ chính sách giấu mình chờ thời có tính chiến lược được Đặng Tiểu Bình chủ trương cách đây hơn 20 năm. 

Đô đốc Yang Yi, thuộc Học viện quốc phòng quốc gia, giỏi cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp, cuối năm 2011 khẳng định không thể cứ giữ mãi thế "giấu mình" được nữa khi an ninh và lợi ích quốc gia bị đe dọa. Theo nhân vật này, "cần tiến hành các cuộc tấn công không kéo dài, vừa có hiệu quả vừa rõ ràng". Luận điểm này được "Global Times", một tờ báo cỡ nhỏ được nhiều người đọc và thuộc tờ nhân dân Nhật báo, nhắc lại khi khẳng định ngày 11/5 rằng Trung Quốc phải dám bảo vệ các nguyên tắc của mình và không sợ phải đối đầu với nhiều nước cùng một lúc. 

Ngày 23/5, trên tờ báo này, Tướng Luo Yan, Phó chủ tịch Học viện khoa học quân sự, giải thích rằng tình hình đã vượt quá giới hạn cho phép của Trung Quốc và chủ trương "cho Philíppin một bài học". Cũng viên Tướng Luo Yan này tháng 8/2010 lên tiếng trên tờ "Nhật báo" của quân đội phê phán việc Mỹ mở rộng lợi ích chiến lược đến tận cửa ngõ của Trung Quốc, ở biển Hoàng Hải và Biển Đông. Viên tướng này viết: "Chúng tôi không phải là kẻ thù của một nước nào, nhưng chúng tôi không sợ những ai khiêu khích và không đếm xỉa đến lợi ích sống còn của chúng tôi." 

Ngày 2/6, tại Xinhgapo, đáp lại bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Léon Panetta, trình bày việc nước này tái triển khai sang châu Á, Tướng Ren Haiquan, Phó chủ tịch Học viện quốc phòng quốc gia, giải thích với giọng điệu hăm dọa rằng Trung Quốc đang chuẩn bị cho tình huống xấu nhất và mọi cuộc tấn công vào lợi ích của Trung Quốc sẽ bị đánh trả rất "khủng khiếp".

Năm 2010, tại hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội nổ ra tranh cãi về Biển Đông - vốn được Trung Quốc coi như lợi ích sống còn của mình giống như Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương - và sau đó Bắc Kinh đã phải tốn công để điều chỉnh. Nhưng ý tưởng này lại xuất hiện vào tháng Sáu năm nay, trong một bài viết đăng trên tờ "Nhân dân nhật báo": "Chúng ta phải vạch ra một loạt các chỉ giới ở Biển Đông để Mỹ phải hiểu rằng họ không thể làm những gì mà họ không được làm." 

Ngay tại Trung Quốc, không phải ai cũng đồng tình với luận điểm hung hãn này. Một số nhà ngoại giao hay nhà nghiên cứu đã úp mở thừa nhận rằng Bộ Ngoại giao không còn hoàn toàn là người cầm trịch chính sách đối ngoại của nước này nữa. Tháng 6/2012, ông Wang Jisi, Trưởng khoa Nghiên cứu quốc tế thuộc Trường đại học Bắc Kinh, chuyên gia về Mỹ, nhắc lại trong một bài viết đăng trên tờ "Global Times" rằng đúng là cân bằng sức mạnh tổng thể đang nghiêng về châu Á, song vị thế quốc tế của Trung Quốc không được nâng lên. Sau khi phân tích một số điểm yếu của tình hình trong nước ở Trung Quốc, ông nói thêm rằng sự lớn mạnh và những sáng kiến của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc khiến các nước láng giềng của Trung Quốc và Mỹ hoài nghi về thực tế của khái niệm "phát triển hòa bình". Ông nói thêm rằng tình thế này nhìn chung làm suy yếu an ninh của Trung Quốc. Nhưng nếu cần có bằng chứng để cho thấy chính sách đối ngoại của Trung Quốc đang trở thành ván cá cược trong cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và Bộ Ngoại giao, chỉ cần đọc bài báo đăng ngày 12/7 trên tờ "New York Times" của ông Zhao Mingzhao, chuyên gia thuộc Trung tâm nghiên cứu thế giới đương đại trực thuộc Ban đối ngoại Đảng cộng sản Trung Quốc, có nhan đề "Trở ngại đối với cường quốc Trung Quốc", trong đó ông đưa ra lập luận về các thách thức an ninh mà Trung Quốc đang phải đối mặt. 

Ý chủ đạo trong bài này trước hết là đặt lại vấn đề đối với sức mạnh thực sự của Trung Quốc, khi tác giả nhắc lại rằng 36% dân số vẫn sống với chưa đến 2 USD/ngày, trong khi thành tựu của nước này về phát triển dân số và Tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người vẫn là rất thấp. Tác giả bài báo nói thêm rằng tăng trưởng của Trung Quốc là mất cân bằng và mỏng manh về dài hạn do bị đe dọa bởi tình hình xã hội không chắc chắn và xâm phạm môi trường không thể khắc phục được. 

Rõ ràng, ý định ở đây là cho thấy ý đồ tạo dựng sức mạnh quân sự, trong trường hợp tốt nhất, là còn quá sớm và, trong trường hợp tồi tệ nhất, là hiểu sai, trong bối cảnh điều chủ yếu là phải kết hợp ngoại giao và phát triển sức mạnh quân sự, đồng thời tận dụng một cách tốt nhất tiềm năng dân sự của đất nước, vì an ninh của đất nước và, như vậy, vẫn còn nhiều việc phải làm về tiến bộ con người và xã hội. Trong một thế giới phức tạp đang biến chuyển nhanh chóng, không một nước nào có thể bỏ qua đòn bẩy sức mạnh mềm có được nhờ đa dạng hóa và có nhiều mối quan hệ quốc tế, vấn đề mà hiện nay Bắc Kinh không làm chủ được. 

Sử dụng quá mức lập luận chỉ có sức mạnh quân sự sẽ khiến các đối tác của Trung Quốc quay sang chống lại Trung Quốc và làm suy yếu vị thế chiến lược của nước này.

Ông Zhao Mingzhao ám chỉ đến đối thoại với ASEAN khi nói thêm rằng nếu Bắc Kinh muốn thuyết phục các đối tác của mình rằng mình chân thành muốn có hòa bình thì cần phải tham gia có hiệu quả hơn vào trao đổi đa phương. 

Cuối cùng, trong một câu gửi gắm đến giới quân sự, mà ông có ý ngầm nói rằng họ đã lấn sân lĩnh vực ngoại giao của Trung Quốc, ông Zhao Mingzhao nói rằng ý muốn mãnh liệt nhất của một nước mạnh là sử dụng sức mạnh của mình hay đúng hơn là "lãng phí" nó. Trong những năm tới, Trung Quốc cần kìm hãm ý muốn trở thành đế chế mà phải tỏ ra có chừng mực về chiến lược, cụ thể là về các cuộc tranh cãi chủ quyền với các nước láng giềng trong bối cảnh khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa gia tăng, cho dù đi đến quyết định đó không phải là dễ. Ông Zhao Mingzhao nhắc lại rằng "tốt nhất vẫn nên là kẻ thù của cái xấu" và cảnh báo khuynh hướng Trung Quốc tích lũy sức mạnh, đồng thời khích lệ chính quyền nước này lắng nghe các nước khác và gò mình theo luật pháp quốc tế vì "không còn sự lựa chọn nào khác". 

Về quan hệ với Mỹ, ông Zhao Mingzhao chủ trương một chiến lược cân bằng hơn và chỉ ra nguy cơ tập trung thù địch chống Oasinhtơn . Đổi lại, ông khích lệ cộng đồng quốc tế và Mỹ "quan tâm hơn đến khó khăn, nguyện vọng và mối lo ngại của Trung Quốc đang tìm kiếm năng lượng và tài nguyên cũng như những trở ngại đối với sức mạnh" của nước này. Ông nhắc lại rằng lối nói phóng đại năng lực của Trung Quốc và bôi xấu ý định của nước này có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến xung đột. 

Theo Tạp chí Địa Chính trị

Thùy Anh (gt)