ob-reuters.jpg

Động thái này sẽ có ý nghĩa mang tính biểu tượng quan trọng trong bối cảnh Trung Quốc và Mỹ đang ngày càng cạnh tranh ảnh hưởng tại vùng Tây Thái Bình Dương. Lo lắng trước những hành động quyết đoán của Trung Quốc nhằm khẳng định các yêu sách chủ quyền tại Biển Đông, Chính phủ Việt Nam đã liên tục hối thúc Mỹ chấm dứt lệnh cấm xuất khẩu vũ khí, để cho phép Hà Nội mua những thiết bị quân sự cao cấp như rađa hiện đại hay máy bay do thám. Hai năm trước, Washington đã bãi bỏ một phần lệnh cấm, cho phép bán những vũ khí liên quan đến "an ninh biển" cho Việt Nam.

Tuy nhiên, trong khi Bộ Ngoại giao Mỹ coi việc bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí là một động thái chiến lược quan trọng để đối phó với Trung Quốc, thì các tổ chức nhân quyền và một số thượng nghị sĩ Mỹ lo ngại rằng Nhà Trắng sẽ từ bỏ đòn bẩy quan trọng này mà không nhận được sự nhượng bộ thỏa đáng. Các thượng nghị sĩ của cả hai đảng, trong đó có Thượng nghị sĩ Patrick Leahy, đã bày tỏ sự phản đối đối với việc bãi bỏ lệnh cấm trên với lý do là chính quyền không nên có bất kỳ cử chỉ ngoại giao nào quá thân thiện nếu như Hà Nội chưa có những bằng chứng cụ thể về việc cải thiện tình trạng nhân quyền.

Trợ lý của Thượng nghị sĩ Leahy, ông Tim Rieser, cho biết mặc dù ông Leahy lâu nay ủng hộ Mỹ tăng cường quan hệ với Việt Nam, song ông "cảm thấy rất bức xúc về quyền tự do ngôn luận" và muốn Nhà Trắng giải thích về việc Việt Nam sẽ cải thiện các vấn đề nhân quyền như thế nào nếu như Mỹ cho phép bán vũ khí sát thương cho nước này.

John Sifton - Giám đốc khu vực châu Á của tổ chức Theo dõi Nhân quyền - cho biết: "Hiện chưa phải là thời điểm thích hợp để bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương, trừ phi Hà Nội nghiêm túc thực thi những biện pháp để cải thiện hồ sơ nhân quyền của họ".

Một số quan chức chính quyền và nghị sĩ quốc hội yêu cầu giấu tên cho biết trong mấy tuần gần đây, Nhà Trắng đã tranh cãi về vấn đề này. Và trong bài phát biểu tại một cuộc điều trần ở Thượng viện, Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter đã gây bất ngờ khi tỏ thái độ ủng hộ động thái này.

Quyết định cuối cùng phụ thuộc vào kết quả các cuộc đàm phán tại Việt Nam do hai nhà ngoại giao cao cấp đảm nhiệm: Trợ lý Ngoại trưởng Tom Malinowski, người chuyên phụ trách các vấn đề dân chủ, nhân quyền và lao động, và Trợ lý Ngoại trưởng Daniel Russel, người phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao cho biết ông Malinowski sẽ hối thúc Hà Nội "trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân chính trị" và thực hiện các cuộc cải cách khác phù hợp với những nghĩa vụ nhân quyền quốc tế của nước này.

Những người ủng hộ việc chấm dứt lệnh cấm bán vũ khí cho rằng trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong các vấn đề nhân quyền và hồ sơ của nước này tốt hơn so với một số đối tác khác của Mỹ vốn đang bị cáo buộc vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, như Saudi Arabia hay Ai Cập.

Gregory Poling, thành viên Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, nói: "Nhân quyền không phải là vấn đề tuyệt đối. Chúng ta phán xét nó dựa trên sự tương đối. Chúng ta thưởng cho những quốc gia cải thiện và phạt những quốc gia thụt lùi về nhân quyền" và Hà Nội đang có xu hướng cải thiện. Theo ông Poling, Việt Nam công nhận rằng họ phải cùng chung sống với Trung Quốc, nước láng giềng chung biên giới phía bắc. Ông Poling nhận định: "Song họ đang rất cần mở rộng không gian chiến lược càng nhiều càng tốt để phát triển và Mỹ là chìa khóa để làm điều đó".

Ông Carl Thayer, chuyên gia về an ninh Đông Nam Á tại trường Đại học New South Wales của Úc, cho rằng yêu cầu của Việt Nam muốn bãi bỏ những hạn chế về vũ khí mang động cơ chính trị nhiều hơn là quân sự. Những người theo quan điểm cứng rắn ở Việt Nam lâu nay cho rằng bất chấp quan hệ ngoại giao giữa Hà Nội và Washington ngày càng được cải thiện, nhiều quan chức chính phủ vẫn lo sợ Mỹ đang lặng lẽ châm ngòi một cuộc cách mạng thông qua những thúc ép về nhân quyền. Hà Nội cho rằng việc duy trì chính sách bán vũ khí "phân biệt đối xử", cùng với cách thức Mỹ giải quyết vấn đề nạn nhân chất độc Da cam, chứng tỏ Mỹ vẫn duy trì chính sách trừng phạt Việt Nam.

Trong bối cảnh căng thẳng tại Biển Đông leo thang, Mỹ đang tìm cách giúp các đồng minh và đối tác tăng cường khả năng tuần tra trên những vùng biển của họ, nhất là khi phải đương đầu với lực lượng hải quân ngày càng mạnh của Trung Quốc. Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết cho tới nay Việt Nam vẫn chưa trao cho Washington danh mục lớn nào liên quan đến những vũ khí mà họ muốn mua sắm trong tương lai, do đó việc chấm dứt lệnh cấm trên không chắc sẽ dẫn đến một loạt thỏa thuận quốc phòng lớn.

Cho tới nay, viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam - được hạn chế chỉ dành cho lực lượng Bảo vệ Bờ Biển - bao gồm vài tàu tuần tra nhỏ và cũ. Thiết bị quân sự chính của Việt Nam - dù là tàu ngầm tiên tiến hay máy bay chiến đấu - đều do Nga sản xuất và gần như chắc chắn sẽ không thay đổi. Chuyển sang vũ khí do Mỹ sản xuất sẽ rất tốn kém đối với Việt Nam vào thời điểm này.

Tuy nhiên, giữa hai nước có một lĩnh vực hợp tác tiềm tàng, tương tự như giữa Mỹ và Ấn Độ - có thể là tiếp cận các công nghệ quốc phòng tiên tiến hơn. Trong tuyên bố chung về tầm nhìn chung đạt được sau chuyến thăm của ông Carter tới Việt Nam hồi tháng 6 năm ngoái, hai chính phủ đã kêu gọi hợp tác trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng. Các chuyên gia cho biết Việt Nam, giống như các quốc gia khác trong khu vực, muốn nâng cấp các hệ thống vũ khí cũ kỹ và mua rađa, máy bay do thám để theo dõi tàu và tàu ngầm của Trung Quốc.

Phát biểu với tư cách cá nhân, một số quan chức Mỹ đã nói về khả năng tàu hải quân Mỹ một lần nữa sẽ hoạt động tại Vịnh Cam Ranh, nơi từng là căn cứ của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Song Hà Nội chưa công khai tán thành ý tưởng này. Ông Thayer cho rằng Việt Nam không ngại phản ứng của Trung Quốc khi xem xét quyết định mua vũ khí của Mỹ, song lo ngại Trung Quốc nếu cho phép Mỹ hiện diện tại Cam Ranh.

Theo "Chicago Tribune" (ngày 10/5)

Vũ Hiền (gt)