16/12/2021
ThS. Đỗ Hoàng & Lê Long, Viện Biển Đông
Ngày 18-19/11/2021, Học viện Ngoại giao đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 13 với chủ đề “Nhìn lại quá khứ vì một tương lai tươi sáng hơn”, thu hút gần 600 đại biểu trực tiếp và trực tuyến. Trong số 8 Phiên Hội thảo, Phiên 4 với tên gọi “Hãy công bằng với sự thật lịch sử” là một trong những nội dung được quan tâm nhất.
Phiên lịch sử quy tụ nhiều diễn giả nổi tiếng, bao gồm TS. Erik Solheim, Nguyên Giám đốc Điều hành Chương trình Môi trường Liên hiệp Quốc, Nguyên Bộ trưởng Môi trường và Phát triển Na-uy (với vai trò Chủ trì), GS. Monique Chemillier-Gendreau (Đại học Paris Diderot, Pháp), TS. Vũ Hải Đăng, (Trung tâm Luật pháp quốc tế, Đại học Quốc gia Singapore), nhà nghiên cứu độc lập Carl Zha (Trung Quốc) và cựu nhà báo Bill Hayton (Viện Chatham House, Anh).
Các diễn giả đã tập trung vào các diễn giải này thông qua những nghiên cứu và bằng chứng lịch sử mới, những phân tích đa chiều về các văn bản quan trọng trong thời kỳ hậu Thế Chiến 2 và Chiến tranh Lạnh, bao gồm Hiệp ước San Francisco sau 70 năm ký kết và Hiệp ước Hòa bình Trung - Nhật năm 1952.
Các diễn giả trong Phiên 4, Hội thảo Biển Đông 13 (Ảnh: tác giả cung cấp)
Nhà nghiên cứu Carl Zha cho rằng việc xem xét lịch sử yêu sách của Trung Quốc là cần thiết bởi Trung Quốc là nước tranh chấp lớn nhất tại Biển Đông. Theo nhà nghiên cứu, Trung Quốc thường đưa ra các bằng di vật, văn bản và bản đồ thời nhà Hán, nhà Tống và nhà Thanh… để chứng tỏ hiện diện tại đây. Trung Quốc cũng thường khẳng định mình là quốc gia đầu tiêu khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo trong lịch sử hiện đại.
Nhà nghiên cứu Carl Zha phát biểu tại Hội thảo (Ảnh: Học viện Ngoại giao)
Tuy nhiên, các diễn giả còn lại đã đưa ra lập luận phản bác quan điểm trên. Thứ nhất, Trung Quốc không phải là nước đầu tiên tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông. GS. Monique Chemillier-Gendreau cho biết không có triều đại nào ở Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa trước năm 1909, chính quyền Quốc dân Đảng chỉ chiếm giữ Hoàng Sa trong thời gian ngắn 1947-1950 và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đến năm 1988 mới chiếm đóng Trường Sa.
Học giả Bill Hayton cũng đưa ra bằng chứng chính tỏ triều đại nhà Thanh không tuyên bố chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa. Khi hai tàu SS Bellona của Đức và Himeji Maru của Nhật (do công ty của Anh bảo hiểm) gặp sự cố tại Hoàng Sa, quan chức thời nhà Thanh đã gửi đại diện lãnh sự Anh tại Trung Quốc hai bức thư, trong đó phủ nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hai tàu trên và gọi địa điểm xảy ra vụ việc bằng thuật ngữ “biển cả”. Theo Hayton, hai bức thư cho thấy nhà Thanh đã phủ nhận chủ quyền với Hoàng Sa và thậm chí có thể không biết đến sự tồn tại của quần đảo này vào thời điểm đó.
Vũ Hải Đăng cũng khẳng định thêm rằng Việt Nam là quốc gia đầu tiên tuyên bố chủ quyền và là quốc gia duy nhất liên tục quản lý Hoàng Sa và Trường Sa theo luật quốc tế từ thể kỷ XV, triều đình nhà Nguyễn đã bắt đầu các hoạt động khai thác tại hai quần đảo.
Thứ hai, các văn kiện quốc tế không khẳng định chủ quyền của Trung Quốc. GS. Monique cho biết Tuyên bố Hội nghị Cairo 1943 (dù có Tưởng Giới Thạch tham gia) không nhắc tới Hoàng Sa và Trường Sa trong số các lãnh thổ mà Nhật phải trao trả cho Trung Quốc.
Với Hiệp ước San Francisco 1951, GS. Monique và TS. Vũ Hải Đăng đều khẳng định hai văn bản: i) không công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ mà Nhật phải trao trả lại cho Trung Quốc; ii) chỉ từ bỏ quyền kiểm soát của Nhật đối với hai quần đảo; iii) đại diện Liên Xô tại San Francisco đã đề xuất thêm Hoàng Sa và Trường Sa vào cùng với Đài Loan và đảo Bành Hồ để trả lại cho TQ nhưng hội nghị không đồng ý – chứng tỏ hội nghị không cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của TQ và phải trả lại cho TQ; iv) đại diện Nam Việt Nam (Thủ tướng Trần Văn Hữu) đã có mặt tại San Francisco, khẳng định hai quần đảo thuộc về Việt Nam và không bị các đại biểu khác phản đối.
Với Hiệp ước Trung – Nhật 1952, GS. Monique cho biết Điều II Hiệp ước công nhận kết quả của Hiệp ước San Francisco rằng Nhật từ bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Vì San Francisco không khẳng định Nhật phải trao hai quần đảo cho Trung Quốc, Hiệp ước Trung – Nhật cũng không công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này.
Vũ Hải Đăng cũng khẳng định thêm rằng Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai chỉ nhằm tuyên bố Việt Nam ủng hộ chính sách “Một Trung Quốc” trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, khi Hạm đội 7 của Mỹ tiến vào eo biển Đài Loan.
Monique Chemillier-Gendreau phát biểu trực tuyến tại Hội thảo (Ảnh: Học viện Ngoại giao)
Lịch sử đóng vai trò quan trọng trong mọi tranh chấp lãnh thổ nhưng lại thường được diễn giải theo nhiều cách khác nhau để phục vụ các lợi ích khác nhau. Do đó, việc tranh luận thẳng thắn và thông tin rộng rãi về giá trị của các bằng chứng và văn kiện lịch sử dù trong thời đại nào cũng là cần thiết. Hy vọng, các kỳ Hội thảo Biển Đông sắp tới sẽ tiếp tục truyền thống này.
Bài viết phản ánh quan điểm của tác giả.
Ngày 11 tháng 4 năm 2025, tại Diễn đàn Ngoại giao Antalya (Antalya Diplomacy Forum, gọi tắt ADF 2025), diễn ra tại Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ, Tổng thống Prabowo Subianto có bài phát biểu về tầm quan trọng của hợp tác khu vực trong đó có đề cập đến ý tưởng phát triển chung giữa Indonesia và Trung Quốc trên...
Mối quan hệ giữa Campuchia và Mỹ đã trải qua nhiều biến động thăng trầm kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1993 và chịu nhiều tác động bởi các yếu tố lịch sử, khác biệt về tự do chính trị, dân chủ, nhân quyền và quan hệ với Trung Quốc. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Donald Trump...
Trong 50 ngày đầu nắm quyền, Chính quyền Trump 2.0 đã có nhiều điều chỉnh mạnh mẽ về chính sách đối ngoại, tạo ra nhiều “cú sốc” với cả đồng minh và đối thủ. Tuy nhiên, tại Biển Đông, chiều hướng can dự của Chính quyền Trump 2.0 (tạm gọi là “chính sách Biển Đông” của Trump 2.0) có phần ổn định hơn. Đâu...
Với chiến thắng trước ứng cử viên Kamala Harris trong cuộc bầu cử tổng thống vào cuối năm 2024, Donald Trump đã tái đắc cử và trở thành Tổng thống thứ 47 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Chiến thắng này đem lại niềm vui cho một bộ phận lớn cử tri Mỹ, song cũng khiến nhiều quốc gia trên thế giới lo ngại.
Ngày 21.2, Chính phủ Việt Nam đã ra Tuyên bố về đường cơ sở của Việt Nam trong vịnh Bắc bộ. Đây là hoạt động chính đáng, thực hiện quyền và nghĩa vụ của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm (UNCLOS) 1982 và phù hợp với luật Biển Việt Nam năm 2012.
Thời gian gần đây Trung Quốc có xu hướng vừa gia tăng hiện diện trên thực địa để hiện thực hóa các yêu sách không phù hợp với luật pháp quốc tế, vừa thúc đẩy các cam kết về hợp tác khai thác chung tài nguyên biển với các quốc gia Đông Nam Á trên Biển Đông.