19/10/2015
Kinh tế toàn cầu hiện phải đối mặt với những mối nguy được đánh giá là trầm trọng nhất kể từ thời Ngân hàng đầu tư lớn Lehman Brothers của Mỹ, “ngòi nổ” cho cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Tình trạng kinh tế “trì trệ trường kỳ” tại các nước phát triển trở nên xấu đi, trong khi các thị trường mới nổi lớn, đi đầu là Trung Quốc, lại đang sa sút. Thuật ngữ “trì trệ trường kỳ” ở đây được dùng để chỉ tình trạng các nước công nghiệp hóa tăng trưởng ở mức không thỏa đáng, mặc dù họ đã viện tới chính sách tiền tệ siêu lỏng. Chiều hướng này có thể dẫn tới một vòng luẩn quẩn trên toàn cầu, trong đó nhịp độ tăng trưởng chậm lại của các nước công nghiệp gây tác động xấu tới các thị trường mới nổi và hệ quả là nhịp độ tăng trưởng kinh tế của các nước phương Tây càng chậm thêm. Đối với các nền kinh tế công nghiệp hóa hiện có đà tăng trưởng gần như chững lại, họ dường như không còn đủ sức để đương đầu với bất kỳ cú sốc quy mô toàn cầu nào.
Trong khi đó, các nhà hoạch định chính sách dường như đánh giá thấp nguy cơ rơi trở lại suy thoái ở các nước phương Tây cũng như trên toàn cầu. Một khi xảy ra suy thoái, các nhà hoạch định chính sách tiền tệ sẽ thiếu công cụ để đối phó với tình trạng này. Thực tế, các nước công nghiệp hóa hiện dường như không còn nhiều công cụ trong tay. Lãi suất dự báo sẽ tiếp tục ở mức rất thấp trong thời gian dài ở Nhật Bản và châu Âu và tăng rất chậm ở Mỹ. Thúc đẩy tăng trưởng là mục tiêu cơ bản của chính sách kinh tế vĩ mô của các nước. Đây cũng là thách thức trên toàn cầu và các giải pháp để thực hiện mục tiêu này không thể chỉ bó hẹp trong phạm vi chính sách tiền tệ.
Những dự báo gần đây về tăng trưởng Tổng sản phẩm Quốc nội (GDP) trong tương lai đều bị điều chỉnh xuống tại hầu hết các nước. So với dự báo năm 2012, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã hạ dự báo tăng trưởng GDP danh nghĩa năm 2020 của Mỹ: 6%, của châu Âu: 3%, của Trung Quốc: 14%, của các thị trường mới nổi: 10% và của nền kinh tế thế giới: 6%. Sự điều chỉnh dự báo này còn chưa tính tới khả năng xảy ra suy thoái kinh tế tại các nước công nghiệp hóa và khủng hoảng hệ thống tại các nước đang phát triển. Ông Summers cho rằng hiện là thời đại mà nguy cơ giảm phát lớn hơn lạm phát và không thể trông chờ gì nhiều từ đặc tính tự phục hồi của các nền kinh tế thị trường. Ảnh hưởng của hiện tượng “tác động trễ” (tức là suy thoái không chỉ gây thiệt hại ở hiện tại mà còn ảnh hưởng tới tăng trưởng GDP trong tương lai) dường như vượt ra ngoài sức tưởng tượng của bất kỳ ai cách đây vài năm. Ông cho rằng yêu cầu cấp thiết hiện nay là thế giới cần phải có bước thay đổi lớn về mặt chiến lược kinh tế.
Các thị trường mới nổi lâu nay là “điểm sáng” của kinh tế toàn cầu, tiếp nhận lượng vốn lớn từ các nước phát triển. Thống kê cho thấy dòng vốn đầu tư từ các nước công nghiệp hóa chảy vào các nước đang phát triển đã tăng đáng kể, từ 240 tỷ USD năm 2002 lên 1.100 tỷ USD vào năm 2014. Tuy nhiên, lượng vốn ròng chảy vào các nước đang phát triển lại giảm mạnh từ đầu năm đến nay và đây là lần sụt giảm đầu tiên trong gần 30 năm qua. Theo Viện Tài chính Quốc tế (Mỹ), ước tính khoảng 1.000 tỷ USD vốn tư nhân đã thoái lui khỏi các nước đang phát triển từ đầu năm 2015 tới thời điểm này.
Tại các nền kinh tế mới nổi, kinh tế Trung Quốc đang đối mặt với nhiều thách thức, từ tình trạng dân số già đi với tốc độ nhanh nhất từ trước tới nay đến tình trạng đầu tư không hiệu quả. Với việc Trung Quốc chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa vào tiêu dùng trong nước, thì tầm ảnh hưởng của nước này đối với các thị trường hàng hóa thế giới cũng giảm sút. Trong khi đó, Nga lao đao vì giá dầu lao dốc và các biện pháp trừng phạt của phương Tây; Brazil bị ảnh hưởng đáng kể bởi giá hàng hóa sụt giảm; Ấn Độ là ngoại lệ, trong khi tại các nước từ Trung Âu, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ cho tới Đông Nam Á, tình trạng tăng trưởng chậm lại của các nước công nghiệp hóa và những vấn đề chính trị đều ảnh hưởng bất lợi tới đà tăng trưởng cũng như dòng vốn đầu tư chảy vào các nền kinh tế mới nổi nói trên.
Ông Summers cho rằng thật vô lý khi lý luận rằng kinh tế tăng trưởng chậm lại chỉ là hậu quả tạm thời của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Các số liệu mới nhất cho thấy kinh tế Mỹ đang tăng chậm lại, trong khi kinh tế châu Âu và Nhật Bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng tăng trưởng ì ạch. Trong khi đó, kinh tế toàn cầu đang chững lại và đối mặt với mối nguy hàng đầu là nguy cơ suy thoái. Theo ông, điều cần thiết vào thời điểm này là chính phủ các nước cần thừa nhận thực tế rằng kinh tế “trì trệ trường kỳ” và khả năng lan ra toàn thế giới của nó là những nguy cơ mà chúng ta đang phải đối mặt.
Ông lưu ý rằng Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cần phải sẵn sàng để ngăn chặn khả năng đổ vỡ tài chính trên toàn cầu có thể dẫn tới suy thoái kinh tế, trong khi các ngân hàng trung ương châu Âu và Nhật Bản cần nhận thức rõ hơn rằng nguy cơ lớn nhất hiện nay là kinh tế tăng trưởng chậm hơn nữa, đồng thời sẵn sàng tung ra các công cụ hữu hiệu để ngăn chặn nó, bởi vào thời điểm lợi suất trái phiếu ở dưới ngưỡng 1% như hiện nay, thì biện pháp nới lỏng định lượng (QE) mà nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đang áp dụng sẽ khó phát huy hiệu quả.
Bài viết của Giáo sư trường Đại học Havard, ông Larry Summers - cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ - đăng trên tạp chí "Thời báo Tài chính" của Anh.
Anh Thư (gt)
Trong cuộc khủng hoảng do đại dịch gây ra, và trong thời kỳ suy thoái kinh tế kéo dài vốn sẽ tác động đến nền kinh tế của cả hai nước, Trung Quốc và Ấn Độ cần hợp tác chặt chẽ hơn thay vì dựng lên những rào cản mới đối với can dự kinh tế.
Các ngân hàng trung ương đã thực hiện các biện pháp chính sách tiền tệ sâu rộng để bù đắp cho những tổn thất mà cuộc khủng hoảng dịch COVID-19 đã gây ra. Câu hỏi đặt ra là liệu các biện pháp này có mang lại hiệu quả, trấn an thị trường và hỗ trợ nền kinh tế thực sự như mong muốn hay không.
Đại dịch COVID-19 và một cuộc chiến về giá đã đẩy các thị trường năng lượng thế giới rơi vào khủng hoảng. Trong lịch sử, thị trường dầu mỏ toàn cầu chưa bao giờ sụp đổ đột ngột như hiện nay.
Bộ phận dự báo, phân tích và tư vấn rủi ro (EIU) thuộc tập đoàn The Economist (Anh) nhận định rằng nền kinh tế toàn cầu năm 2020 có thể sẽ tiếp tục gặp nhiều thách thức bởi tác động từ tình trạng bất ổn địa chính trị cùng với sự bùng phát đại dịch toàn cầu COVID-19.
Dự án Hành lang Kinh tế phía Đông (EEC) được phát triển dựa trên khu vực theo mô hình kinh tế Thái Lan 4.0, là một dự án đầy tham vọng của Chính phủ Thái Lan nhằm tái cấu trúc và khôi phục nền kinh tế vốn mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình.
Sau 30 năm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, Việt Nam đã bước vào thời kỳ phát triển tốt nhất trong lịch sử với triển vọng tương lai tươi sáng và lộ trình phát triển rõ ràng. Tuy nhiên, không nên cho rằng Việt Nam có thể thách thức chuỗi sản xuất công nghiệp Trung Quốc cũng như đặt hai nước ở...