Cuộc tranh chấp kéo dài giữa Bắc Kinh và Tôkyô giờ đây không đơn giản chỉ là một vấn đề về địa lý hay niềm tự hào dân tộc, mà là một cuộc chiến tranh giành nguồn tài nguyên thiên nhiên, các lợi ích kinh tế và các lợi ích chiến lược. Cuộc chiến này cũng diễn ra vì vị thế và ảnh hưởng quốc gia không chỉ hạn chế ở châu Á mà còn ảnh hưởng cả vũ đài toàn cầu, khiến hai cường quốc kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất khu vực ở vào thế đối đầu nhau. Đối với Mỹ và các đồng minh khu vực của nước này, vụ tranh chấp chủ quyền quần đảo Điếu Ngư/Senkaku là một vụ việc để kiềm chế một cường quốc đang nổi lên – Trung Quốc, và cũng là bài kiểm tra đối với tham vọng mới tuyên bố của Trung Quốc là trở thành một “cường quốc biển,” như Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã đưa ra trong báo cáo chính trị tại Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc mới đây. Quần đảo nhỏ và không có người ở, được biết đến với tên gọi Senkaku ở Nhật Bản, có vị trí nằm giữa Đài Loan và hòn đảo Okinawa ở phía Nam Nhật Bản và hiện thuộc quyền kiểm soát của Tôkyô. Quần đảo này hiện đang bị thách thức chủ quyền bởi Bắc Kinh và Đài Loan, với cáo buộc rằng người Nhật Bản đã xâm chiếm quần đảo này trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật năm 1895. 

Giáo sư Kim Xán Vinh, một chuyên gia an ninh và là Phó Viện trưởng Học viện Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Nhân dân (Trung Quốc) nhận định: “Những hòn đảo trên quần đảo Điếu Ngư sở hữu nhiều giá trị hơn so với những giá trị đơn thuần về mặt chiến lược, quân sự và kinh tế bởi vì chúng là vấn đề về an ninh hàng hải và chúng có một lượng lớn dầu mỏ và nguồn cá phong phú”. Cuộc tranh chấp chủ quyền quần đảo Điếu Ngư/Senkaku có lẽ sẽ tồn tại trong một thời gian dài nữa, nhưng tầm quan trọng của nó đã trở nên rõ ràng chỉ trong vài thập kỷ gần đây khi cả hai cường quốc kinh tế châu Á này đều cùng có chung mô hình phát triển đầy bức bách. Cả Trung Quốc và Nhật Bản hiện đều là những gã khổng lồ sản xuất của thế giới với việc phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa, trong đó an ninh hàng hải là một yếu tố quan trọng. Từ một khu vực Bắc Cực giàu tài nguyên và đang tan chảy tới phía Đông Địa Trung Hải và từ Nam Đại Tây Dương tới Biển Hoa Đông, những tranh cãi pháp lý, các động thái ngoại giao và những đe dọa quân sự đều đang nổi lên liên tục. Tuy nhiên, cho đến nay cuộc tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Điếu Ngư/Senkaku trên Biển Hoa Đông dường như là tranh chấp tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột nhiều nhất. Cuộc tranh chấp này khiến hai cường quốc mạnh nhất châu Á ở vào thế đối đầu, cả hiện nay và trong những năm tới khi mà những thỏa hiệp và giải pháp vẫn ít – mặc dù hầu hết các chuyên gia đều tin rằng việc nói về xung đột trước mắt có lẽ là sự cường điệu, ít nhất là ở thời điểm hiện nay. 

Bất chấp thực tế là cả hai Chính phủ Trung Quốc và Nhật Bản đã nhất trí cùng hợp tác để đưa Biển Hoa Đông thành “vùng biển của hòa bình, hợp tác và hữu nghị” trong một tuyên bố chung được đưa ra hồi tháng 5/2008, quan hệ giữa hai nước đã rơi vào tình trạng ngày càng tồi tệ, đặc biệt là kể từ khi Tôkyô có động thái mang tính khiêu khích là quốc hữu hóa quần đảo Điếu Ngư/Senkaku hồi tháng 9 vừa qua. Hành động này khiến cả hai nước điều động các tàu có vũ trang đến vùng biển quanh quần đảo tranh chấp trong nhiều tuần cho đến gần đây, khiến “nhiệt độ ngoại giao” gia tăng và dẫn đến những lời kêu gọi kiềm chế từ cộng đồng quốc tế. Quả thực như vậy, cuộc tranh cãi quốc tế giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở quần đảo Điếu Ngư/Senkaku xảy ra không chỉ vì phần lãnh thổ trên các hòn đảo, mà là những gì xung quanh và những thứ nằm dưới mặt nước ở vùng biển đó. Trên hết, việc thiết lập quyền sở hữu đối với những bãi đá ở giữa biển là một cách để khẳng định và gia tăng đáng kể cái gọi là Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) – vùng biển mà ở đó một quốc gia cụ thể có đặc quyền khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. EEZ trải dài từ quần đảo tranh chấp Điếu Ngư/Senkaku có thể được khai thác cho mục đích ngư nghiệp. Các ngư dân Đài Loan và Trung Quốc đại lục từ lâu đã đánh bắt cá ở đó. Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia trải dài 200 hải lý từ thềm lục địa của quốc gia đó, hoặc tới đường ranh giới biển giữa hai quốc gia. Ở Biển Hoa Đông, điểm rộng nhất giữa Trung Quốc và Nhật Bản là 300 hải lý. 

Tiến sĩ Tôn Thiệu Chính, một chuyên gia về năng lượng thuộc Đại học Đàm Giang của Đài Loan nói rằng Trung Quốc và Nhật Bản đã thông qua những tiêu chuẩn khác nhau về khái niệm của họ đối với một vùng đặc quyền kinh tế. Tiến sĩ Tôn Thiệu Chính cho biết: Nhật Bản lấy nguyên tắc xác định vùng đặc quyền kinh tế là đường giới tuyến trên biển, còn Trung Quốc lại xác định vùng đặc quyền kinh tế của họ dựa trên thềm lục địa kéo dài ở vùng nước cạn Biển Hoa Đông”. Vùng biển sâu rộng quanh quần đảo Điếu Ngư/Senkaku được cho là rất giàu tài nguyên. Theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, trữ lượng dầu mỏ chưa khai thác ở vùng biển này ước tính vào khoảng từ 100 đến 160 tỷ thùng. Trong khi đó, những đánh giá khác nhau đối với Biển Hoa Đông, nơi có nhiều quốc gia cùng tuyên bố chủ quyền, trong đó có Trung Quốc, dự đoán vùng biển này có trữ lượng dầu mỏ vào khoảng từ 28 đến 213 tỷ thùng. Theo các số liệu liên quan, trữ lượng dầu mỏ và khí đốt tự nhiên ở Biển Hoa Đông sẽ đủ để đáp ứng các nhu cầu năng lượng của Trung Quốc trong ít nhất 80 năm. Trong khi đó, theo Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng, Vận tải và Du lịch Nhật Bản, lượng Mangan ở vùng Biển Hoa Đông gần quần đảo Điếu Ngư có thể đáp ứng được nhu cầu của Nhật Bản trong 320 năm, đủ Coban trong 1.300 năm, đủ Niken trong 100 năm và đủ khí đốt tự nhiên trong 100 năm, chưa tính đến những tài nguyên khoáng sản và nguồn cá dồi dào. 

Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku nằm ở phía Tây vùng lòng chảo Okinawa, một vùng lòng chảo đại dương sâu mà Trung Quốc lập luận là đã tự tách rời vùng thềm lục địa của nó khỏi thềm lục địa Nhật Bản. Tuy nhiên, nếu như quần đảo Điếu Ngư/Senkaku được cho là thuộc về Nhật Bản, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ cùng chung một thềm lục địa. Nếu như thềm lục địa đó được phân định theo những điều khoản của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển, Trung Quốc sẽ mất nhiều vùng lãnh hải và cả những nguồn tài nguyên ở dưới những vùng biển đó. Triển vọng lạc quan nhất cho thấy là nếu một quốc gia kiểm soát được những nguồn tài nguyên đại dương đó, thì nguồn tài nguyên ấy sẽ biến một quốc gia hạn chế về tài nguyên thiên nhiên thành một cường quốc về tài nguyên thiên nhiên. Cả Trung Quốc và Nhật Bản đều là những nước nhập khẩu và tiêu thụ rất nhiều năng lượng, và cuộc đua tranh giữa hai nước được tạo nên từ nhu cầu năng lượng ngày càng trở nên cấp thiết ở mỗi nước. Tiến sĩ Tôn Thiệu Chính nói rằng cùng với những sự thiếu tin tưởng về chính trị và lịch sử, cuộc cạnh tranh quyết liệt về các nguồn năng lượng sẽ làm quan hệ giữa Trung Quốc với Nhật Bản tồi tệ hơn nữa. Tiến sĩ Tôn Thiệu Chính kết thúc công trình nghiên cứu mang tên “Cuộc truy tìm các nguồn tài nguyên năng lượng Trung-Nhật” của mình bằng nhận định: “Sự va chạm không thường xuyên và thậm chí là những xung đột đã được hâm nóng là điều chắc chắn sẽ xảy ra bởi vì những vấn đề cạnh tranh năng lượng đã trở nên phức tạp bởi sự hận thù mang tính lịch sử và sự thiếu tin tưởng về chính trị, cùng các tranh chấp lãnh thổ”. 

Thiếu tướng La Viện, một chiến lược gia nổi tiếng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), nói rằng vấn đề quần đảo Điếu Ngư/Senkaku không chỉ là vấn đề đánh mất hay bảo toàn lãnh thổ Trung Quốc. An ninh và sự phát triển của Trung Quốc cũng đang bị đe dọa. Viên tướng về hưu này nhận xét: “Đằng sau cuộc tranh chấp chủ quyền nào cũng có cuộc đua tranh về những lợi ích địa kinh tế, lợi ích địa chiến lược và địa chính trị ở dưới đáy biển”. Có vẻ như không bên nào sẽ thể hiện sự yếu đuối bởi vì bất kỳ sự nhượng bộ nào cũng có thể có tác động tiêu cực đến những thỏa thuận hàng hải trong tương lai – cả hai nước này đều có những tranh chấp lãnh hải kéo dài với các nước láng giềng. Nhật Bản có tranh chấp không chỉ với Trung Quốc mà còn cả với Nga và Hàn Quốc. Trung Quốc đại lục và Đài Loan có tranh chấp với các nước Đông Nam Á xung quanh chủ quyền các quần đảo ở Biển Đông. Tiến sĩ Lý Kiến Cường, chuyên gia về an ninh năng lượng thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Quốc tế của Đại học Xítni, nói rằng Trung Quốc dường như có quan điểm là những tuyên bố chủ quyền khác nhau của họ ở Biển Hoa Đông và Biển Đông là không thể tách rời. Tiến sĩ Lý Kiến Cường nhấn mạnh: “Quan điểm đó của Trung Quốc được hiểu là nếu như giảm bớt độ quyết liệt hoặc thỏa hiệp đối với một tuyên bố thì sẽ làm suy yếu tinh thần và địa vị pháp lý của những tuyên bố còn lại. Trong quá trình thực hiện điều này, Bắc Kinh có quan điểm là bất kỳ thỏa hiệp nào về quần đảo Điếu Ngư đều sẽ làm suy yếu những tuyên bố của họ ở Biển Đông và do đó làm trầm trọng thêm cảm giác bị bao vây chiến lược bởi các lực lượng Mỹ và đồng minh của Mỹ ở các vùng lãnh hải trong khu vực”. 

Phó Giáo sư Taylor Fravel, một chuyên gia về khoa học chính trị thuộc Viện Công nghệ Massachusetts và là tác giả cuốn “Những đường biên giới vững mạnh, Sự đảm bảo quốc gia: Hợp tác và Xung đột trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc”, nhận định: “Cả Tôkyô và Bắc Kinh có lẽ đều kết luận rằng bất kể bên nào thắng thế trong cuộc tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku đều sẽ có một cơ hội tốt hơn trong việc chiếm ưu thế trong những cuộc tranh chấp khác”. Giáo sư Trương Văn Mộc thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược của Đại học Hàng không Bắc Kinh nói rằng mức độ thiếu hụt tài nguyên trên toàn thế giới tương xứng với mức độ căng thẳng giữa các cường quốc lớn. Giáo sư Trương Văn Mộc, tác giả của nhiều cuốn sách, trong đó có các cuốn “Chiến lược an ninh của Trung Quốc trong thế kỷ mới” và “Phân tích những Lợi ích An ninh Quốc gia của Trung Quốc trong địa chính trị thế giới,” cho rằng “ở đâu có sự khan hiếm các nguồn tài nguyên, ở đó sẽ xảy ra các vấn đề địa chính trị. Các nguồn tài nguyên có liên quan trực tiếp đến sự sống còn và phát triển của Trung Quốc bởi vì nước này phụ thuộc gần 50% vào lượng dầu mỏ nhập khẩu”. Giáo sư Trương Văn Mộc viết trong báo cáo nghiên cứu gần đây mang tên “Bảo vệ An ninh biên giới và Ranh giới An ninh” rằng “Trung Quốc không thể kiểm soát những mục tiêu phát triển mà không có sự kiểm soát phù hợp với những nguồn tài nguyên có vai trò ‘bơm nhiên liệu’ cho nền kinh tế”. Các chuyên gia chiến lược của Trung Quốc đã kêu gọi chính phủ nước này thực hiện sách lược phát triển thành một cường quốc biển để hỗ trợ cho sự phát triển nhanh chóng của nước này, trong khi đã có những tuyên bố rằng những quan ngại về quân sự và an ninh cũng đã chi phối tâm trí của các nhà hoạch định chính sách và các chiến lược gia ở cả Tôkyô và Bắc Kinh. 

Trong một chương trình đặc biệt của Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) gần đây về vấn đề làm thế nào để đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc biển, Thiếu tướng La Viện đã nói rằng “nước nào kiểm soát được các hòn đảo, nước đó sẽ chiếm ưu thế quân sự trong các cuộc xung đột trong tương lai”. Tuy nhiên, Giáo sư Lâm Trung Bân, cựu Thứ trưởng Quốc phòng Đài Loan, hiện đang làm việc tại Đại học Đàm Giang của Đài Loan đã bác bỏ quan điểm này. Ông nói rằng không chỉ vì những hòn đảo không có người ở tại quần đảo Điếu Ngư/Senkaku không phù hợp với việc xây dựng bất kỳ cơ sở quân sự lớn nào, mà ông còn tin rằng Tôkyô chưa chắc đã mạo hiểm với những hậu quả từ việc khảo sát bất kỳ mục đích quân sự nào ở quần đảo đó trong tương lai gần. Các quan chức và giới học giả Trung Quốc nói rằng Mỹ đang đóng một vai trò chủ chốt trong việc làm leo thang tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku sau chính sách chuyển trọng tâm trở lại châu Á của Tổng thống Mỹ Barack Obama, một chính sách nhằm tạo cho Oasinhtơn một lợi thế chiến lược lâu dài và sự lãnh đạo trong khu vực. Trần Kiện, cựu Đại sứ Trung Quốc tại Nhật Bản và hiện giữ cương vị Chủ nhiệm khoa tại Học viện Quan hệ Quốc tế của Đại học Nhân dân (Trung Quốc), cho rằng “việc các nước trong khu vực tranh chấp với Trung Quốc nằm trong lợi ích của Mỹ đã không còn là điều bí mật nữa, nhưng tất cả chỉ là tranh chấp chứ không phải là chiến tranh”. 

Vì vậy, sự phong tỏa chiến lược Mỹ-Nhật đối với Trung Quốc sẽ được thúc đẩy từ quần đảo Nhật Bản tới phía Tây của đường ranh giới giữa hai nước. Do đó, theo các chuyên gia chiến lược quân sự Trung Quốc, Trung Quốc phải tranh giành từng cm cho đến tận quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, một phần toàn vẹn lãnh thổ của nước này. Một nhân tố khác là Mỹ công nhận sự kiểm soát hành chính của Nhật Bản đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, vì thế nó bị giới hạn bởi Điều 5 của Hiệp ước đảm bảo An ninh Nhật-Mỹ, một điều khoản yêu cầu hỗ trợ Nhật Bản “bất cứ khi nào an ninh của Nhật Bản hoặc hòa bình quốc tế và an ninh ở vùng Viễn Đông bị đe dọa”. Trong khi cả Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta nói với Bắc Kinh rằng Oasinhtơn duy trì một lập trường trung lập trong các vấn đề chủ quyền, họ cũng đã nói rõ rằng quần đảo Điếu Ngư/Senkaku chịu tác động của Hiệp ước đảm bảo An ninh Nhật-Mỹ. Tiến sĩ Tôn Thiệu Chính nói rằng Bắc Kinh đã nhận thức được việc Mỹ triển khai các tên lửa ở Nhật Bản, sự liên quan của Mỹ trong cuộc tranh chấp giữa Philíppin với Trung Quốc xung quanh chủ quyền các hòn đảo ở Biển Đông, và việc làm trầm trọng thêm cuộc xung đột xung quanh chủ quyền quần đảo Điếu Ngư/Senkaku là những nhân tố nằm trong nỗ lực của Mỹ nhằm phủ nhận những quyền và lợi ích thương mại của Trung Quốc trong khu vực. 

Đài Loan, về phần mình đã tự thấy mình ở vào tình thế lúng túng và đã kiềm chế tham gia tranh chấp, với việc Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu kêu gọi đàm phán với Tôkyô về các quyền đánh bắt cá ở gần quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Cựu Thứ trưởng Quốc phòng Đài Loan Lâm Trung Bân nêu ra câu hỏi “Đài Loan có thể làm gì ngoài việc kêu gọi tham vấn? Theo chuyên gia này, “một hiệp ước hòa bình giữa các quốc gia theo đó cho phép sự phát triển chung là một sự lựa chọn tốt nhất đối với Đài Bắc”. Do sự khác nhau giữa hiện trạng lãnh thổ và sự cân bằng chính trị, kinh tế của các cường quốc đã trở nên rõ ràng ở Đông Á, khả năng xảy ra xung đột sẽ gia tăng. Một phái đoàn Mỹ hồi tháng 10 đã gặp Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường (người sẽ trở thành Thủ tướng vào tháng 3 tới), và cả các Ngoại trưởng của hai nước, đã nói rằng trong khi không có bên nào muốn xảy ra một cuộc đối đầu, một sai lầm hoặc một tính toán sai lầm có thể leo thang thành một cuộc đối đầu quân sự. Theo thuyết duy vật về chính trị quốc tế, sự bất hòa giữa một nước Mỹ đang sa sút và một Trung Quốc đang nổi lên là điều không thể tránh khỏi. Và người Trung Quốc tin rằng đằng sau tranh chấp Trung-Nhật là một cuộc chiến tranh lạnh ở hậu trường giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn. Trong bối cảnh này, Mỹ đang sử dụng Nhật Bản và các nước nhỏ hơn khác trong khu vực để kiềm chế sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc bởi vì Mỹ sẽ không thể một mình dẫn dắt các đồng minh châu Á như họ đã làm trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. 

Sự hiện diện của Trung Quốc chỉ mang tính danh nghĩa trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, nhưng hiện nay nước này đã trở thành một cường quốc vững mạnh ở châu Á. Giáo sư Kim Xán Vinh nhận định: “Khi Trung Quốc trỗi dậy, Nhật Bản loạng choạng và Mỹ bị căng sức quá mức, một cuộc cạnh tranh an ninh quyết liệt đang diễn ra ở Đông Á”. Chiến thắng luôn thuộc về phía sở hữu những khẩu súng lớn. Điều này bao gồm những khẩu súng theo nghĩa đen và các loại vũ khí khác, như sức mạnh kinh tế, văn hóa, lòng yêu nước và sự gây hấn – tất cả các nguồn lực để giành được các vùng lãnh thổ cũng như là những người bạn và ảnh hưởng đến mọi người trên toàn cầu./. 

Theo báo “Bưu điện Hoa Nam buổi Sáng” (ngày 4/12)

Viết Tuấn (gt)