Trung Quốc đang cố thử cả hai chiến thuật tại Liên Hợp Quốc.

Xung đột trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam về việc hạ đặt giàn khoan HD 981 trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông từ đầu tháng 5 tới nay đã bước sang tuần thứ 7.

Vào ngày 9/6, Trung Quốc bất ngờ có bước đi mới khi ông Vương Minh, Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hợp quốc đệ trình tuyên cáo quan điểm của Trung Quốc về vụ tranh chấp với yêu cầu Liên Hợp quốc cho lưu hành văn bản này tới 193 thành viên của Đại hội đồng.

Việc Trung Quốc quốc tế hóa tranh chấp với Việt Nam không phải là sự thay đổi trong chính sách mà lâu nay Trung Quốc vẫn luôn theo đuổi, đó là tranh chấp biển chỉ có thể được giải quyết song phương thông qua tham vấn trực tiếp và đàm phán giữa các bên liên quan trực tiếp. Một ngày sau khi Trung Quốc đệ trình tuyên cáo quan điểm của mình, bà Hoa Xuân Oánh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, tuyên bố rằng Trung Quốc từ chối phân xử của Liên Hợp quốc trong tranh chấp biển với Việt Nam.

Vậy, tại sao Trung Quốc đưa tranh chấp với Việt Nam lên Liên Hợp quốc?

Năm 2003, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Ủy ban Quân sự Trung ương đã chính thức thông qua học thuyết "3 mặt trận" (người Trung Quốc gọi Tam chủng Chiến pháp). Học thuyết “3 mặt trận” là một yếu tố quan trọng trong cuộc chiến dư luận này.

Năm 2012, cuốn sách của tác giả Timothy A.Walton mang tựa đề "Học thuyết 3 mặt trận của Trung Quốc - China's Three Warfare" có nêu 3 nhân tố: “Chiến tranh báo chí, chiến tranh tâm lý và chiến tranh pháp lý”. Chiến tranh báo chí và chiến tranh pháp lý là hai yếu tố được định hình trong lập luận quan điểm của Trung Quốc.

Theo Walton, chiến tranh báo chí là chiến lược được xây dựng nhằm tác động tới dư luận quốc tế, tìm kiếm sự ủng hộ cho Trung Quốc và can gián đối phương theo đuổi những hành động chống lại lợi ích của Trung Quốc.

Tuyên cáo quan điểm của Trung Quốc gửi Liên Hợp quốc là để nhằm phủ đầu nỗ lực tuyên truyền của Việt Nam và cô lập Việt Nam. Phần lớn các thành viên Liên Hợp quốc đều không có lợi ích trực tiếp trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Nhiều quốc gia Đông Nam Á tỏ ra quan ngại về hành động của Trung Quốc sẽ né tránh trước yêu cầu đưa ra quan điểm công khai về vấn đề này.

Theo Walton, cuộc chiến pháp lý là chiến lược sử dụng luật pháp trong nước và quốc tế nhằm có được cơ sở pháp lý chắc chắn giúp khẳng định lợi ích của Trung Quốc. Tuyên cáo quan điểm của Trung Quốc được lập luận đầy đủ với trích dẫn tài liệu tới luật pháp quốc tế để hỗ trợ cho lập trường của Trung Quốc.

Ban đầu, Trung Quốc bảo vệ vị trí đặt giàn khoan của mình bằng cách nguỵ biện rằng vị trí đó nằm hoàn toàn trong vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trung Quốc chỉ ra rằng giàn khoan HD981 nằm cách đảo Tri Tôn (một thực thể xa nhất phía Tây thuộc của quần đảo Hoàng Sa) 17 hải lý. Tuy nhiên, theo Công ước Luật biển của Liên Hợp quốc UNCLOS 1982, vùng nước lãnh hải chỉ mở rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở của quốc gia ven biển. Theo đó tuyên bố ngày 6/6 của Trung Quốc đã sửa lại sai sót này bằng cách tuyên bố giàn khoan HD-981 nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc, nhưng yêu sách mới này cũng không đủ cơ sở pháp lý.

Theo như UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp lãnh hải đó là mở ra khả năng cho quốc gia ven biển "thi hành kiểm soát cần thiết nhằm: (a) ngăn ngừa những hành vi vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của hình; (b) xử phạt hành vi vi phạm pháp luật và các quy định trên trong lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình."

Trung Quốc cố ý gây mập mờ tranh chấp với Việt Nam bằng cách bất chấp đưa ra lập luận rằng vị trí giàn khoan HD 981 gần quần đảo Hoàng Sa hơn bờ biển Việt Nam. Như trong tuyên cáo quan điểm của Trung Quốc cho rằng, vị trí giàn khoan HD 981 cách cả đảo Tri Tôn và đường cơ sở quanh quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý và cách bờ biển của Việt Nam 133 tới 156 hải lý.

Trung Quốc đồng thời cũng tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough ngay cả khi bãi cạn này nằm gần Philippines hơn là các thực thể đảo gần nhất của Trung Quốc. Tuy nhiên thì theo luật pháp quốc tế, chỉ gần là chưa đủ điều kiện để chứng minh chủ quyền.

Tuyên cáo của Trung Quốc gửi Liên Hợp Quốc thực tế đã làm suy yếu biện pháp chiến tranh pháp lý để củng cố trường hợp của mình. Như trong tuyên cáo của Trung Quốc có nêu:

“Vùng biển giữa quần đảo Hoàng Sa và bờ biển Việt Nam đến nay chưa được phân định. Hai bên cũng chưa phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa tại vùng biển này. Hai bên đều có yêu sách vùng EEZ và thềm lục phù hợp với UNCLOS.”

Trong trường hợp này Trung Quốc cần tuân theo các điều khoản của UNCLOS để giải quyết các yêu sách chồng lấn. Cả Trung Quốc và Việt Nam cần tham gia đàm phán để có các giải pháp tạm thời cho khu vực tranh chấp cho đến khi đạt được một thoả thuận chính thức về việc phân định. Và trong thời gian này thì hai bên cần phải cam kết không làm thay đổi hiện trạng và không đe dọa và sử dụng vũ lực tại khu vực tranh chấp. Rõ rằng việc Trung Quốc hạ đặt dàn khoan tại vùng biển tranh chấp là vi phạm nguyên tắc pháp lý quốc tế.

Bản tuyên cáo của Trung Quốc thực sự đã làm xói mòn cơ sở pháp lý của nước này khi phủ nhận vai trò của luật pháp quốc tế. Trong tuyên cáo cho rằng:

“Tuy nhiên thì vùng biển này sẽ không phải là vùng EEZ và thềm lục địa của Việt Nam dù áp dụng bất cứ nguyên tắc (theo luật pháp quốc tế) nào trong việc phân định.”

Thêm vào đó, ông Mã Triều Húc Đại sứ Trung Quốc tại Úc đã cố gắng củng cố lập luận cho chiến dịch chiến tranh thông tin của Trung Quốc bằng việc lặp lại lập luận của Trung Quốc trong một bài xã luận đăng trên tạp chí The Australian ngày 13 tháng 6 vừa qua. Ông Mã nguỵ biện rằng khu vực tranh chấp này chưa từng được phân định và ngang nhiên khẳng định “dù áp dụng bất cứ nguyên tắc (theo luật pháp quốc tế) thì vùng biển này cũng không phải là vùng EEZ và thềm lục địa của Việt Nam.”

Cộng đồng quốc tế cần phải xem xét việc Trung Quốc đưa vấn đề lên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc trước những lo ngại về căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như những ảnh hưởng đến an ninh khu vực. Các quốc gia cần phải ủng hộ để vấn đề này được Hội đồng Bảo an xem xét.

Các nước không thể để Trung Quốc thực hiện thành công cuộc chiến thông tin theo cả hai cách – (1) lưu hành bản tuyên cáo ở Liên hợp Quốc để thể hiện tính chất nghiêm trọng vụ việc tranh chấp với Việt Nam; (2) từ chối sự phân xử của Liên Hiệp Quốc. Do đó, Mỹ và Úc cần thúc giục mở một phiên họp tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Nhật Bản cũng như các cường quốc hàng hải khác có lợi ích trong sự ổn định ở Biển Đông cũng cần phải tham dự.

Cần phải đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ không thể dễ dàng từ chối tham dự bất cuộc họp nào của Hội đồng Bảo an, Trung Quốc phải dừng việc lợi dụng Liên Hợp Quốc cho mục đích tuyên truyền của mình, cũng như phủ quyết bất cứ phán quyết nào từ cuộc họp Hội đồng Bảo an chỉ trích hành động của trung Quốc tại Biển Đông.

Bài viết của Giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Australia đăng trên tạp chí The Diplomat

Nguyễn Hương (dịch)