Grigory_M._Lokshin.jpg

 

1. Biển chỉ có một nhưng có tới 7 nước và vùng lãnh thổ tranh chấp 

Những sự kiện ở Trung Đông và cuộc khủng hoảng ở Ukraine trong nhiều thời điểm đã hoàn toàn làm lu mờ leo thang xung đột ở Biển Đông. Tuy nhiên, diễn biến ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương này đã trở nên khó dự đoán hơn và nguy hiểm hơn và phải thừa nhận rằng cộng đồng quốc tế rõ ràng đã đánh giá thấp đe dọa này. 

Biển Đông - con đường ngắn nhất từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, một trong những tuyến đường vận chuyển hàng hải đông đúc nhất của thế giới chạy qua đây. Biển Đông cũng có giá trị lớn về nguồn tài nguyên thủy sản phong phú, cũng như những mỏ dầu khí được phát hiện trong những năm gần đây. Các bên yêu sách chính của tranh chấp gồm, một bên là Trung Quốc, và trong chừng mực nào đó là vùng lãnh thổ Đài Loan, và bên khác là Việt Nam, Philippines, và các bên yêu sách ở mức độ thấp hơn là Malaysia, Brunei và Indonesia. 

Trong những năm gần đây, xung đột về biên giới trên biển, thủy sản và tài nguyên khoáng sản, sự đua tranh ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc vì sự thống trị trong khu vực, và đặc biệt là những nỗ lực liên tục của Trung Quốc đơn phương áp đặt cho Việt Nam và các quốc gia láng giềng trong khu vực những yêu sách về chủ quyền của mình đã gây ra căng thẳng quốc tế nghiêm trọng, đe dọa hòa bình và ổn định khu vực, an ninh trên biển và tự do hàng hải, đã có tác động đáng kể đến cuộc sống của hàng triệu ngư dân trong vùng đánh cá truyền thống của họ. 

Những cố gắng hiện nay được xem là không hiệu quả trong việc để giải quyết cuộc xung đột, điều này đã dẫn đến những tình huống nguy hiểm mới, và về lâu về dài, hoàn toàn có thể dẫn đến chiến tranh. Vì vậy, điều cấp thiết là tìm cách giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, và đặc biệt là theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, mà Trung Quốc và tất cả các bên có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông đều là thành viên của Công ước này. Hiện nay, không chỉ các nhà ngoại giao, mà còn nhiều nhà khoa học, sử học, chính trị gia và các nhà hoạt động xã hội từ các nước khác nhau đang nỗ lực thực hiện mục tiêu này. Làm thế nào để giải quyết cuộc xung đột và giải quyết tranh chấp mà không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, để bảo vệ quyền của các ngư dân tiếp tục đánh bắt cá trong ngư trường truyền thống của họ? Làm thế nào để sử dụng tất cả các phương tiện giải quyết, bao gồm các biện pháp pháp lý, các con đường ngoại giao và tất cả những cách khác để giải quyết xung đột, để tìm ra giải pháp thỏa đáng cho tất cả, kiềm chế việc tiếp tục mở rộng và ngăn không cho xung đột sâu sắc thêm, duy trì Biển Đông như một khu vực hòa bình, hợp tác và thịnh vượng? Tuy nhiên lời giải đáp vẫn đang còn bỏ ngỏ!

Nước Nga với tư cách là một đất nước có mối quan hệ thân thiện và là đối tác chiến lược với cả Trung Quốc và Việt Nam, chúng ta nên sử dụng tất cả các ảnh hưởng của mình để khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa không trở thành cơ sở của chính sách đối ngoại của Trung Quốc. 

2. Cuộc tấn công của Trung Quốc trên Biển Đông mùa Hè 2014 

Trên bản đồ của triều đại Mãn Châu nhà Thanh năm 1821, lãnh thổ rộng lớn của họ được biểu thị bằng đường đứt đoạn. Trong đó khu vực Biển Đông với tất cả các đảo được bao quanh bởi một đường gãy, tạo nên chín đoạn dài và được sử dụng để xác định biển và các đảo của đế chế nhà Thanh. 
Trên cơ sở “đường chín đoạn” này (mà ở Việt Nam gọi là “đường lưỡi bò”), vào năm 1947, các quan chức Chính phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đã nêu yêu sách chủ quyền với nước Nhật bại trận. Không một ai khi đó quan tâm đến đường này. Theo hiệp ước San Francisco người ta trả lại cho Trung Quốc vùng Mãn Châu, đảo Formosa (Đài Loan hiện nay) và Bành Hồ. Và chỉ có như thế! Nhưng nửa thế kỷ sau, vào năm 2009, khi các quốc gia ký vào Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, khi phải nộp đơn lên Liên hợp quốc về vùng đặc quyền kinh tế và giới hạn thềm lục địa của mình thì Trung Quốc đưa ra yêu cầu tương ứng với chính “đường lưỡi bò” này, chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông và tất cả các đảo của nó. Không một quốc gia láng giềng nào với Trung Quốc đồng ý với điều này. Hơn nữa, Trung Quốc thậm chí còn không chỉ ra tọa độ của nó theo vĩ độ và kinh độ. Tuy nhiên, tất cả đường lối hiện nay của Trung Quốc trong khu vực được xây dựng trên cơ sở này. 

Các luật sư hiếm khi nào đồng ý với nhau, nhưng theo các báo cáo trên báo chí, các công trình khoa học và báo cáo chi tiết tại nhiều hội nghị khoa học và xã hội quốc tế tại nhiều quốc gia khác nhau đã cho thấy rằng: hầu như tất cả đều thống nhất ở một điểm “đường chữ U” không có bất cứ một cơ sở nào trong luật pháp quốc tế đương đại. 

Tuy nhiên, các sự kiện kể từ thời điểm đó phát triển theo hướng ngày càng thường xuyên xảy ra các vụ Trung Quốc bắt tàu cá, cắt cáp tàu nghiên cứu của Việt Nam, đe dọa chống lại công ty nước ngoài đang tiến hành khai thác dầu và khí đốt trên thềm lục địa của Việt Nam, và các hành động tương tự khác. 

Sự kiên trì trong yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ngày càng trở nên quyết đoán hơn theo mức độ ngày càng tăng nhu cầu về năng lượng và nguồn cá của nước này cũng như mức độ đua tranh ngày càng tăng với Mỹ. Từ năm 2009-2012, một chu kỳ đối đầu mới lại bắt đầu giữa các đối thủ chính – giữa Việt Nam và Philippines với Trung Quốc theo công thức “hành động - phản ứng”. Điều này làm gia tăng đáng kể mức độ căng thẳng tại khu vực Biển Đông, mà đỉnh cao là sự kiện mùa Xuân năm 2012 tại khu vực bãi cạn Scarborough, nằm về phía Tây Bắc của quần đảo Trường Sa, nơi diễn ra đối đầu giằng co giữa Philippines và Trung Quốc. 

Năm 2014, đối đầu đặc biệt căng thẳng. Ngày 1/5, Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu khổng lồ Hải Dương-981 để khoan thăm dò dầu và khí đốt trong khu vực quần đảo Hoàng Sa, vào sâu 80 hải lý bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đi kèm theo giàn khoan này là một đội tàu với 120 tàu hỗ trợ và tàu hộ tống, bao gồm một số tàu quân sự. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc vi phạm một cách trắng trợn và nghiêm trọng như thế trong khu vực Biển Đông. Quy mô và cường độ nổ ra cuộc đối đầu cao hơn đáng kể so với năm 2013 khi Trung Quốc leo thang tranh chấp với Nhật Bản trên quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. 

Thời điểm đó, Việt Nam đã tỏ thái độ kiên quyết, song vẫn giữ sự kiềm chế và tránh làm xấu đi tình hình. Tàu tuần tra Việt Nam chỉ kiên quyết yêu cầu đưa giàn khoan ra khỏi khu vực. Tàu của hai bên xảy ra một vài va chạm nguy hiểm, nhưng không bên nào sử dụng lực lượng Hải quân và Không quân của mình. Không nổ ra một phát đạn nào ngoài việc phía Trung Quốc sử dụng rộng rãi vòi rồng khiến nhiều nhân viên thực địa Việt Nam bị thương. 

Tại Việt Nam, hành động của Trung Quốc tất nhiên khơi dậy cơn giận dữ trong xã hội. Thêm vào đó là áp lực mạnh của cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, Pháp và các nước khác. Ngày 13-14/5/2014, tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố khác trong cả nước đã có các cuộc biểu tình phản đối hàng loạt. Có nơi vượt ra ngoài tầm kiểm soát và biến thành sự đả kích kịch liệt tấn công bạo lực đối với người Trung Quốc, và gián tiếp là một số công ty nước ngoài khác. 

Không một nước nào, không một chính phủ nào trên thế giới ủng hộ hành động này của Trung Quốc. Mỹ và Nhật Bản lên án mạnh mẽ các hành động đó của Trung Quốc. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN diễn ra tại Myanmar lần đầu tiên đã nhất trí thông qua một tuyên bố lên án hành động khiêu khích này của Trung Quốc. 

Dù sao, Trung Quốc đã buộc phải có bước lùi đầu tiên. Trung Quốc khi đó chuẩn bị tổ chức hội nghị thượng đỉnh APEC tháng 11/2014, trong đó dự kiến có sự tham gia của Tổng thống Mỹ và các nhà lãnh đạo của các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương khác. Việc tiếp tục xung đột trong bối cảnh này là bất hợp lý. Ngày 16/7/2014, giàn khoan Hải Dương-981 với tất cả các phương tiện đi kèm đã rời vị trí và quay về vùng biển của Trung Quốc. 

Từ đó, quan hệ Trung-Việt, có vẻ như một lần nữa bước vào con đường phục hồi và bình thường hóa. Việt Nam tiến hành những nỗ lực lớn để thực hiện điều đó, cố gắng ngăn chặn một cuộc khủng hoảng mới trong khu vực tranh chấp. Ngày 7 – 8/4/2015, chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng theo lời mời của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã diễn ra thành công. 

3. Vụ kiện của Philippines chống Trung Quốc tại tòa án quốc tế La Haye 

Đồng thời, những sự kiện trên mặt trận pháp lý cũng diễn ra. Cuộc khủng hoảng năm 2012 tại bãi cạn Scarborough trên thực tế đã kết thúc bằng việc Trung Quốc thôn tính bãi cạn này. Đó là nguyên nhân để ngày 22/1/2013, Philippines đã khởi kiện Trung Quốc lên Toà trọng tài Thường trực quốc tế La Haye, được thành lập trên cơ sở của UNCLOS năm 1982. Philippines yêu cầu nhập kết luận của trọng tài trên ba vấn đề: 

1. Việc áp dụng các “quyền lịch sử” của Trung Quốc trên các vùng nước, đáy biển và tài nguyên dưới đáy biển trong ranh giới của “đường chín đoạn” (đường chữ U) vượt ra ngoài khuôn khổ UNCLOS năm 1982 quy định là vô căn cứ và không hiệu lực. 

2. Yêu cầu về vùng đặc quyền kinh tế và ranh giới thềm lục địa quanh các đảo đá nửa chìm, rạn san hô là trái với UNCLOS năm 1982. 
3. Trung Quốc thực hiện các yêu cầu này là vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán và tự do hàng hải của Philippines. 

Điều này khiến Trung Quốc kịch liệt phản đối, ngày 19/2/2013 Trung Quốc cương quyết bác bỏ đơn kiện và từ chối hợp tác với tòa án, không công nhận quyền tài phán của tòa này. Đồng thời, họ gây áp lực lên Philippines trên tất cả các phương diện và vận động các nước ASEAN khác nhằm khiến Philippines rút đơn kiện. 

Cần phải nói rằng các nước ASEAN đã phản ứng rất dè dặt với sáng kiến của Philippines, sáng kiến này Philippines tiến hành đơn phương và không tham khảo ý kiến với họ. Bộ Ngoại giao Việt Nam khi đó cũng chỉ hạn chế bằng tuyên bố rằng mỗi quốc gia có thể sử dụng tất cả các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc, nhưng không tham gia vụ kiện cùng Philippines. Vụ kiện này không có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa - đối tượng chính Việt Nam tranh chấp với Trung Quốc. 

Tuy nhiên, theo yêu cầu của Philippines, Tòa trọng tài gồm 5 thành viên, do Thẩm phán người Ghana Thomas A.Mensah đứng đầu đã được thành lập. Quá trình xét xử thực tế đã bắt đầu, và tiếp tục trong sự vắng mặt các đại diện của Trung Quốc. Tuy nhiên, điều này cũng được ghi trong điều lệ của Tòa. Vào tháng Bảy bắt đầu một phiên tòa chính thức nghe các bên trình bày, quá trình xét xử dự kiến kết thúc trong năm nay hoặc đầu năm sau. 

4. Đối thoại gián tiếp giữa Bắc Kinh với Washington 

Tháng 12/2014, các sự kiện trên mặt trận pháp lý diễn ra đặc biệt dày đặc. Mỹ, Trung Quốc và Việt Nam gần như đồng thời bày tỏ quan điểm của mình trên các khía cạnh pháp lý về vụ tranh chấp trên Biển Đông. Có vẻ như một chương mới đã mở ra, và điều này chỉ ra rằng vấn đề đang được sự quan tâm đặc biệt tại các nước có liên quan trực tiếp đầu tiên. 

Trước tiên là Bộ ngoại giao Mỹ đã công bố báo cáo của mình, và trên thực tế đây là cả một công trình chuyên khảo trong một loạt các nghiên cứu về ranh giới biển. Bản báo cáo không liên quan đến tính hợp pháp của yêu sách chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông, khi nhắc lại quan điểm của Mỹ là trung lập trong vấn đề này. Nội dung chính của nó là chứng minh rằng Trung Quốc đã không làm rõ các yêu sách của mình. “Đường chữ U” của Trung Quốc không có những nội dung địa lý và tọa độ, điều này được khẳng định bằng việc trên các bản đồ khác nhau của Trung Quốc, có sự khác biệt đáng kể tại những nơi mà các đường đứt đoạn của hình chữ U đi qua. Báo cáo ủng hộ quan điểm của Philippines đối với các bãi đá và rạn san hô trên Biển Đông bị Trung Quốc chiếm đóng. Về bản chất, toàn bộ báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ cho thấy “đường chữ U” là hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế và không thể phục vụ làm cơ sở cho ranh giới biển của Trung Quốc trên Biển Đông. Washington cho rằng Trung Quốc không chứng minh được “quyền lịch sử” của họ thậm chí theo cả những chuẩn mực luật pháp thông thường trước khi có UNCLOS năm 1982, và yêu sách của Trung Quốc làm nảy sinh mối đe dọa đối đầu, làm suy yếu sự ổn định trong khu vực và dập tắt triển vọng đạt được một giải pháp hòa bình. Như vậy, Mỹ đã bước vào cuộc tranh chấp pháp lý này, thể hiện quan điểm của mình, hay chính xác hơn, đưa ra chỉ trích, theo ý kiến của họ, về các yêu sách bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông, mặc dù trước đó họ luôn nói không ủng hộ bất kỳ bên nào trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. 

Câu trả lời của Trung Quốc đã được đưa ra ngay lập tức, và đăng tải ngày 7-8/12/2014 trong Bản tuyên cáo lập trường với một lời giải thích chi tiết trên 36 trang những lý do mà theo đó tòa trọng tài quốc tế không có quyền tài phán xem xét đơn kiện của Philippines. Chính phủ Trung Quốc, dù không có bất kỳ mong muốn nào tham gia việc rà soát 4.000 trang chứng nhận và bằng chứng của Philippines, vẫn hành động để 5 thẩm phán của tòa trọng tài quốc tế biết được sự phản đối của Chính phủ Trung Quốc chống lại thẩm quyền của họ xem xét đơn kiện này. Trong Bản Tuyên cáo lập trường, Trung Quốc nhắc lại tất cả sự phản đối trước đó đối với việc xem xét tranh chấp vì ba lý do: 

1. UNCLOS năm 1982 không cho tòa án quyền tài phán để xem xét vấn đề chủ quyền, được đặt ra trong đơn kiện của Philippines. 

2. Trung Quốc thực hiện “thừa hưởng chủ quyền không thể tranh cãi của mình” trên toàn bộ các đảo ở Biển Đông, bao gồm cả những đảo nằm trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế Philippines. 

3. Philippines đã vi phạm các thỏa thuận được ký kết song phương và đa phương trước đó, trong đó có Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002, quy định thủ tục trọng tài bắt buộc theo UNCLOS năm 1982. 

Đáng chú ý là Trung Quốc thậm chí còn không cố gắng để bảo vệ “đường chữ U” của mình. Thay vào đó, Trung Quốc chỉ chứng minh Tòa trọng tài không có thẩm quyền xét xử. Trong ba luận chứng của Trung Quốc thì hai luận chứng của họ là không đáng tin, bởi ngay cả Philippines cũng không yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp lãnh thổ hoặc sửa đổi biên giới. Còn trong luận chứng thứ ba của Trung Quốc, thì Philippines dường như bị tước đoạt quyền khởi kiện lên trọng tài quốc tế, do đã ký DOC năm 2002. Luận chứng này cũng không thuyết phục nếu xét trên quan điểm pháp lý, bởi vì như bất kỳ tuyên bố nào, DOC năm 2002 không ràng buộc pháp lý và thường bị vi phạm bởi tất cả các bên và đặc biệt là chính Trung Quốc. 

Việc tranh cãi về thẩm quyền của Tòa án là không có gì mới. Điều này xảy ra ở hầu hết các trường hợp, khi một nước nào đó bị kiện tại một tòa án quốc tế mà họ từ chối tham gia. Về vấn đề chủ quyền, đúng là Tòa án thực sự không có quyền tài phán, nhưng Tòa án hoàn toàn có thể nêu quan điểm của mình về tính bất hợp pháp của “đường chữ U”. 

Từ thời điểm khi một quốc gia trở thành thành viên của UNCLOS, quốc gia này phải có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện của công ước, không thể có yêu sách về bất cứ quyền nào và quyền tài phán của mình, những quyền mà không tương ứng với UNCLOS.

Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện được chủ quyền liên tục và không thể tranh cãi tại khu vực. Còn Biển Đông là huyết mạch chính của thương mại toàn cầu, kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương – đó không phải là vịnh, vũng hoặc một dạng khác của các vùng nước ven biển, mà trên đó có thể phổ biến "quyền lịch sử" nào đó. Nói tóm lại, các yêu cầu của Trung Quốc vượt quá giới hạn, hay nói cách khác là hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế hiện nay, đặc biệt là UNCLOS năm 1982. 

Theo nhiều chuyên gia Trung Quốc, phương Tây định nghĩa về chủ quyền dựa trên luật pháp quốc tế mà luật pháp đó do chính phương Tây dựng nên. Theo luật pháp quốc tế của họ (như thể có thể tồn tại nhiều luật pháp quốc tế) có nhiều cách khác nhau để có được chủ quyền: chiếm vùng đất trung lập, phát hiện, được đền bù, xâm chiếm, nhượng lại và những hình thức khác. Trong số đó không hiếm khi áp dụng nguyên tắc Uti Possidetis, có thể dịch là “những gì bạn đang có, là bạn có thể sở hữu nó”. Người ta cũng thường hay nói: “bạn chiếm hữu – có nghĩa là đã có 9/10 quyền”, tức là, nếu bạn chiếm được một cái gì đó, sau đó bạn sẽ tiếp tục sở hữu nó. Điều đó cũng có nghĩa trong trường hợp có nhiều người cùng có yêu sách một vùng đất và yêu sách mạnh ngang nhau, ai mạnh hơn sở hữu mảnh đất này thì người đó có thể tiếp tục sở hữu nó. Đây là một trong những luận chứng cơ bản của các luật gia Trung Quốc. 

Xác định chủ quyền tại Biển Đông theo UNCLOS năm 1982 là rất phức tạp. Điều 57 của Công ước quy định một số quyền chủ quyền đối với các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế của họ ở khoảng cách tương tự 200 hải lý tính từ đường cơ sở của các bãi biển và một khoảng cách như thế nữa cho vùng thềm lục địa. Xác định quyền chủ quyền không có nghĩa là công nhận chủ quyền, nhưng nó xuất phát từ chủ quyền của đất và do đó, các vùng đặc quyền kinh tế không thể xác định được khi chưa xác định được chủ quyền của cơ sở xuất phát ban đầu của nó là bờ. Và điều này liên quan trước tiên là đối với các đảo, mà theo UNCLOS năm 1982, cũng có vùng đặc quyền kinh tế và các quyền đặc biệt trên thềm lục địa. Trong trường hợp nếu vùng đặc quyền kinh tế và quyền trên thềm lục địa của hai quốc gia chồng lấn lên nhau, các quyền này được xác định bởi mức độ gần bờ của quốc gia ven biển, hoặc các yếu tố khác, theo thỏa thuận của tất cả các bên liên quan. 

Việc Trung Quốc thường xuyên viện dẫn đến “quyền lịch sử” của mình gây lo ngại nghiêm trọng không chỉ cho các nước có yêu sách chủ quyền, mà còn cho tất cả các nước láng giềng khác của Trung Quốc. Trung Quốc có một lịch sử lâu dài như vậy, mà cũng hoàn toàn có thể là người Trung Quốc cổ đại là người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho nhiều đảo trong Biển Đông và ở các vùng biển khác xung quanh đất nước của họ. Mặc dù chưa có một bằng chứng nào để khẳng định điều này và cũng chưa được công bố ở đâu, nhưng việc đặt tên và tuyên bố chủ quyền - là hai việc hoàn toàn khác nhau. Điều quan trọng nữa là các tên này được công nhận bởi tất cả các thuyền viên của nhiều quốc gia khác. Và những đảo này lại được đưa vào các biểu đồ hải lý dưới các tên gọi khác và do thuyền trưởng của tàu Bồ Đào Nha và tàu của Anh đặt. 

Lịch sử luôn là chủ đề của nhiều cách giải thích, những cách giải thích này có thể thay đổi khi khám phá ra sự kiện mới và khi lợi ích thay đổi. Vì vậy mà các viện dẫn lịch sử có thể dẫn quan hệ giữa các bên đi rất xa và hoàn toàn không đến đích mong muốn. 

Lịch sử Trung Quốc tại Biển Đông được bắt đầu, theo các nhà khoa học Trung Quốc là trước công nguyên, và đã tiếp tục không bị gián đoạn đến thời điểm hiện tại, và nhân dân Trung Quốc có quyền bảo vệ chủ quyền của mình trước bất kỳ kẻ xâm lược nào. Nhưng lịch sử hoàn toàn không đứng về yêu sách của phía Trung Quốc. Trong các triều đại khác nhau của Trung Quốc cổ đại không tồn tại khái niệm như khái niệm chủ quyền. Nó xuất hiện ở châu Âu chỉ từ hiệp định Westphalia năm 1648. Trước đó, tất cả các đế chế và vương quốc tồn tại không bao giờ cố định biên giới của mình và không bảo vệ biên giới. Các nhà sử học Trung Quốc đơn giản là đã thay thế chủ quyền, điều mà những người cai trị của Trung Quốc sử dụng. Và đó là điều hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, họ còn tuyên bố ngay cả Mông Cổ, Tarta và triều đại Mãn Châu là “người Trung Quốc”, và vì thế tất cả các vùng mà những người này chiếm đóng cũng là “đất tổ” của họ. Và điều này đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với tất cả các nước láng giềng. 

Theo luật pháp quốc tế hiện nay, ranh giới biển giữa các quốc gia được thiết lập theo thỏa thuận giữa các quốc gia láng giềng. Không một quốc gia có quyền đơn phương thiết lập ranh giới trên biển của mình với nước khác. Tất cả được quyết định bởi đường bờ biển của nước bên kia. Và không có hòn đảo nhỏ, biệt lập nào chẳng hạn như Hoàng Sa và Trường Sa có thể ảnh hưởng đến những ranh giới này. 

UNCLOS năm 1982, được Trung Quốc ký kết và phê chuẩn chỉ cho phép áp dụng giới hạn của “sự kiện lịch sử” và các quyền phát sinh từ đó chỉ trong việc phân định lãnh hải của các quốc gia ven biển (tức là trong vòng bán kính 12 hải lý), nhưng trong đó hoàn toàn không nói gì về sự “biện minh lịch sử” yêu sách chủ quyền hay bất kỳ quyền đặc biệt nào với một khoảng cách xa đáng kể so với đường bờ biển, như trong trường hợp này. 
Thêm vào đó, Trung Quốc áp đặt giải thích riêng của mình về lịch sử. Và điều này tạo ra một trở ngại đáng kể trên con đường giảm bớt căng thẳng. Sau nhiều thập kỷ tuyên truyền mạnh mẽ, nhân dân Trung Quốc và bản thân lãnh đạo của đất nước này dường như tin rằng họ là chủ sở hữu hợp pháp của tất cả các đảo, và có thể là toàn bộ vùng biển giữa chúng. Quan điểm như vậy hoàn toàn không được hỗ trợ bởi bất kỳ bằng chứng nào trong thế kỷ 20, mặc dù Trung Quốc cố gắng dẫn ra để biện minh cho tham vọng của họ. 

5. Việt Nam tham gia cuộc chơi 

Trước sự ngạc nhiên của nhiều nhà quan sát, Việt Nam bất ngờ tham gia vụ tranh chấp pháp lý này. Ngày 8/12/2014, Việt Nam trình bày với Tòa trọng tài La Haye quan điểm của mình bao gồm ba điểm chính: Việt Nam bày tỏ sự ủng hộ đối với đơn kiện của Philippines; đặt ra vấn đề về tính hợp lệ của “đường chữ U” và yêu cầu Tòa án khi xem xét đơn kiện của Philippines cần chú ý cẩn trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam. 

Ngày 11/12/2014, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình, khi trả lời câu hỏi của báo chí đã lưu ý vấn đề sau: “Việt Nam tái khẳng định có tất cả các bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với các quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa cũng như quyền và lợi ích khác trên Biển Đông. Đó là quan điểm cứng rắn của Việt Nam và hoàn toàn bác bỏ yêu sách của Trung Quốc sở hữu những đảo này và vùng biển xung quanh, cũng như bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc về “quyền lịch sử” nào đó đối với vùng biển, đáy biển và các nguồn tài nguyên ở dưới nó, trong phạm vi ranh giới của “đường đứt khúc” do Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền”. 

Động thái này của Việt Nam, nhiều khả năng sẽ không thể gây ảnh hưởng đến việc xem xét đơn kiện của Philippines đối với Trung Quốc, nhưng nó có một ý nghĩa chính trị quan trọng. Cùng với Philippines và Mỹ, nước đã mở một cuộc tranh chấp pháp lý với Trung Quốc, Việt Nam quyết định đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này và nhấn mạnh quyền của mình được sử dụng các công cụ pháp lý hiện có để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ tiềm tàng. 

Điều quan trọng là Việt Nam đã để tòa án nghe được lý lẽ của mình, và Việt Nam đã thực hiện điều này theo hình thức ít khiêu khích nhất đối với Trung Quốc. Trong bối cảnh của “ách kìm kẹp địa lý”, mà Việt Nam đang nằm trong đó, ít có khả năng Việt Nam sẵn sàng đi đến cùng với Philippines trong tranh chấp pháp lý với Trung Quốc. Hai nước ở vị thế quá khác nhau. Đúng như chuyên gia có uy tín của Australia về vấn đề Đông Nam Á Carl Thayer nhận xét, quyết định của Hà Nội bày tỏ lập trường của mình mà không chính thức khởi kiện Trung Quốc và không tham gia vụ kiện của Philippines, là cách ít tốn kém nhất để vào nó theo “cửa sau”.

6. Những phương án có thể xảy ra 

Ngày 16/3/2015, Philippines nộp cho Tòa án Trọng tài Thường trực tài liệu bổ sung với số lượng 3.000 trang, bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc rằng cơ quan này không có thẩm quyền cần thiết. Trung Quốc được trao một cơ hội trước ngày 16/6/2015 để gửi ý kiến của họ về những phản đối này. Hiện Trung Quốc chưa làm điều này, và tòa án đã quyết định tiến hành các cuộc điều trần về vấn đề này, cũng là gián tiếp giải quyết vấn đề về thẩm quyền của mình. 

Hội đồng trọng tài có thể: về

a) Bỏ qua đơn kiện của Philippines hoặc đưa ra kết luận rằng họ không có thẩm quyền để xem xét nó; 

b) Chấp nhận các yêu sách của Philippines và đưa ra quyết định có lợi cho Philippines về tất cả các vấn đề pháp lý mà nước này nêu ra; 
c) Chấp nhận các yêu sách của Philippines, nhưng đưa ra quyết định về một số vấn đề có lợi cho Trung Quốc, một số vấn đề khác có lợi cho Philippines.
Đương nhiên, đối với các nước ASEAN phương án b) sẽ là lựa chọn tốt nhất, và tồi tệ nhất là phương án a) vì phương án này sẽ làm suy yếu giá trị của UNCLOS năm 1982 và nhìn chung làm giảm vai trò của luật pháp quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông. Không loại trừ sẽ có sự chậm trễ hơn nữa trong việc tòa đưa ra kết luận. 

Bất luận phán quyết của Tòa án là như thế nào, thì Trung Quốc cũng cho thấy rõ, không chỉ một lần rằng họ sẽ không thay đổi quan điểm của mình tại Biển Đông. 

Trong khi số phận cuối cùng về vụ kiện chưa được định đoạt, và Tòa án vẫn còn phải đưa ra quyết định về thẩm quyền của mình, Philippines đã đạt được hai mục tiêu. Họ buộc Bắc Kinh công bố quan điểm của mình. Mặc dù không buộc được Trung Quốc tham gia quá trình xét xử, nhưng bằng chính cách này, Philippines đã đạt được việc buộc Trung Quốc phải đi đến kết luận rằng họ không thể đơn giản bỏ qua nó. Và thứ hai, Philippines đã hối thúc được Việt Nam để nước này cũng có ý kiến lên Tòa án, mặc dù không tham gia quá trình kiện. Tuy nhiên, dù quyết định cuối cùng của hội đồng trọng tài là như thế nào thì cũng không nên phóng đại tác động của nó đối với diễn biến của các sự kiện tại Biển Đông. UNCLOS năm 1982 không tạo ra bất kỳ cơ chế cho việc áp đặt lệnh trừng phạt đối với chính phủ không thực hiện các quyết định của trọng tài quốc tế. Trong trường hợp quyết định tiêu cực đối với Trung Quốc, Trung Quốc vẫn có thể chịu thiệt hại đáng kể về hình ảnh của mình, và chính sách “quyền lực mềm” của họ sẽ suy yếu nghiêm trọng. Do áp lực mạnh mẽ của các lực lượng dân tộc, Trung Quốc có vẻ như chưa thể sẵn sàng coi Tòa án trọng tài quốc tế là giải pháp chấp nhận được để giải quyết các tranh chấp trên biển, nhưng việc xuất hiện trong vai trò kẻ phá vỡ trật tự khu vực, không công nhận chuẩn mực của luật pháp quốc tế, đối với họ cũng là điều không mong muốn. 

Một giải pháp thay thế có thể là các bên yêu sách gác lại những yêu cầu chủ quyền của mình và cùng khai thác ở khu vực nơi mà các yêu sách của họ chồng lấn lên nhau. Kinh nghiệm đầu tiên của cách tiếp cận như vậy đã có trong năm 2005 - 2008, nhưng không thành công. 

7. Tàu sân bay không chìm hay quần đảo bê tông 

Các hành động gần đây nhất và khiêu khích nhất của Trung Quốc tại Biển Đông là việc Trung Quốc đẩy mạnh việc xây dựng lãnh thổ trên khu vực các rạn san hô chìm dưới nước ở quần đảo Trường Sa để tạo ra các hòn đảo nhân tạo với kích thước rất lớn. Trên một số đảo nhân tạo này hoàn toàn có đủ chỗ cho những đường băng lớn, có khả năng tiếp nhận máy bay chiến đấu hiện đại. Trung Quốc rõ ràng đang dự định triển khai sức mạnh quân sự của mình đến tất cả các điểm của khu vực Biển Đông từ chính trung tâm của nó. Điều này có thể được nhìn thấy rõ trên các hình ảnh vệ tinh, và điều này rõ ràng là trái với DOC năm 2002, và càng không thể giúp gì cho việc tiến tới thông qua Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), bộ quy tắc đã bước sang năm đàm phán thứ hai để tiến hành ký kết, nhưng ngày càng trở thành điều ảo tưởng. 

Ngay từ đầu năm 2015, Trung Quốc tăng tốc đáng kể công việc xây dựng đảo một cách đáng kinh ngạc: Những tàu hút bùn đổ vào các đảo san hô hiện có trên biển hàng đống núi cát, rót vào khối lượng bê tông khổng lồ. Theo số liệu của Lầu Năm Góc, họ đã cho không thám và theo dõi vệ tinh các hoạt động của Trung Quốc, trong những ngày đầu tiên của tháng 5/2015, diện tích khu vực các đảo nhân tạo đã là 8 km² - gấp bốn lần so với hồi cuối năm ngoái. 

Trên các lãnh thổ do con người tạo ra này, người Mỹ tin rằng, và bản thân Trung Quốc cũng không hề giấu giếm, Trung Quốc sẽ xây dựng những đường băng hiện đại, lắp đặt hệ thống radar và đặt những khẩu đội tên lửa, xây dựng hải cảng. Theo dự báo của chuyên gia việc xây dựng sân bay quân sự quy mô hoàn chỉnh có khả năng tiếp nhận tất cả các loại máy bay sẽ được hoàn thành trong giai đoạn 2017-2018. Có bao nhiêu hạng mục cơ sở như vậy và hình thù cuối cùng của quần đảo bê tông Trung Quốc sẽ như thế nào, điều này chỉ có Bắc Kinh biết được. 

Ngày 14/3/2015, trinh sát trên không của Philippines phát hiện việc tích cực xây dựng một đơn vị đồn trú quân sự ở đảo đá ngầm Kiinan do Trung Quốc chiếm đóng trên quần đảo Trường Sa. Giới quân sự ở Philippines cho rằng sau khi tiến hành các chuyến bay thử nghiệm đầu tiên với máy bay chiến đấu từ những căn cứ mới trên các hòn đảo nhân tạo, tiếp theo đó sẽ là thông báo về Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Trung Quốc trên Biển Đông. Và điều này, theo ý kiến của họ, tạo nên các mục tiêu chính của Trung Quốc là thực hiện kiểm soát hiệu quả và quyền tài phán đối với các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Đó là một điều kiện quan trọng cho việc công nhận trong tương lai chủ quyền của Trung Quốc trên các khu vực này. 

Một cuộc khủng hoảng mới bắt đầu phát sinh khi có rất nhiều hình ảnh vệ tinh cho thấy quy mô lớn của những công trình xây dựng trên các vùng lãnh thổ của rạn san hô và bãi ngầm mà Trung Quốc chiếm đóng. Và điều quan trong nhất là đã nảy sinh đối đầu trực tiếp giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc. 

Ngay lập tức đã bắt đầu những sự cố nguy hiểm trên biển và trên không. Sự cố nghiêm trọng nhất xảy ra vào ngày 20/5 với máy bay Mỹ P-8A Poseidon, máy bay này 8 lần bay vòng quanh đảo đang được xây dựng và mỗi một lần đều nhận được một chỉ thị từ các tàu chiến Trung Quốc yêu cầu rời khỏi khu vực cấm bay đến vùng lãnh hải xung quanh đó. Người Mỹ đã trả lời bằng sự từ chối, khi mà phía Trung Quốc chưa đe dọa bắn hạ họ. Những đối thoại và hình ảnh ghi lại đã được truyền hình CNN chuyển giao cho Lầu Năm Góc. Sau khi những hình ảnh này được công bố đã thu hút được nhiều sự chú ý đáng kể. 

Rõ ràng là tất cả những hòn đảo nhân tạo sẽ được công bố là một phần hợp pháp của lãnh thổ Trung Quốc, cùng với việc thành lập xung quanh những đảo này vùng lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, và đóng cửa đối với người ngoài không phận quốc gia. Điều này sẽ mở ra con đường trực tiếp dẫn đến việc biến Biển Đông thành “hồ trong đất liền” của Trung Quốc. Đồng thời đây lại là một nỗ lực khẳng định việc “xâm chiếm hiệu quả” trước khi toà trọng tài La Haye đưa ra phán quyết về vấn đề này.

Bài tham luận của Grigory M. Lokshin - Tiến sỹ lịch sử, chuyên gia hàng đầu của Trung Tâm nghiên cứu Việt Nam và ASEAN, Viện hàn lâm khoa học Nga (RAN) - tại Hội thảo về Biển Đông ngày 5/6/2015 ở Moskva. 

Duy Anh (gt)