Do vấn đề về Biển Đông, Việt Nam và Philíppin thường xuyên diễn ra phong trào dân tộc nhắm vào Trung Quốc. chủ nghĩa dân tộc giữa Hàn Quốc và Nhật Bản cũng đang phát triển nhắm vào đối phương do tranh chấp chủ quyền ở đảo Dokdo/Takeshima. Trung Quốc lại càng được coi là trung tâm của phong trào dân tộc lần này, trong tất cả các nước châu Á, tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải giữa Trung Quốc và các nước xung quanh là nhiều nhất, chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc cũng đang phát triển mạnh nhắm vào các nước tranh chấp đó, phong trào bảo vệ đảo Điếu Ngư ở ba nơi hai bờ (Đại lục, Đài Loan, Hồng Công-Hai bờ eo biển Đài Loan) vừa diễn ra là ví dụ mới nhất. Trung Quốc cũng vì thế nên lại trở thành đối tượng quan tâm của các nước.

Chủ nghĩa dân tộc nổi lên ở châu Á khiến người ta cảm thấy lo ngại sâu sắc về tình hình an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Là nước lớn châu Á và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc sẽ đi về đâu, điều đó quả thực sẽ ảnh hưởng đến chiến tranh và hòa bình ở cả châu Á. Trên thực tế, từ khi Liên Xô tan rã và Chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, các nước đều từng giờ từng phút quan tâm đến xu hướng của chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc. Từ khi cải cách mở cửa, mặc dù Chính phủ Trung Quốc luôn nhấn mạnh tính chất hòa bình trong phát triển của Trung Quốc, đề ra chính sách ngoại giao “giấu mình chờ thời” và “trỗi dậy hòa bình” v.v., nhưng dường như có nhiều người hơn nghiêng về hướng tin tưởng rằng chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc cuối cùng sẽ diễn biến thành chủ nghĩa dân tộc như ở Đức và Nhật Bản trước đây, và trở thành căn nguyên tiềm ẩn của xung đột và chiến tranh.

Tuy nhiên, điều hết sức hoang đường là càng nghiên cứu nhiều về chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc thì người ta lại càng thể hiện rõ tình trạng thiên kiến thâm căn cố đế của họ đối với Trung Quốc. Những thiên kiến này không những tồn tại ở phương Tây, đặc biệt là ở nước Mỹ, mà còn ở các các nước láng giềng xung quanh Trung Quốc, nhất là một số nước đang có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc. Những thiên kiến nói trên thể hiện ở ba phương diện sau:

Thứ nhất là ý thức hệ. Xuất phát từ ý thức hệ để đo lường chủ nghĩa dân tộc, đó là cách thường thấy nhất ở các nước dân chủ. Nói một cách đơn giản, chủ nghĩa dân tộc ở các nước dân chủ đều là bình thường, là biểu hiện bình thường của ý thức hệ, nhưng chủ nghĩa dân tộc xảy ra ở các nước phi dân chủ lại thường là sản phẩm huy động của chính phủ theo chủ nghĩa quyền uy. Vì thế, mặc dù Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Ấn độ đều tồn tại chủ nghĩa dân tộc, đối tượng bị chỉ trích thường là chủ nghĩa dân tộc, nhưng chủ nghĩa dân tộc ở các nước dân chủ không những không bị chỉ trích mà lại thường được ca ngợi.

Thứ hai là địa chính trị và địa chiến lược. Ở phương diện này lợi ích chiến lược sẽ nhiều hơn. Một số nước thường coi chủ nghĩa dân tộc ở các nước có lợi ích địa chính trị và địa chiến lược gắn với nước mình là bình thường và còn tán dương, nhưng lại coi chủ nghĩa dân tộc ở những nước có lợi ích địa chính trị và địa chiến lược xung đột hoặc cạnh tranh với nước mình là không bình thường, đồng thời còn bị khiển trách. Điều này được thể hiện rất rõ trong phương diện đối xử của Mỹ và phương Tây với chủ nghĩa dân tộc xảy ra ở các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Philíppin.

Thứ ba là đạo đức. Đây là phương diện phổ biến nhất, cảm tính nhất, hầu như có thể xảy ra ở bất cứ tầng lớp nào trong một xã hội. Việc phán đoán đạo đức đối với chủ nghĩa dân tộc là thường thấy giữa nước lớn với nước nhỏ, giữa nước mạnh và nước yếu. Rất đơn giản, người ta khiển trách nước lớn và cường quốc lừa gạt nước nhỏ và nước yếu nhưng lại ca ngợi thách thức của nước nhỏ và nước yếu đối với nước lớn. chủ nghĩa dân tộc cũng vậy.

I- Chính phủ xử lý thế nào trong quan hệ với chủ nghĩa dân tộc

Về mặt lý thuyết, vấn đề cần phải xử lý đối với chủ nghĩa dân tộc đó là quan hệ giữa mình và người khác, đặc điểm lớn nhất trong đó là luôn nghĩ mình đúng, còn người khác lúc nào cũng sai. Trong rất nhiều trường hợp, chủ nghĩa dân tộc vừa là thiên kiến với người khác, cũng vừa là thiên kiến với chính mình. Vì thế nếu xử lý không thỏa đáng, không những sẽ gây tổn hại cho lợi ích người khác, cũng vừa gây tổn hại cho lợi ích của bản thân mình. Kinh nghiệm cho thấy chủ nghĩa dân tộc đã dẫn đến không biết bao nhiêu lần chiến tranh và xung đột trong lịch sử, vừa xảy ra giữa các nước có chủ quyền, cũng vừa xảy ra trong nội bộ nước chủ quyền. Sau khi chiến tranh kết thúc, xu hướng này của chủ nghĩa dân tộc vẫn tiếp tục dai dẳng.

Liệu chủ nghĩa dân tộc ở các nước châu Á có diễn biến thành xung đột, thậm chí là chiến tranh giữa các nước hay không, vấn đề này chủ yếu liên quan đến việc xử lý quan hệ với chủ nghĩa dân tộc của chính phủ các nước. chủ nghĩa dân tộc có thể không tránh được nhưng xung đột và chiến tranh do chủ nghĩa dân tộc gây nên không phải không tránh được, trong đó chính phủ đóng vai trò quan trọng nhất.

Xem xét quan hệ giữa chính phủ với chủ nghĩa dân tộc, có thể phân thành một số loại hình sau:

Loại thứ nhất, chính phủ huy động, trong đó lại có thể phân thành hai loại nhỏ.

Một là chính phủ chủ động tạo ra chủ nghĩa dân tộc. Ở một số xã hội, chủ nghĩa dân tộc vốn không mạnh, nhưng để đạt được mục đích của mình, chính phủ đã sử dụng các biện pháp và các nguồn lực (chẳng hạn như cơ cấu tổ chức hoặc ý thức hệ) để tạo ra một loại chủ nghĩa dân tộc theo cách mà chính phủ đó yêu cầu. Các nước châu Âu trong thời kỳ đầu là như vậy, kết quả huy động là đã làm tăng thêm được sự thừa nhận đối với tư cách quốc gia chủ quyền, nhưng cũng đồng thời dẫn đến không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh và xung đột. Trước Chiến tranh thế giới thứ Hai, các chính phủ Đức và Nhật Bản đã tạo ra thứ chủ nghĩa dân tộc mang tính xâm lược rất mạnh.

Hai là chủ nghĩa dân tộc đã có sẵn trong xã hội, chính phủ hoặc chính khách đã lồng tính toán của mình vào đó để đạt được mục tiêu lợi ích như vậy.

Loại thứ hai, phản ứng của chính phủ. Loại hình này cụ thể là trong xã hội đang tồn tại sẵn tinh thần và tình cảm dân tộc, bất cứ lúc nào cũng có thể nổ ra. Trong một số tình huống, chủ nghĩa dân tộc nổ ra là phản ứng đối với một sự kiện nào đó; trong một số tình huống khác, chủ nghĩa dân tộc nổ ra, bản thân đã có thể tạo ra sự kiện. Mỗi khi nổ ra, Chủ nghĩa dân tộc đều có ảnh hưởng với cả bên trong và bên ngoài, vì thế các chính phủ không thể không có phản ứng.

Loại thứ ba, Chính phủ lợi dụng chủ nghĩa dân tộc để chứng minh cho sự hợp lý trong chính sách của mình. Loại hình này là ở giữa hai loại hình nói trên. Nếu chủ nghĩa dân tộc trở thành một kiểu tồn tại khách quan, sẽ không có chính phủ nào có thể hoàn toàn coi thường sự tồn tại đó, cho dù đó là Chính phủ dân tộc hay là Chủ nghĩa quyền uy. Đã là tồn tại khách quan thì ở mức độ nào đó, các chính phủ sẽ đều phải lợi dụng nguồn lực của chủ nghĩa dân tộc để chứng minh cho tính hợp lý trong một số chính sách của mình.

Xét từ ba loại hình quan hệ giữa chính phủ với chủ nghĩa dân tộc nói trên, có thể thấy được xu hướng phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở các nước châu Á. Ở Trung Quốc, tính chất hợp lý trong chính sách của Chính phủ chủ yếu không nằm ở ý dân, đặc biệt là ý thức dân tộc của dân chúng. Chính phủ vẫn có tính tự chủ rất mạnh để xử lý mối quan hệ với chủ nghĩa dân tộc. Trong thực tiễn quả đúng như vậy. Trong thời đại Mao Trạch Đông, bởi quốc gia yếu nên chủ nghĩa dân tộc thuộc loại hình chính phủ huy động, điều này được thể hiện đặc biệt rõ trong phương diện chống các bá quyền Mỹ và Liên Xô. Nhưng từ khi cải cách mở cửa đến nay, Chính phủ Trung Quốc nhắm vào chủ nghĩa dân tộc chủ yếu là tăng cường quản lý và kiểm soát. Trung Quốc mặc dù cũng đã trải qua phong trào yêu nước, cũng đã có ảnh hưởng đối với chủ nghĩa dân tộc về phương diện xã hội, nhưng mục tiêu chính của Chủ nghĩa yêu nước là ổn định nội bộ chứ không phải với bên ngoài. Xét từ góc độ chính phủ thì chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc phần lớn là có tính chất phản ứng, tức phản ứng đối với chủ nghĩa dân tộc trên bình diện xã hội.

II- Chính phủ Trung Quốc kiểm soát và quản lý chủ nghĩa dân tộc

Là nước lớn đang trỗi dậy, chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc hiện nay càng ngày càng thể hiện rõ tính tự phát. Cũng có thể nói chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc hiện nay đã biến thành một hình thức tồn tại khách quan. Chính phủ quả thực có khả năng lợi dụng chủ nghĩa dân tộc để chứng minh cho tính hợp lý của chính sách, nhưng ở phương diện này Chính phủ Trung Quốc hết sức tự kiềm chế.

Từ trung ương đến địa phương, không có một chính khách nào có thể ngang ngược huy động chủ nghĩa dân tộc để lồng mục đích của mình vào đó. Ngược lại, biện pháp mà Chính phủ vận dụng nhiều hơn với chủ nghĩa dân tộc là kiểm soát và quản lý. Cũng chính vì vậy nên Chính phủ Trung Quốc thường bị những người theo chủ nghĩa dân tộc ở trong và ngoài nước phê phán, thậm chí còn bị công kích. Trên thực tế, bởi Chính phủ thiếu sự tham gia và chỉ dẫn đối với chủ nghĩa dân tộc nên chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc ngày càng biểu hiện rõ hơn mặt tình cảm mãnh liệt của nó. Thực tế nói trên khiến cho chủ nghĩa dân tộc có thể sinh ra tính phá hoại rất lớn, đồng thời cũng làm cho áp lực đối với chính phủ tăng lên rất mạnh. Vì vậy, Chính phủ Trung Quốc có thể làm được nhiều hơn, khiến chủ nghĩa dân tộc trở nên lý tính hơn, làm tăng thêm lợi ích cho quốc gia.

Khác với Trung Quốc, Chính phủ Nhật Bản ngày càng thể hiện loại hình huy động đối với chủ nghĩa dân tộc. Cũng giống như rất nhiều nước phát triển, dân chủ đại chúng ở Nhật Bản càng ngày càng khó sản sinh ra được một chính phủ mạnh. Do đòi hỏi của chính trị, các chính trị gia của Nhật Bản thường lấy cớ dân chủ, sử dụng phương thức chính trị theo chủ nghĩa dân túy để huy động nguồn lực của chủ nghĩa dân tộc trong xã hội. Kết quả là, vật hy sinh thường là quan hệ của Nhật Bản với nước khác, đặc biệt là quan hệ với các nước láng giềng như Trung Quốc, Hàn Quốc.

Thực tế này đã diễn ra liên tục suốt từ thời của Junichiro Koizumi đến nay chưa bao giờ ngắt quãng. Tình hình của Nhật Bản hiện nay là dù đảng cầm quyền hay đảng đối lập, dù chính trị gia ở trung ương hay ở địa phương, dù chính phủ hay người dân, tất cả đều có khả năng rất lớn để đặt mục đích của mình vào chủ nghĩa dân tộc. So với Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc ở Nhật Bản có động lực lớn hơn. chủ nghĩa dân tộc ở Nhật Bản mạnh lên lại tất yếu kích thích chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Về quan hệ giữa dân chủ đại chúng và chủ nghĩa dân tộc, Hàn Quốc cũng tương tự Nhật Bản, tức chính phủ càng yếu lại càng dựa vào chủ nghĩa dân tộc. Trong quan hệ với Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc ở các nước Việt Nam, Philíppin cũng đang mạnh lên. So với Trung Quốc, các nước này là nước nhỏ đang phát triển, đồng thời Chính phủ các nước này cũng yếu hơn Chính phủ Trung Quốc rất nhiều. Vì thế Chính phủ các nước này phải huy động chủ nghĩa dân tộc để có được tính hợp pháp của chính phủ, trong khi làm hòa hoãn mâu thuẫn trong nước cũng đồng thời gây tổn hại đến quan hệ với Trung Quốc. Điều quan trọng hơn nữa là, chủ nghĩa dân tộc nhắm vào Trung Quốc ở các nước này thường lôi kéo một nước lớn khác là nước Mỹ vào, trong khi Mỹ xuất phát từ nhu cầu địa-chính trị nên thường hùa vào thêm, làm cho tính chất quốc tế của chủ nghĩa dân tộc ở các nước này phức tạp hơn.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chính phủ các nước có xu hướng yếu đi, một số chính phủ yếu đi nhanh hơn so với một số chính phủ khác. Thời đại này về lý thuyết vẫn nói là thời đại của quốc gia chủ quyền, nhưng chính phủ của quốc gia chủ quyền đã rất khó kiểm soát được dân chúng do mình quản lý như trong truyền thống. Đồng thời lực lượng xã hội tăng nhanh, ngày càng đóng vai trò quan trọng trên vũ đài chính trị thế giới.

Có điều, chủ nghĩa dân tộc trong xã hội có thể dẫn đến tranh chấp và xung đột giữa các nước, nhưng trong nhân dân không có khả năng để giải quyết những tranh chấp và xung đột quốc tế, cuối cùng vẫn phải nhờ đến chính phủ của quốc gia chủ quyền. Vì thế, giữa các chính phủ quốc gia chủ quyền lại càng phải hợp tác, phải xử lý vấn đề chủ nghĩa dân tộc ở nước mình bằng lý tính nhiều hơn chứ không phải xuất phát từ tư lợi để huy động chủ nghĩa dân tộc một cách không có trách nhiệm, đơn giản đổ trách nhiệm cho nước khác, đặc biệt đối với Chính phủ Trung Quốc với tư cách là một Trung Quốc “lớn”, “mạnh” và “phi dân chủ” trong con mắt của họ.

Dù nói về kinh nghiệm lịch sử hay thách thức hiện thực, làm thế nào để đối phó với chủ nghĩa dân tộc tồn tại khách quan, đó vẫn là một nhiệm vụ khó khăn đối với tất cả chính phủ ở các nước. Nếu chủ nghĩa dân tộc vượt quá tầm kiểm soát và mạnh lên đến mức độ nào đó thì chắc chắn sẽ bị lực lượng chính trị cấp tiến ở các nước kìm lại, tiếp nữa là gây sức ép với cả chính quyền, từ đó khiến cho chủ nghĩa dân tộc đi đến chỗ xung đột, thậm chí là chiến tranh giữa các nước mà không có đường lùi.

Tác giả Trịnh Vĩnh Niên làViện trưởng Viện Đông Á – Đại học quốc gia.

Theo Báo “Thanh niên Trung Quốc” (ngày 23/8)

Nhật Linh (gt)