Tranh chấp quốc tế về chủ quyền lãnh thổ đang diễn ra trên Biển Đông khiến nhiều người gợi nhớ đến câu ngạn ngữ xưa: "Khi sự thật đứng về phía bạn, hãy chỉ nói sự thật. Khi luật pháp đứng về phía bạn, hãy chỉ nói về luật pháp. Khi cả sự thật và luật pháp đều không thuộc về bạn, hãy tìm cách thảo luận." Bắc Kinh đang sử dụng tất cả các phương pháp tiếp cận cùng một lúc nhưng với khuynh hướng đầy tham vọng – khi họ tranh luận với các bên về đảo, họ đang đồng thời xây dựng nên các đảo nhân tạo ở Biển Đông.

Một trường hợp điển hình đó là dự án lớn cải tạo đảo đá Gạc Ma (Johnson South Reef) trong khu vực tranh chấp rộng 7,2 km2 (4,5 dặm vuông) tại quần đảo Trường Sa. Hình ảnh chụp được vào tháng 3 năm 2012 cho thấy Trung Quốc đang tạo ra một hòn đảo rộng 30 hecta phía trên một rạn san hô ngập nước bằng cách nạo vét các vật liệu dưới đáy biển và đổ lên đảo bằng đường ống và xà lan. Bên cạnh các bệ thông tin liên lạc được xây dựng sau khi Trung Quốc chiếm đảo từ Việt Nam năm 1988 (làm chết 64 thủy thủ Việt Nam), trong hai năm gần đây, Trung Quốc dường như đã thiết lập thêm các trạm radar, thiết bị thông tin vệ tinh, súng hải quân và súng phòng không, một sân bay trực thăng, một cảng tàu, và thậm chí cả một tua-bin gió. Tuần báo quốc phòng IHS Jane và các nhà quan sát khẳng định rằng Trung Quốc sẽ xây dựng đường băng đầu tiên ở quần đảo Trường Sa trên rạn san hô này.

Việc cải tạo biển của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở Đá Gạc Ma (Johnson South Reef), trên thực tế đây có thể mới chỉ là bắt đầu. Hình ảnh vệ tinh đã xác nhận hoạt động nạo vét tương tự, mặc dù ở quy mô nhỏ hơn, tại ba thực thể khác trong quần đảo Trường Sa: Đá Châu Viên (cực Nam của dự án cải tạo của Trung Quốc), Đá Gaven, và Đá Cô Lin. Tuy nhiên Đá Chữ Thập lại được tập trung nhiều hơn cả. Tuyên bố năm 1987 của Bắc Kinh rằng họ sẽ thiết lập một "trạm quan sát đại dương" thay mặt cho UNESCO đã góp phần dẫn đến cuộc đánh chiếm gần Đá Gạc Ma năm 1988. Đảo này được xem là cơ sở cho các nỗ lực cải tạo của Trung Quốc và hiện đã trở thành một thực thể nhân tạo rộng tới tám cây số vuông (năm dặm vuông) với một cầu cảng, sân bay trực thăng, pháo phòng thủ bờ biển và đồn trú thủy quân lục chiến. Hiện đang có tin đồn rằng Trung Quốc đang trong quá trình xây thêm một đường băng và mở rộng bến cảng, và cuối cùng có thể biến Đảo Chữ Thập thành một căn cứ quân sự có kích thước gấp 2 lần Diego Garcia, căn cứ quân sự chính của Mỹ ở Ấn Độ Dương. Nó có thể trở thành một trung tâm chỉ huy và kiểm soát của hải quân Trung Quốc và từ đó thiết lập khu vực nhận diện phòng không (ADIZ) tương tự như họ đã làm trên Biển Hoa Đông năm 2013. Chiến lược gia nổi tiếng Trung Quốc , ông Jin Canrong cho biết rằng việc xây dựng tại Đá Chữ Thập là một "dự án xây dựng trên biển" phức tạp và quy mô cuối cùng của công trình này phụ thuộc vào kết quả công việc cải tạo tại bãi đá Gạc Ma. Một kế hoạch ​​như vậy sẽ rõ ràng đòi hỏi các nguồn lực của trung ương, và ông cho rằng kế hoạch đã được đệ trình Quốc vụ Viện Trung Quốc để được phê duyệt.

Tuy nhiên, bất chấp việc của truyền thông và các chuyên gia Trung Quốc nói gì, thì mục đích thực sự của Bắc Kinh nhằm củng cố yêu sách ở Trường Sa chỉ nhằm trong suy đoán. Bắc Kinh đã từ chối cung cấp các thông tin chi tiết và xác thực, để có thể xua tan các giả thuyết và làm rõ mục đích và phạm vi hoạt động của Trung Quốc. Khi được phóng viên hỏi về kế hoạch cải tạo đảo đá, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh trả lời "Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi ở Trường Sa bao gồm cả Gạc Ma và vùng nước tiếp giáp. Bất cứ công trình nào Trung Quốc đang triển khai tại Gạc Ma đều hoàn toàn nằm trong chủ quyền của Trung Quốc". Tuy nhiên, trên thực tế, bằng việc tạo ra hiện trạng mới, Bắc Kinh đang mở rộng lãnh thổ mà họ kiểm soát và thay đổi theo đúng nghĩa đen cấu trúc an ninh trong khu vực Biển Đông.

HIỆN TRẠNG KHU VỰC

Trung Quốc yêu sách chủ quyền toàn bộ quần đảo Trường Sa và một vùng có diện tích 820.000 km2. Quần đảo này chứa hơn 550 đảo, bãi cát, rạn san hô, và bãi cát ngầm, phần nhiều trong số đó cũng được yêu sách một phần hoặc toàn bộ bởi Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam. Không kể Đài Loan thì yêu sách của Trung Quốc thậm chí chạm tới các đảo san hô ở cực bắc có khoảng cách gần với bờ biển của các bên tranh chấp hơn là với Trung Quốc đại lục.

Mặc dù Trung Quốc rất thận trọng khi đưa ra những tuyên bố chính thức về việc cải tạo đất tại Trường Sa, việc Bắc Kinh từ lâu đã cố gắng để tăng cường và chiếm đóng từng đảo, đá mà họ yêu sách ở Biển Đông không còn là điều bí mật. Trung Quốc đã thiết lập các đơn vị đồn trú có người (điều khiển) trên bảy trong số hàng trăm thực thể ở Trường Sa. Hiện các đơn vị đồn trú trên Đá Chữ Thập và Đá Subi, mỗi đơn vị đều được trang bị các khả năng giám sát bằng rađa khác nhau, có sức chứa khoảng 100-200 quân. Cách đây vài năm, thậm chí còn có một triển lãm ảnh tại Bảo tàng Hải quân Thượng Hải trưng bày thiết bị đào đất và đầm nén quy mô nhỏ trên một trong những quần đảo Trường Sa.

Tuy nhiên, sẽ là bất công nếu chỉ nhằm vào các hành động gần đây của Trung Quốc mà không nói tới hành động của các bên yêu sách khác. Nhìn lại lịch sử sẽ cho thấy mặc dù các hành động của Trung Quốc hiện nay là đáng lo ngại, nhưng Trung Quốc chưa hẳn là người đầu tiên khởi xướng trào lưu này. Ví dụ, Việt Nam giành lại đảo Song Tử Tây từ Philippines năm 1975, và kể từ đó Việt Nam đã xây dựng một cảng biển và các thực thể khác. Tổng cộng Việt Nam đang kiểm soát 29 đảo và đá ở Trường Sa. Trong khi đó, căn cứ Hải quân Lima của Malaysia trên đá Hoa Lau (Swallow Reef) là kết quả của những nỗ lực cải tạo rất lớn sau khi Kuala Lumpur chiếm đá này vào năm 1983. Năm 2008, Đài Loan đã hoàn tất việc xây dựng đường băng trên đảo Ba Bình, đảo lớn nhất trong nhóm các đảo Trường Sa, mà Đài Bắc chiếm đóng năm 1955 và trên đó hiện đã có một đơn vị đồn trú hải quân lớn và một trạm radar. Ngoài ra, Philippines chiếm mười thực thể ở Trường Sa và đang có kế hoạch xây dựng một sân bay và cảng biển trên đảo Thị Tứ. Trung Quốc chắc chắn không phải là bên yêu sách duy nhất không có đường băng ở Trường Sa, tuy nhiên thì điều này cũng sẽ không còn tồn tại lâu nữa.

Dù vậy, tuy là người đi đầu hay là kẻ đến sau trong công cuộc cải tạo đất, thì rõ ràng Trung Quốc là bên yêu sách duy nhất mà tiềm lực kinh tế có thể hỗ trợ cho các dự án xây dựng này, họ không cần sử dụng vũ lực nhưng vẫn làm thay đổi đáng kể hiện trạng tại đây. Phải thừa nhận rằng, rất khó để tìm thấy dữ liệu đáng tin cậy về việc các bên khác đã nạo vét hay theo đuổi một chiến thuật xây dựng đảo tương tự như Trung Quốc. Nhưng nếu nhìn vào nguồn lực kém hơn nhiều của các bên tranh chấp khác thì có thể thấy không một quốc gia nào có thể hoặc sẽ cạnh tranh được với Trung Quốc trong các nỗ lực xây dựng đảo hiện nay. Ví dụ, Trung Quốc có thể đầu tư hơn 5 tỷ USD trong hơn mười năm để cải tạo đất ở Gạc Ma; trong khi đó ngân sách quân sự của Philippines 2014 ít hơn 2 tỷ USD. Tàu nạo vét Tian Jing Hao của Trung Quốc, là loại tàu nạo vét lớn nhất châu Á và cũng là vũ khí chính của họ trong việc xây dựng đảo, có chi phí chế tạo xấp xỉ 130 triệu USD - gần ba phần tư chi phí Việt Nam trả cho Nga để xây dựng một đơn vị tàu khu trục lớp Gepard, loại tàu chiến tiên tiến nhất của nước này.

ĐIỀU NÀY CÓ Ý NGHĨA GÌ?

Vậy hệ luỵ của việc xây dựng đảo quy mô lớn của Trung Quốc là gì? Một số nhà quan sát quốc tế cho rằng, ngoài việc khẳng định chủ quyền thực tế, thì những nỗ lực của Trung Quốc trong việc xây dựng trên các rạn san hô và cấu trúc đá là nhằm mục đích củng cố yêu sách vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý tính từ bờ biển và từ tất cả các đảo của nước này dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Tuy nhiên điều này có vẻ khó xảy ra. Theo Điều 60 của UNCLOS nêu rõ rằng các cấu trúc nhân tạo không được coi là đảo và sự tồn tại của nó không ảnh hưởng đến việc phân định lãnh hải, đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Mặc dù Trung Quốc về mặt lý thuyết có thể tranh luận rằng các thực thể này được xây dựng trên các cấu trúc đảo tự nhiên tồn tại trước đó, các quốc gia khác chắc chắn sẽ phản bác luận điệu này, và họ có thể cung cấp các hình ảnh để chứng minh điều đó. Bản thân Trung Quốc đã chỉ trích hành vi tương tự của Nhật Bản trên đảo san hô Okinotorishima trong vùng biển Philippines.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đắp cát xây dựng công trình trên các thực thể là vô nghĩa. Không giống như việc triển khai giàn khoan HaiYang ShiYou (HYSY) 981 của Bắc Kinh gần đây trong vực tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam, cũng như việc đưa thêm bốn giàn khoan nữa vào Biển Đông vào cuối tháng 6, "việc xây dựng đảo" sẽ nhằm mục đích hỗ trợ cho cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự một cách lâu dài. Điều này cho phép Trung Quốc đa dạng hóa chiến lược của mình nhằm khẳng định yêu sách lãnh thổ tại Trường Sa. Một số thực thể này nằm trong vùng EEZ yêu sách bởi Philippines , và chỉ cách Philippines và Việt Nam khoảng từ 300  đến 400km (186-249 dặm).

Càng đáng lo ngại với các quốc gia khác khi mà một mạng lưới các cơ sở quân sự vững chắc ở quần đảo Trường Sa, bao gồm việc mở rộng hiện diện ở Đá Chữ Thập, sẽ giúp Trung Quốc triển khai hiệu quả khả năng thể hiện sức mạnh trong phạm vi hơn 800 km (500 dặm), là thông qua các cuộc tuần tra của lực lượng bảo vệ bờ biển trong các khu vực tranh chấp, và thậm chí là các cuộc tuần tra trên không. Tương tự như ưu thế tương đối về kinh tế, lợi thế tương đối về quy mô quân sự, mức độ hiện đại hóa và tính chuyên nghiệp cho thấy Trung Quốc là bên có yêu sách duy nhất có khả năng thiết lập phong toả thực tế cả ở trên không và trên biển thông qua mạng lưới các đảo nhỏ nằm trong khu vực biển rộng lớn như quẩn đảo Trường Sa.

Một lo ngại khác đó là việc tạo ra các hiện trạng mới trên thực tế sẽ thúc đẩy Trung Quốc đưa ra một hoặc nhiều vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông. Tuy nhiên, nếu đó thực sự mục tiêu của Trung Quốc thì sẽ có rất nhiều lý do khiến họ nên kiềm chế. Thứ nhất, việc làm này của Trung Quốc sẽ làm mất lòng nhiều nước láng giềng và các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời sẽ là cái giá cáo gấp nhiều lần so với việc thêm dầu vào lửa trong mối quan hệ vốn đã xấu giữa Trung Quốc và Nhật Bản - "kẻ thù" của Trung Quốc ở khu vực - sau khi Trung Quốc lần đầu tiên tuyên bố vùng ADIZ ở Biển Hoa Đông vào tháng 11 năm ngoái. Thứ hai, việc tuyên bố ADIZ trên toàn bộ vùng yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông có lẽ sẽ đẩy Trung Quốc vào tình huống lần đầu tiên phải xác định các toạ độ địa lý chính xác của "đường 9 đoạn" mà Trung Quốc đã vẽ trên bản đồ để yêu sách cả một vùng rộng lớn ở Biển Đông, hoặc ít nhất thì cũng phải làm rõ thêm về "đường 9 đoạn" cho tới thời điểm này.

Nhìn chung việc làm rõ "đường 9 đoạn" cùng với việc tuyên bố ADIZ thứ hai của Trung Quốc sẽ càng làm tăng áp lực lên Bắc Kinh về việc xác định rõ cơ sở cho yêu sách của mình trong khu vực - một điều xưa nay họ luôn từ chối làm vì họ không có cơ sở pháp lý nhất quán cho tất cả yêu sách đó. Ngoài ra, việc Trung Quốc tuyên bố ADIZ trên toàn khu vực yêu sách của nước này ở Biển Đông sẽ càng làm lộ rõ hạn chế của Bắc Kinh trong việc theo dõi và tuần tra phần cực nam của yêu sáchh bởi nơi này nằm rất xa so với hệ thống radar trên đất liền và các sân bay lớn của Trung Quốc. Mặc dù việc đắp đảo có thể giúp Bắc Kinh nâng cao năng lực giám sát của mình, cần phải mất nhiều thời gian để Trung Quốc có thể xây dựng khả năng tuần tra trên toàn toàn bộ khu vực Biển Đông, một tiền đề để có thể thực sự thực thi ADIZ trong tương lai.

Cuối cùng, và cũng có lẽ là đáng lo nhất, mặc dù Trung Quốc có thể đã không mở chiếc hộp cát Pandora (Pandora's sandbox - hàm ý Trung Quốc không phải là bên đầu tiên khởi xướng việc xây dựng và đắp đảo), nhưng việc đào bới trên quy mô lớn hiện nay dẫn đến gia tăng chạy đua vũ trang ở vùng biển vốn đã rất nhạy cảm. Các quốc gia khác trong khu vực không theo kịp quy mô xây dựng đầy tham vọng của Bắc Kinh, nhưng họ - đặc biệt là Philippines và Việt Nam - chắc chắn sẽ tìm cách để bảo vệ yêu sách của mình một cách sáng tạo hơn. Điều này càng cho thấy tương lai của vùng biển Trường Sa chắc chắn sẽ không hề bình yên.

TRANH CHẤP LÃNH THỔ

Trước viễn cảnh tương lai nhiều xáo trộn, cộng đồng quốc tế cấn tiến hành nghiên cứu có với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin về cải tạo đảo để có cái nhìn rõ hơn về các bên có khả năng xây dựng các công trình như vậy đặc biệt là ở Biển Hoa Đông và Biển Đông; bên nào đã hoặc đang tiến hành; mức độ khó khăn và tốn kém của việc xây dựng công trình trên đảo; và cũng như sức chịu đựng của các đảo nhân tạo này đến đâu ở khu vực tập trung nhiều bão như nơi đây. Trả lời được các câu hỏi này sẽ giúp cho các nước quan tâm trong và ngoài khu vực hiểu rõ hơn về những hệ quả trung và dài hạn của chiếc hộp cát Pandora của Trung Quốc ở Trường Sa, cũng như dự đoán những phản ứng đáp trả của các nước láng giềng

Cộng đồng quốc tế cũng sẽ cần phải xem xét những hệ luỵ của chiến lược xây dựng đảo của Trung Quốc từ góc độ luật pháp quốc tế. Nếu chiến lược của Bắc Kinh phần nào giúp củng cố sự hiện diện và yêu sách của họ, thì việc này có thể gây ra một cuộc chạy đua vũ trang, khi các bên yêu sách khác cũng sẽ củng cố các thực thể mà họ đang kiểm soát bằng việc đắp đảo, xây dựng công trình và bố trí tàu ở các thực thể đảo này. Điều này có thể sẽ làm suy yếu sự vai trò vốn khiêm tốn của các quy tắc và thoả thuận mang tính quốc tế như UNCLOS.

Chắc chắn một điều rằng, Trung Quốc, cũng giống như các quốc gia khác trong khu vực vẫn còn đối mặt với những hạn chế không thể tránh khỏi về khả năng đấu tranh đòi yêu sách lãnh thổ trên biển bất chấp lợi thế triển khai nạo vét và khoan vượt trội so các nước láng giềng yếu hơn. Việc bỏ tiền đắp cát trên các thực thể đảo của Trung Quốc tiến hành đằng sau việc Trung Quốc bất ngờ triển khai dàn khoan dầu gần quần đảo Hoàng Sa, cũng sẽ phải đối mặt với các rào cản mang tính chính trị và pháp lý sẽ góp phần ngăn cản các hành động quyết đoán hơn nữa của Trung Quốc.

Hiện giờ vẫn còn quá sớm để xếp việc xây dựng đảo ngang hàng những thành tựu nổi trội trong lịch sử khi mà Trung Quốc đã từng chinh phục các điều kiện địa lý bất lợi như xây dựng Vạn Lý Trường Thành và kênh đào Đại Vận Hà. Tuy nhiên chiến lược xây dựng công trình đảo hiện nay là một bằng chứng cho thấy tư duy sáng tạo của Bắc Kinh trong việc giải quyết các mối lo ngại về an ninh. Chúng ta hãy tiếp tục đón chờ những thay đổi hiện trạng trên thực địa sẽ còn xuất hiện trên khu vực Biển Đông vốn nhiều biến động.

Bài viết của tác giả Andrew Erickson, Giáo sư trường Đại học Hải chiến Hoa Kỳ và Austin Strange, nghiên cứu sinh tại Đại học Harvard, đăng trên trang mạng Foreign Policy

Thu Hương (dịch)

Kinh Minh (hiệu đính)